Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

Điển tích

Trong đời sống, chúng ta thường bắt gặp những thành ngữ như: Giấc Nam Kha, Tây Thi, Nguyệt Lão, Liễu Chương Ðài ... hoặc Prômêtê, Gót Asin, Hồng Thủy ... hoặc Tú Bà, Chí Phèo, Xuân Tóc Ðỏ ... Ðó là những Ðiển tích, lấy trong văn hóa cổ, kim của Trung Quốc, phương Tây, Việt Nam, thường là những tên người, tên đất, những hình tượng văn học trong thần thoại, truyền thuyết, văn học, lịch sử ..., đầy tính thơ ca và chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa. Với mong muốn làm phong phú thêm vốn sống của bạn đọc, góp phần nhỏ bé nâng cao trình độ hiểu biết văn hóa nhân loại, chuyên mục "Ðiển tích Văn học" ra đời với mục đích ấy, mời các bạn đến với chuyên mục của chúng tôi!

GIA GIA
Vua Trụ, cuối đời nhà Thương, bị nhân dân oán hờn; xã hội tan hoang; gia đình tan nát; bọn quan lại, cường hào hoành hoành dã man. Một chư hầu là Văn Vương, một người tài đức vẹn toàn được Khương Tử Nha đầy tài năng phò tá; nhân dân no ấm, tự do. Ðến tuổi già, Văn Vương chết, truyền ngôi cho con là Võ Vương. Võ Vương tài năng, đức độ lớn, bàn với triều thần mang binh sang đất Trụ, cứu giúp nhân dân nước đó khỏi ách thống trị tàn bạo của Vua Trụ. Bá Di và Thúc Tề can ngăn, cho rằng Võ Vương cha mới qua đời, hành động như thế là bất hiếu; và giết Vua, như thế là bất trung. Võ Vương đáp: "Hàng vạn con người đã bị Vua Trụ giết chết, trăm vạn con người đang bị huỷ diệt dần mòn trong đói khổ và gông cùm. Ta chẳng thể ngồi yên chịu bó tay. Trung nào bằng trung với dân với nước, hiếu nào bằng để tiếng thơm cho cha". Các quan trung nghĩa trong triều đồng tình: phải giết Vua Trụ, cứu dân khỏi cảnh lầm than. Riêng Bá Di và Thúc Tề khăng khăng một mực kết án Võ Vương là phản bội Chúa.
Võ Vương kéo đại quân sang đất Vua Trụ trừng phạt bạo chúa. Vua Trụ thua trận, đốt lửa tự thiêu. Võ Vương được toàn dân tôn làm Vua, lập thành nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề vô cùng hổ thẹn: hai ông tuyên bố không chịu ăn cơm gạo nhà Chu, rồi bỏ lên núi. Hai ông ăn rau vi để sống. Một hôm, có người gặp hai ông trên núi, bảo: "Cơm gạo là cơm gạo nhà Chu, đất đai cũng là đất đai nhà Chu; hai ông chê cơm gạo nhà Chu không ăn, sao lại ăn rau vi mọc trên đất nhà Chu?". Bá Di, Thúc Tề cho là phải; hai ông nhịn ăn, nhịn uống, chẳng bao lâu thì chết, lòng vẫn u uất. Oan hồn hai ông biến thành một con chim kêu ra rả: "Bất thực túc Chu gia... Bất thực túc Chu gia... Chu gia...gia, gia..." có nghĩa là "Không ăn lúa nhà Chu... Không ăn lúa nhà Chu..." và tiếng cuối cùng "gia gia" âm vang trong núi. Mọi người bảo đó là con chim đa đa còn đầy uất hận
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tự trách mình.
Tương truyền Lê Quý Ðôn lúc nhỏ rất thông minh nhưng tính khí lại rất ngỗ ngược, vì thế đã làm cho cha mẹ ông phải nhiều phen bực dọc.
Một hôm, ông cởi truồng đi tắm. Tình cờ giữa đường gặp quan thượng hỏi thăm vào nhà cha mình là Trung hiếu Lê Trọng Thứ; ông liền đứng dạng hai chân ra bảo quan thượng rằng: "Ðố ông biết chữ gì đây?. Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông vào nhà".
Ông kia thấy đứa trẻ hỗn xược, giận tím mặt không thèm nói gì cả. Lê Quý Ðôn mới cười vang lên mà rằng:
"Chữ thái, thế mà cũng không biết!"
Thấy đứa trẻ quá ngỗ ngược, ông quan ngạc nhiên lắm, sau hỏi ra mới biết là con Trung hiếu công. Lúc vào chơi nhà, ông thượng đem chuyện ấy ra phàn nàn. Trung hiếu công bèn gọi Lê Quý Ðôn lên mắng rằng: "Mày là thằng rắn mày rắn mặt, phải vịnh một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì tao đánh đòn"
Lê Quý Ðôn vâng lời, làm ngay bài thơ Nôm như sau:
"Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn mà biếng học chẳng ai tha,
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối
Lằn lưng cam chịu dấu roi tra
Từ rày Trâu, Lỗ chăm nghề học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia"
Bài thơ vừa ra giọng tự trách mình lại vừa có ý nêu tên một số loại rắn (liu điu, hổ lửa, mai gầm, ráo, thằn lằn, trâu, hổ mang...) vậy mà đọc vẫn không thấy gì gượng gạo. Ông thượng thấy Lê Quý Ðôn mới tí tuổi mà đã tài như thế, bao nhiêu bực tức đều tiêu tan hết, tấm tắc khen mãi không thôi.


Dương Quý Phi
Trong "Giấc mộng con" viết năm 1917, Tản Ðà kể một cuộc du hành tưởng tượng "lên trời"; nhà thơ gặp Dương Quý Phi khen nhà thơ hiểu tâm sự nàng với mấy câu thơ:
"Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn
Cố cung tưởng lại muôn vàn ái ân"

Xuân Diệu viết trong bài thơ "Nhị hồ":
"Tôi tưởng tôi là Ðường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi".

Xưa, Ôn Như Hầu viết:
"Dẫu mà tay múa miệng xang
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trong trăng"

Và trong "Bích câu kỳ ngộ":
"Ðong đưa khoe thắm, đua vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha"...

Dương Quý Phi, Ðường Minh Hoàng, Nghê thường... những điển tích ấy xưa và nay được sử dụng nhiều trong văn học Việt nam.
Vua Ðường Minh Hoàng là một ông Vua tài tử, say mê người đẹp và những cuộc vui chơi xa xỉ. Sau khi cung nữ Vũ Huệ Phi chết, Vua không thể nguôi thương nhớ. Người võ vàng, sức khoẻ giảm sút nhanh chóng. Một đại thần đưa mỹ nữ Dương Quý Phi vào cung hầu Vua. Ðường Minh Hoàng vừa nhác thấy nàng đã say đắm sắc đẹp tuyệt vời của nàng...
Tên nàng là Dương Ngọc Hoàn, người tỉnh Tứ Xuyên (Trung quốc), thuộc dòng dõi trâm anh. Nàng có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, có tài ca múa làm say mê lòng người. Vua Ðường Minh Hoàng lập nàng làm Quý Phi, phong cho cha nàng là Dương Huyền Diễm một chức lớn trong triều, ban cho ba chị gái nàng những danh hiệu phu nhân cao quý, và phong cho người anh họ nàng là Dương Quốc Trung là Tể tướng. Vua giao cho một tướng Phiên là An Lộc Sơn chỉ huy một lực lượng quânlớn; An Lộc Sơn tha hồ hoành hoành trong triều đình. Vua đắm đuối cùng Dương Quý Phi trong yến tiệc, vui chơi suốt ngày đêm. Sách chép những cuộc ăn chơi vô cùng xa xỉ của Ðường Minh Hoàng và Dương Quý Phi: Ðộng núi Quái Nham là một cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, cỏ mượt như thảm nhung, hoa thơm, cây lạ, chẳng vườn Thượng uyển nào sánh kịp. Muốn vào động, phải leo núi Quái Nham chênh vênh, bờ dốc đứng. Vì vậy, phải làm một thang máy, tốn kém vàng bạc không kể xiết và hàng trăm người thợ đã bỏ mình nơi đó. Trong động, Ðường Minh Hoàng cho hoạ và khắc hàng chục bức về Dương Quý Phi tắm suối. Theo truyền thuyết, một đêm Trung thu, Ðường Minh Hoàng dưới trăng sáng lồng lộng, ước được lên cung trăng thăm cảnh đẹp. Một đạo hoá phép làm một cái cầu bằng lụa, đưa Vua lên cung Nguyệt. Cung điện toàn vàng bạc, kim cương lấp lánh. Trong tiếng nhạc tiên, các thiếu nữ đẹp như thiên thần múa một điệu múa kỳ diệu; các thiếu nữ mặc xiêm đủ các màu cầu vồng rực rỡ. Trở về trần thế, vua Ðường Minh Hoàng nhớ điệu vũ, nghĩ ra khúc "Nghê thường vũ y" (Nghê: cầu vồng; thường: xiêm y; vũ y: áo dệt lông chim. Theo các nhà khảo cổ học, khúc "Nghê thường vũ y" nay là một điệu múa nhập vào Trung Hoa từ Tân CƯƠNG VÀ ẤN §Ộ). MỖI NĂM, NGÀY RẰM TRUNG THU, §ƯỜNG MINH HOÀNG VÀ DƯƠNG Quý Phi uống rượu dưới trăng lồng lộng, suốt đêm xem các cung nữ múa điệu Nghê thường.
Vì Vua ăn chơi như vậy, triều đình suy yếu, lộn xộn, Dương Quốc Trung âm mưu phản nghịch. Song, trước hết, phải diệt An Lộc Sơn. Biết bí mật này, An Lộc Sơn bỏ trốn, chiêu mộ binh, rồi đánh vào kinh đô Trường An. Quân của triều đình đại bại. Vua cùng Dương Quý Phi và tàn quân chạy sang đất Thục. Giữa đường, quânlàm binh biến giết chết Dương Quốc Trung và ép buộc nhà Vua phải giết Dương Quý Phi, nguyên nhân của loạn lạc và đau khổ này. Vua phải nghe theo mới toàn tính mệnh. Người đẹp bị bức tử ở tuổi ba mươi tám. Quân An Lộc Sơn vào thành, tàn sát nhân dân vô cùng dã man. Sau, một danh tướng giết được cha con An Lộc Sơn, thu lại giang sơn cho nhà Ðường.

Ba ông tam thế
Ðời Vua Lê Thánh Tông có 3 người cùng đỗ tiếnmột khoa là Thế Lịch, Thế Hiển và Thế Vinh.Tương truyền trước hôm truyền loa, vua nằm mộng thấy ba ông Phật thế tôn. Hôm sau, ba ông tân khoa vào lĩnh mũ áo, vua cho là ứng với mộng của mình, sai đặt tiệc thết đãi và đọc một câu rằng:
Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, tam thế đồng khoa vinh hiển lịch.
nghĩa là:
Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, ba ông Thế đỗ một khoa cùng vẻ vang, rạng rỡ.
Khi vinh quy bái tổ, ba người lại cùng về một đường. Thiên hạ thấy vậy, nô nức kéo mhau đi xem. Ðến Nam Lạng, huyện Trực Ninh, Tỉnh Nam Ðịnh, người bạn cũ của Thế Lịch là Phạm Văn Uyển ra đón, có đọc mừng một bài thơ như sau:

Ba ông tam thế hoá trên toà,
Khéo rủ nhau vào đỗ một khoa
Như vậy bụt no nhờ có oản,
Chẳng thời bụt đói bụt ra ma.

Thế Lịch nghe xong, cười mà hoạ rằng:
Có tu bụt mới hoá trên tòa,
Một tháng hai lần diễn giáo khoa
Bụt vẫn ăn chay không sợ đói,
Bụt đâu có bụt hoá thành ma?


Mạc Ðỉnh Chi
Chơi Chữ
Một lần nọ, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ liền viết bốn câu thơ sau và thách Mạc Ðỉnh Chi giải:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ

Có nghĩa là: Một mặt đôi mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày ba lần.
Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Ðỉnh Chi chỉ đưa mắt ngó qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát. Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét to một nét nhỏ; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám cũng đồng âm với chữ bát là bát đựng đồ ăn.; do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.
Thế là cả mấy lần chơ chữ, đều bị Mạc đỉnh Chi đối đáp trôi chảy cả, NGƯỜI NGUYÊN LẤY LÀM PHỤC ÔNG LẮM. HỌ THƯỜNG CÓ Ý VÍ ÔNG VỚI ÁN TỬ- ĐỜI XUÂN THU, TUY TƯỚNG MẠO chẳng bằng ai, nhưng tài trí thì chẳng ai bằng.


Cây nêu ngày Tết
Ngày Tết Nguyên đán, ở nông thôn, trước đây, nhà nào cũng có cây nêu trước cổng để trừ ma tà, quỷ quái. Cây nêu làm bằng cây tre, trên đỉnh có buộc một bó lá hoặc cành đa, thêm một hình cung tên, hướng mũi nhọn về phía Ðông.
Cành đa lá dứa treo cao,
Vôi bột rắc ngõ, chớ trêu mọi nhà
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.
(Ca dao)

Ngày xưa, Quỷ sống chung với Người. Quỷ lấn đất của Người, chúng bắt Người làm thuê và đòi chia hoa lợi. Năm ấy, lúa nẩy hạt, Quỷ đòi ăn ngọn, trả người gốc. Người bị cướp hết thóc, chết đói như rạ. Phật thương, giúp Người chống lại Quỷ. Phật bảo Người trồng khoai lang. Ðến mùa, theo luật "ăn ngọn, cho gốc" Quỷ bị lấy toàn lá khoai, ức lắm nhưng không làm gì được. Năm sau, Quỷ đòi "ăn gốc, cho ngọn"; Người trồng lúa, Người thu hết lúa, Quỷ còn rạ, Quỷ tức sôi lên, mùa tới đòi ăn "cả gốc lẫn ngọn". Phật bèn cho Người hạt ngô để trồng. Hoa lợi lại về tay Người, Quỷ uất, đòi lại tất cả ruộng đất, không cho Người làm thuê nữa.
Phật bảo Người tậu của Quỷ một miếng đất rộng bằng chiếc áo cà sa. Người trồng một cây tre, trên mắc áo cà sa, phần đất rợp bóng đến đâu thì Người sẽ lấy đất đến đó. Quỷ nhận lời.
Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn tung áo cà sa bay toả thành một miếng vải tròn; Phật hoá phép, cây cao vút lên. Bóng rợp của áo cà sa lấn dần vào đất Quỷ, Quỷ dắt nhau lùi ra tận biển Ðông.
Bị người đuổi ra biển, Quỷ tiếc đất đai, của cải nên chúng chiêu hồi ma quỷ tìm cách cướp lại đất. Phật cầm gậy xích tầm giúp Người diệt đội quân ma quỷ.
Dùng vũ lực không thắng nổi Người, Quỷ giở trò đấu trí. Quỷ tưởng Phật sợ hoa quả, oản chuối, xôi, cơm nắm, trứng luộc. Phật biết quỷ sợ máu chó, tỏi, lá dứa, vôi bột. Quỷ ném xôi, oản, chuối, cơm nắm, trứng vào Phật. Người thu lấy làm lương ăn. Người dùng tỏi, lá dứa, máu chó, vôi bột ném tung toé vào Quỷ. Lũ Quỷ gian tham chạy tán loạn. Cuối cùng, Quỷ phải vái lạy Phật, xin hàng năm được phép về đất liền thăm phần mộ tổ tiên. Vì thế, ngày Tết Nguyên đán, Quỷ thường kéo nhau về. Người trồng cây Nêu đuổi Quỷ.
Chuyện cây Nêu ngày Tết nhắc nhở mọi người sống với nhau công bằng. Người lao động phải được hưởng thành quả lao động. Những kẻ gian tham, bóc lột tước đoạt công sức lao động của người khác sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng. Ðó là ước mơ của nhân loại.

Lá gió, cành chim
Kể quãng đời oan khổ của Thuý Kiều nơi lầu xanh của Tú Bà (Truyện Kiều), Nguyễn Du viết:
"Dập dìu lá gió, cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh"

"Lá gió, cành chim" có nghĩa là việc đón đưa khách làng chơi, như lá đưa những ngọn gió qua lại, như cành đón những con chim nam bắc đi về. Sự tích như sau:
Ðời nhà Ðường (Trung quốc) ở Thành Ðô, tỉnh Tứ Xuyên, nhà nho Tiết Trịnh sinh một con gái đặt tên là Tiết Ðào. Cô bé đã xinh lại thông minh, khác hẳn các bạn trai, gái cùng lứa tuổi. Ðôi mắt cô bé đen lánh, sâu thẳm, miệng tươi hoa nở. Lúc thì cô vui tươi, hớn hở, nói cười hồn nhiên, lúc thì cô mơ mộng, như đãng trí. Cô học đâu nhớ đấy, lại hay hỏi thêm cha những điều cô nghĩ, nhiều khi rất bất ngờ. Lên sáu, cô bé đã làm thơ; thơ cô thường táo bạo, không theo khuôn sáo. Tiết Ðào lên tám; môt buổi trời thu trong sáng, hai cha con ngồi ngoài hiên nhìn cảnh đẹp. Ông Tiết Trịnh nhìn cây ngô đồng ngoài sân, thân cây vút lên trời, cành lá nhuốm vàng. Biết con hay thơ, ông cảm hứng đọc hai câu thơ tả cây ngô đồng vươn lên trời cao. Tức thì Tiết Ðào đọc tiếp hai câu thơ, ý nói
"Cánh đón chim nam bắc
Lá đưa gió lại qua"
(Chỉ nghinh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong)

Tiết Trịnh giật mình: ông lo buồn, nhìn con gái, thương xót "Con bé thế mà lời thơ đã phóng túng, lả lơi"- Ông nghĩ bụng "sau này, biết đời con sẽ thế nào?". Mấy năm trôi qua, Tiết Trịnh bị bệnh rồi qua đời. Tiết Ðào đã lớn. Cảnh nhà túng thiếu. Ðể kiếm tiền nuôi mẹ, nàng phải làm kỹ nữ. Nàng tài hoa, làm thơ, sáng tác nhạc, đàn hay, hát giỏi. Người kỹ nữ nổi danh tài sắc khắp tỉnh Tứ Xuyên, rồi từ Tứ Xuyên đến các đô thành. Nhiều chàng trai từ kinh đô đến chiêm ngưỡng sắc đẹp của nàng và nghe nàng đàn hát, rồi ra đi, bâng khuâng và buồn bã. Bởi vì Tiết Ðào không để ý đến một ai. Tài hoa và sáng tạo, nàng chế một loại giấy hoa tiên đủ các màu tươi thắm, trên vẽ cành thông, hoa sen, hoa cúc. Giấy của nàng dùng để chép thơ của nàng. Một danh nho là Nguyên Chẩn từ kinh đô đến, xin gặp nàng. Nguyên Chẩn là một người hào hoa, cùng nàng hoạ thơ, chơi cờ. Hai bên say mê nhau. Rồi chàng vội ra đi, vì việc triều đình. Biết bao nước mắt nhớ thương. Nguyên Chẩn hẹn ngày trở lại. Nhưng chàng chưa đến thì giặc tỉnh bên kéo sang đánh phá và bao vây Thành Ðô, nơi nàng ở. Vòng vây xiết chặt, không một ai qua lọt. Nguyên Chẩn, ruột nóng như lửa đốt, phái nhiều người đến Thành Ðô tìm nàng, nhưng mọi người đều trở về tay không, không một tin tức, không ai qua được vòng vây. Tiết Ðào nhớ thương người yêu. Nàng bỏ ca lâu, lui về một nơi vắng vẻ, ăn chay niệm Phật. Rồi nàng qua đời trong cô đơn.

Tai lừa
Ðiển tích "Tai lừa" hoặc "Tai vua Miđat" lấy trong thần thoại Hy Lạp, chỉ sự ngu dốt, xuẩn ngốc, do một sự phán xử ngu dại như sau:
Thần Păng có hình thù xấu xí, đầu có hai sừng dê, chân dài và cong, móng nhọn; tuy vậy, tính tình chàng vui nhộn; chàng sống nơi núi rừng, đồng cỏ; nơi non xanh, nước biếc, chàng bạn bè với những chàng mục đồng và các nàng tiên nangphơ.
Ðặc biệt, chàng có một cây sáo ghép bằng mấy ống sậy; khi tiếng sáo của chàng véo von ca hát cảnh đẹp sông núi hay rừng sồi mùa thu, khi nó nỉ non kể chuyện tự do và hạnh phúc, tình yêu và cái cô đơn, vũ trụ quanh chàng nín thở, say sưa, sung sướng hoặc khổ đau với tiếng trầm bổng của sáo.
Păng thấy tiếng sáo của mình làm say mê cỏ cây, chim muông và những chàng trai, cô gái thì rất tự hào; chàng nảy ra ý định muốn đua tài với thần Apôlông nghệtài ba của nghệ thuật âm nhạc. Apôlông vui vẻ nhận lời. Hai chàng nhờ thần Núi và Vua Mêđat xứ Phrigi làm giám khảo. Trong khi cảm hứng và hạnh phúc tràn đầy, Păng để sáo lên miệng, thổi vào cây sáo cả tâm hồn say đắm của mình; tứ bề rung động theo tiếng sáo véo von, khi nhẹ nhàng như gió thoảng, khi đồn dập như sóng vỗ. Apôlông càm cây đàn xita, khi tiếng sáo vừa dứt.
Tiếng đàn của chàng muôn ngàn màu sắc; có khi nó im bặt, rồi bỗng vang động như một khúc khải hoàn; nó não nùng gợi nhớ cảnh biệt ly của hai người tình, nó tươi thắm như đoá tầm xuân, khiến vạn vật lặng đi trong đắm say và thổn thức. Ðúng là tiếng đàn thần linh, kỳ diệu. Khi tiếng đàn xita của Apôlông vừa dứt, thần Núi không do dự tiến đến gần chàng, đội lên đầu chàng vòng nguyệt quế, giữa tiếng hò reo tán đồng của các cô gái và chàng trai.
Vua Miđat từ từ đến bên thần Păng, trao cho chàng vòng trường xuân chiến thắng giữa cái im lặng ngạc nhiên của tất cả mọi người. Hoá ra cái ông Vua Miđat giàu có ấy chẳng hiểu biết gì cả, là cả một sự ngu xuẩn. Mọi người sửng sốt, còn Apôlông thì tức điên ruột. Thần xông đến Vua Miđat, kéo tai ổng, kéo mãi, tai cứ dài ra mãi; đến khi dài như tai lừa, Apôlông mới buông tha.
Từ ngày có đôi tai lừa, Vua Miđat thấy vô cùng nhục nhã. Ông cho may cái mũ có thể che hai cái tai lừa khốn khổ khốn nạn ấy. Suốt ngày suốt đêm, ông đội mũ sùm sụp, tưởng chẳng ai biết. Song, tránh làm sao được con mắt của bác thợ cạo thường lột mũ của nhà Vua, cắt tóc, cạo râu cho Vua. Vua thưởng cho bác nhiều tiền để bác giấu kín việc Vua có đôi tai lừa; và đe doạ nếu bác để hở chuyện, sẽ bị phanh thây mổ bụng.
Bác đành nín thin thít; song bác thấy trong bụng tức anh ách, bức bối, bác chỉ cần hét lên ở quãng đồng không mông quạnh "Vua có hai tai lừa" một lần, là bác sẽ thấy nhẹ nhõm. Không được nói thì bác bực bội, như có con quỷ trong người, như không sống nổi. Nhưng ở đâu cũng có người, dù là nơi đồng không mông quạnh, biết đâu được. Một hôm, bác nghĩ ra một cách đào một cái hố sâu, rồi bác ghé miệng vào hố hét to "Vua Miđat có hai tai lừa".
Qủa nhiên từ đấy bác hả lòng hả dạ, bác như trút bỏ được cái u trong bụng. Khốn khổ thay, rễ những cây sậy ở gần cái hố đã nghe thấy; chúng ngạc nhiên rồi mỗi lần gió thổi, chúng thì thào, xào xạc kể với nhau "Vua Miđat có hai tai lừa. Vua Miđat có hai tai lừa" Thế là các bà nội trợ đi giặt ở suối qua đám sậy, nghe thấy chuyện lạ, kháo nhau "Vua Miđat có hai tai lừa.". Tiếng đồn lan ra, lan rộng mãi; thêm vào là những lời bình phẩm tai ác "Vua Miđat chỉ được cái có quyền lực, nhưng dốt nhất đời, ngu xuẩn nhất đời, ngu như lừa ấy"...
XEM TIẾP
TÁO QUÂN.
Thế gian một vợ một chồng,
Nào như Vua Bếp hai ông một bà.

(Ca dao Việt nam)
Câu ca dao trên chế giễu nhẹ nhàng Vua Bếp gồm một bộ ba vợ chồng, một vợ, hai chồng. Sự thật, chuyện Vua Bếp "hai ông một bà" là một bi kịch.
Ngày xưa, một cặp vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Gặp thời loạn lạc, người chồng đi buôn xa, không thấy về. Vợ trông ngóng ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Nàng còn trẻ đẹp. Một thân gái, làm sao sống cô độc, nhất là trong một xã hội loạn ly, quan cách thì tàn bạo, ức hiếp những kẻ yếu. Nhiều người khuyên nàng bước đi bước nữa. Có thể chồng nàng đã bỏ mình nơi xa xôi, có thể chàng đã quên tình nghĩa cũ. Nàng thương nhớ chồng, đêm đêm thường khóc một mình, thương chồng cũng có, THƯƠNG MÌNH CŨNG CÓ. ÍT LÂU SAU, MỘT BÀ HÀNG XÓM MỐI MANH MỘT ĐÁM TỬ tế, thiếu phụ xiêu lòng. Năm tháng trôi qua. Ðôi vợ chồng mới thương yêu nhau đằm thắm, cùng chung sức làm ăn, có bát ăn, bát để.
Một hôm, chàng đi gặt đồng xa; vợ ở nhà phơi rơm rạ. Một người ăn mày đàn ông chống gậy vào sân, ngồi xệp xuống đất, chìa rá xin cơm. Vốn hay thương người, lại là ngày mùa, thiếu phụ mang ra một bát cơm đầy, định sẻ vào rá, thì nàng giật mình, đứng lại nhìn kỹ: chồng nàng, chồng cũ của nàng. Không cầm được nước mắt, nàng khóc nức nở; nàng cầm tay người ăn mày, dắt vào phía trong sân; hai người ngồi bên một đụm rơm khô. Rồi nàng vào bếp lấy bát, đũa, thức ăn mời chàng ăn. Nàng vừa nhìn chồng ăn vừa khóc. Bỗng người chồng mới gánh lúa về, thiếu phụ hoảng hốt, đẩy chàng ăn mày vào đống rơm, rồi vơ rơm che thật kín. Nàng đi vo gạo mà lòng đau như cắt. Người chồng mới đặt gánh lúa ở sân, ngồi xuống cạnh đụn rơm, rồi lấy điếu cày rít một hơi dài. Không may, tàn đóm rơi vào đống rơm. Rơm bốc cháy đùng đùng. Chàng vừa kêu la, vừa cố dập tắt đống lửa. Lửa được gió, bốc càng to. Thiếu phụ chạy đến, thét một tiếng, rồi nhảy vào đống lửa bốc ngùn ngụt. Người chồng thấy vợ chết trong đống lửa đỏ, thương quá, cũng nhảy vào. Ba người cùng chết.
Ba linh hồn gặp nhau trên thiên giới. Cả ba im lặng đi gặp Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe thiếu phụ xinh đẹp kể đầu đuôi tấn bi kịch. Người thương xót phán bảo "Số phận các người thật oan khổ. Ta phong cho cả ba làm Táo Quân, coi giữ việc bếp lửa các gia đình dưới trần gian". Từ đấy, gia đình nào cũng có Vua Bếp (Táo= bếp, quân= Vua) giữ gìn bếp lửa.
Hàng năm, ở Việt nam, mỗi gia đình, ngày 23 tháng chạp, mua cá chép, làm cỗ cúng lễ Vua Bếp. Ðó là ngày Ông Táo lên chầu Giời; ông cưỡi cá chép bay lên trời, tâu với Ngọc Hoàng những việc tốt, việc xấu của gia đình ông cai quản.
Ðó là truyền thuyết VUA BẾP Ở VIỆT NAM. Ở TRUNG QUỐC, CŨNG CÓ TRUYỆN TÁO QUÂN; CÓ SÁCH CHÉP Táo quân là Hoàng đế, người sáng tạo việc nấu nướng, được phong Táo Quân; có sách ghi Thần Bếp trông coi việc bếp núc tên là Tô Cát Lộc...

TRUNG THU
Hàng năm đến ngày rằm tháng Tám, VẦNG TRĂNG TRÒN VÀNH VẠCH CHIẾU ÁNH SÁNG LỘNG LẪY XUỐNG THẾ GIAN. Ở TRUNG QUỐC, NGƯỜI TA LÀM LỄ TRÔNG TRĂNG ĐỂ ĐOÁN VẬN MỆNH QUỐC GIA, DỰ ĐOÁN NẮNG MƯA, MÙA MÀNG. ÁNH TRĂNG HUYỀN DIỆU CÒN NUÔI DƯỠNG nguồn cảm hứng thi ca.
Theo cổ học Ðông Phương, trong Ngũ Hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) Trăng thuộc thủy. Thuỷ quyết định nghề nông. Ngày rằm tháng Tám, nhân dân quan sát màu sắc của Trăng để tiên đoán mùa màng. Trăng vàng: được mùa tơ tằm. Trăng xanh lục: hạn hán, bão lụt, mất mùa. Trăng màu da cam: nước thịnh trị, thái bình.
Nhà thơ Ðỗ Phủ đời Ðường ngắm trăng thu gợi nguồn cảm hứng thi ca. Bài Thi hứng nhà thơ nhìn trăng nhớ cố hương:
"Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn thu hiu hắt, khi thu mờ"

(Nguyễn Công Trứ dịch)
"Vàng ná rừng phong hạt móc bay
Non vu hiu hắt phủ hơi may"

(Ngô Tất Tố dịch)
Một tích khác kể:
Cuối đời Tây Hán, Vương Mãng cướp ngôi Vua. Lưu Tú nổi lên chống Vương Mãng. Lưu Tú bị vây hãm, quân tướng đói khát rã rời. Lưu Tú bày hương án cầu trời. Dường như lời khẩn cầu động tới Thiên Ðình, quân lính đào được khoai môn bùi ngon, ăn qua cơn đói và tìm thấy cả những quả bưởi thơm ngọt. Sau đó, viện binh đến cứu Lưu Tú . Ngày Lưu cầu trời là ngày rằm tháng Tám. Vương Mãng bị giết. Hai năm sau, Lưu Tú lên ngôi Vua lấy tên là Quang Vũ (nhà Hậu Hán hay Ðông Hán) lấy ngày rằm tháng Tám kỷ niệm tạ trời đất, cúng khoai và bưởi, thêm cả bánh "Trung thu nguyệt Bỉnh".
Sau này, ngày rằm tháng Tám trở thành ngày Tết dân gian. Nó biểu hiện mối giao cảm hài hoà giữa con người và thiên nhiên
.XEM TIẾP
Tơ hồng
Nàng cung nữ của Nguyễn gia Thiều giận vua "Dang tay muốn dứt tơ hồng" và Vương ông của Nguyễn Du (trong Truyện Kiều) ước mong nàng Kiều "Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi". "Tơ hồng" và "trao tơ" có nghĩa là duyên vợ chồng. Tích xưa kể:
Tể tướng Trương Gia Trinh đời nhà Ðường bâng khuâng suy nghĩ nửa mừng nửa lo về năm người con gái của ông xấp xỉ tuổi nhau. Năm cô đều xinh đẹp, mỗi cô mỗi vẻ, cô thì mảnh mai như cây liễu; cô thì vui tươi mắt đen lay láy, nói cười hồn nhiên; cô thì đầy sức sống, má đỏ, miệng cười như hoa nở; cô thì thông minh, đàn hát ca múa làm say lòng người.
DanhÐặng Nguyễn Chấn (có sách chép Quách Nguyên Chấn) người hào hoa nổi tiếng đến cầu hôn. Tể tướng băn khoăn không biết gả cô nào cho nhotài hoa. Cô nào ông cũng quý, cũng yêu, cô nào cũng xứng với chàng thanh niên phong nhã. Hỏi các cô, thì các cô một mực" xin tuỳ ý cha định đọat".
Chợt một hôm ông nẩy ra một ý kiến hay hay. Ông gọi cả năm cô đến và bảo:

-Ðây, các con yêu quý của cha, mỗi con cầm một sợi dây tơ, mỗi dây một màu xanh, đỏ, tím...cha sẽ lấy một tấm màn lớn và dày che các con, các con đứng bên trong tấm màn, mỗi con cầm một sợi dây thả ra bên ngoài màn. Chàng Nguyên Chấn rút đúng sợi dây cô nào cầm, cô ấy sẽ là vợ chàng. Các con gái của cha nghĩ sao?

Cả năm cô vốn tính hồn nhiên, reo lên:

- Cha tài thật, chúng con làm theo ý cha.

Chàng thanh niên được mời đến; Tể tướng nói cho chàng nghe cách chọn vợ kỳ cục ấy.
Chàng thấy hay hay và vâng lời. Tức khắc, một tấm màn thêu to tướng, dày cộp màu sẫm được mấy thị nữ căng lên. Một lát, từ phía sau tấm màn, năm sợi dây đủ năm màu cầu vồng (người Trung Quốc xưa cho rằng cầu vồng chỉ có năm sắc) tung bay trước rèm. Chẳng biết lựa chọn thế nào, Nguyễn Chấn cầm ngay một sợi chỉ đỏ. Rèm được kéo lên. Người con gái lộng lẫy xuất hiện, tay cầm sợi tơ hồng. Những tiếng cười hoan hỉ vang lên.
Ðến nay, nhiều người cho nhân duyên là số phận và sáng kiến của Tể tướng Trương Gia Trinh kén rể là một hình thức rút thăm, hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng.

Tú Bà
Trong ngôn ngữ Việt nam, Tú Bà (một nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) là biểu tượng của một mụ đàn bà buôn thịt bán người, thô lỗ, nanh ác và độc địa, vì đồng tiền mà mất tính người. Tú Bà là mụ chủ lầu xanh đã bắt Thuý Kiều và bao nhiêu thiếu nữ khác làm nghề bán thân nuôi miệng.
Mụ sai chồng là Mã Giám Sinh đi mua thiếu nữ ở Bắc Kinh; Mã mua được Thuý Kiều; giữa đường, gã lưu thông họ Mã, "giống hôi tanh" đã "chung chạ" với Kiều. Tú Bà bực tức hoá điên, liền trút cơn tam bành lên đầu nàng. Nàng tự vẫn, song mọi người cứu được. Tú Bà thuê Sở Khanh ba mươi lạng bạc để nó dùng kế đưa Kiều vào cạm bẫy, rồi mụ bắt ép nàng tiếp khách làng chơi. Mụ dạy nàng những "bài học vỡ lòng" vô cùng đau xót. Và từ đó, nàng sống quãng đời kỹ nữ khổ nhục, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ em gái, em trai, nhớ chàng Kim. Thân phận nàng biết bao tủi hờn, cho đến khi, được món hời, Tú Bà bán Thuý Kiều cho chàng si tình Thúc Sinh. Nàng Kiều bước vào một quãng đời gian truân khác.
Ngòi bút hoạ chân dung Tú Bà của Nguyễn Du thật tuyệt diệu. Có lẽ Truyện Kiều để lại trong dân chúng, gần hai trăm năm qua, bức chân dung này sâu đậm hơn cả, bên cạnh các chân dung Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải. Mấy ai quên bức hoạ thể xác Tú Bà:
"Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên".

và:
"Thoắt trông nhờn nhợt màu da.
ĂN GÌ CAO LỚN ĐẪY ĐÀ LÀM sao!"

Rồi những câu thơ miêu tả nghề nghiệp của mụ: "Giữa thì hương án hẳn hoi, Trên treo bức tượng trắng đôi lông mày"; cử chỉ, dáng điệu ngỗ ngược của mụ: "Tú Bà vắt vẻo lên giường ngồi ngay"; mụ "nổi tam bành mụ lên". Rồi, tiếng than, tiếng đay nghiến của mụ, dễ mấy ai quên: "Mầu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma" và "Cớ sao chịu trót một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao". Mỗi câu lục bát này thường được dân chúng dẫn ra hàng ngày.

Tương tư
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang...

(Chinh phụ ngâm)
Sông Tương phát nguyên từ tỉnh Quảng Tây, đổ vào hồ Ðộng Ðình. Sông Tiêu, từ tỉnh Hồ Nam, đổ vào sông Tương(Trung quốc). "Tương tư" "Sông Tương" là hình ảnh của hai người yêu nhau phải xa nhau, thương nhớ nhau, "người đầu sông Tương, người cuối sông Tương"
Ðời Chu, vùng SÔNG TƯƠNG, ÔNG GIÀ HỌ LƯƠNG CÓ MỘT CON GÁI XINH ĐẸP LÀ LƯƠNG Ý. NÀNG THÔNG MINH, GIỎI thơ văn, trái tim nồng thắm. Chàng thư sinh họ Lý thanh lịch, đến trọ học nhà Lương Công; chàng nổi tiếng văn hay, chữ tốt. Trai tài gái sắc, cùng giỏi thơ, có những khi cùng nhau hoạ vần; ý hợp tâm đồng, đôi trai gái thương yêu nhau, thường tìm gặp nhau trò chuyện.
Lương Công khi biết con gái yêu Lý Sinh, thì nổi giận, ông không cho chàng thư sinh trọ nữa. Chàng ngậm NGÙI TỪ BIỆT NGƯỜI YÊU. Ý NƯƠNG XA CHÀNG, XÓT XA THƯƠNG NHỚ; NÀNG KHÓC ĐÃ NHIỀU, NÀNG làm bài Trường tương tư nhắn gửi người yêu nơi chân trời xa thẳm. Thơ ai oán, bày tỏ nỗi niềm nhớ thương sâu kín của người thiếu nữ:
"Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, cùng uống nước sông Tương, song chẳng được gặp nhau".
Ai đọc bài thơ cũng sa lệ. Lý Sinh nhận được thơ, đau xót đứt ruột. Chàng nhờ người mai mối; Lương Công đọc thơ con, CŨNG XÓT XA VÀ ÔNG HIỂU CON HƠN. ¤NG VUI LÒNG GẢ Ý NƯƠNG CHO NGƯỜI CON TRAI HỌ LÝ.
XEM TIẾP
Từ Thức
Người từ tứ phương rủ nhau đến huyện Tiên Du đông như trẩy hội. Trong vườn chùa, một cây mẫu đơn nở những bông hoa tươi thắm, lả lướt như những thiếu nữ mơn mởn. Hương thơm dìu dịu toả khắp vườn nhà chùa.
Bỗng một tiếng "rắc", rồi mấy tiếng "ối" khe khẽ: một cành hoa gãy. Một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần vừa vịn một cành mẫu đơn, cành gãy; đôi mắt to và đen ngơ ngác, rồi lo sợ. Chú tiểu đứng coi hoa chạy như bay vào chùa, và tức khắc một sư cụ chống gậy bước ra rất nhanh theo chú tiểu.
Nhà sư túm lấy vạt áo thiếu nữ, nói một mạch: "Cô phải đền, cô phải đền bông hoa này, trời ơi, bông hoa mẫu đơn đẹp nhất gãy rồi, cô không về được đâu, cô phải đền nhà chùa". Cô gái đẹp thất sắc, không nói được một lời. Mấy người nhìn cô ái ngại, chép miệng rồi bỏ đi. Cô chẳng mang tiền trong túi áo, cô không biết thế nào, cô chẳng mong gặp được người quen để nhờ vả, bởi vì cô ở xa, xa lắm...
Chiều gần tàn. Cô bồi hồi, cô thương thân, nước mắt chảy quanh. Bỗng một chàng trẻ tuổi thơ thẩn đến gốc mẫu đơn ngắm hoa; chàng chợt thấy nhà sư nắm vạt áo cô bé, cô bé thì long lanh nước mắt. Hỏi chuyện nhà sư xong, chẳng do dự, chàng cởi tấm áo lông cừu trắng như tuyết của chàng, đưa nhà sư. Nhà sư mừng hớn hở, buông áo thiếu nữ, ngạc nhiên nhìn chàng trẻ tuổi rồi mang áo quý, chạy vào chùa. Thiếu nữ đỏ ửng má, đôi mắt đen láy nhìn chàng cảm tạ rồi rảo bước. Trời sắp tối.
Năm tháng trôi qua. Chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức, ngày ấy làm quan tri huyện Tiên Du. Chàng vốn là một văn nhân tài tử, yêu thích cảnh đẹp, mê say cảnh núi non, hang động, nên chàng đã từ quan, lang thang nay đây, mai đó.
Một hôm, chàng thấy trước mặt một vách núi dựng đứng; dưới chân núi, một dòng suối; trên bờ suối, mấy gốc mai già. Cảnh giống hệt như bức tranh thuỷ mặc Trung Hoa. Chàng men theo dòng suối, bỗng thấy một cái hang nhỏ. Chàng bước qua cửa hang: một cái động tuyệt đẹp, đá lấp lánh đủ sắc màu; những giọt nước rơi tạo thành một bản nhạc mơ hồ. Phía bên trong động có nắng dịu.
Chàng bước tiếp trên con đường đá hoa cương, giữa hai hàng trúc thân ngà tròn trĩnh. Hai người con gái thướt tha xiêm nghê cúi chào chàng, miệng hoa nói: "Xin công tử quá bộ vào chào Phu nhân, bà chúa động tiên này". Từ Thức lạ lùng chào rồi bước theo hai cô tiên. Nhác thấy chàng, Phu nhân ra đón, nét mặt hiền hậu và niềm nở. Bà mời Từ Thức vào nhà, rồi nhẹ nhàng quay đầu gọi vào phòng bên: "Giáng Hương, con!". Có tiếng "Dạ!" rồi một thiếu nữ bước ra trong hào quang. Chàng hết sức kinh ngạc: Giáng Hương, chính là cô bé vịn gãy cành mẫu đơn năm xưa. Phu nhân nói: "Công tử nhận ra em rồi đó; ngày ấy không gặp công tử thì không biết em nó sẽ thế nào". Từ Thức, lòng tràn ngập niềm vui bất ngờ, ngây người một lúc lâu.
Giáng Hương hôm nay linh hoạt, vui tươi; hai con mắt to, đen có khi tinh nghịch. Ðôi trai gái e thẹn nhìn nhau. Khi hai người say mê nhau, Phu nhân cho làm lễ cưới. Một năm gắn bó, thương yêu nồng nàn trôi qua. Từ Thức chưa khuây lòng trần; chàng nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Một hôm, chàng đánh bạo nói tâm trạng sâu kín với người yêu, Giáng Hương buồn bã thưa lại với mẹ. Phu nhân bằng lòng cho chàng trở lại trần gian. Bà bảo Giáng Hương đưa chàng ra tận ngoài cửa động. Nàng khóc rồi đưa chàng một phong thư.
Về đến thôn xóm cũ, chàng ngồi xuống gốc đa, mở thư ra đọc. Ôi! bức thư vĩnh biệt, sau này hai người chẳng thể gặp nhau. Chàng vào thôn, tìm nhà cũ, nhiều cảnh đã đổi thay. Chàng gặp toàn người lạ. Không một ai biết chàng. Chàng vào nhà một cụ già, xưng tên mình. Ông cụ "à" một tiếng rồi bảo "Ðúng.. vâng, đúng, khi tôi còn nhỏ, ông bà nhà tôi kể lại nhà tôi có một cụ tên là Từ Thức một hôm đi vào núi, rồi mất tích. Chẳng biết bây giờ cụ còn sống hay đã quy tiên... Vâng, hơn sáu mươi năm rồi còn gì". Nói xong, cụ thở dài. Từ Thức ngao ngán cả người. Chàng lấy nón đội, chào ông cụ rồi trở lại đường cũ. Chàng vào núi và không bao giờ chàng trở ra nữa.
Câu chuyện này xảy ra đời Trần, động tiên còn gọi là "Ðộng Từ Thức", ở tỉnh Thanh Hoá (Việt Nam), có nghĩa là cõi tiên mơ ước
"Từ lang chớ để lạc vào non tiên..."
(Bích Câu kỳ ngộ)


SAO HÔM, SAO MAI
Dân ta thường hát:
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ...
(Ca dao)
Chiều tối, nhìn bầu trời phía Tây có một ngôi sao Hôm lấp lánh. Sáng sớm, phía Ðông, xuất hiện ngôi sao Mai vời vợi nhớ thương.
Sao Hôm, sao Mai ngóng trông nhau một trời Tây Ðông thương nhớ, đợi chờ nhau mà không bao giờ gặp. Giữa khoảng không nghìn trùng ấy còn một ngôi sao đêm đêm cứ băng trôi giữa bầu trời vô tận. Người ta gọi đó là ngôi sao Vượt. Ngôi sao ấy lao đi, lao lại, như tìm ai giữa không gian mờ mịt.
Trong trí tưởng tượng của nhân dân, ba ngôi sao ấy chính là ba linh hồn oan khuất tìm nhau giữa vô tận, vô cùng. Người xưa kể sự tích Sao Hôm, sao Mai như sau:
Hai anh em nhà kia mồ côi cha mẹ. Chúng quấn túm nuôi nhau. Ðến một ngày, người anh đã có vợ, bị bắt đi phu. Lúc ra đi, anh giấu giọt nước mắt, dặn em:
- Anh đi chưa biết ngày về. Anh thương chị, nhớ em lắm. Em ở nhà nghe lời chị và trông nom chị nhé.
Nghe lời anh, em đêm ngày lo lắng coi giữ chị. Em khoét một lỗ vách, đêm đêm luồn tay qua, đặt lên bụng chị để canh. Không ngờ, chị có thai. Em sợ trốn đi.
Người em đi về phía mặt trời lặn. Một hôm, trời xẩm tối, chàng đến ngọn núi cao thì chết vì kiệt sức, biến thành sao Hôm trông về xuôi mong nhớ.
Người anh trở về, thấy sự rắc rối, rất giận em. Người vợ ra sức kêu van chồng hiểu cho, nhưng vô ích. Rồi chị đẻ ra một bàn tay. Người anh hiểu em mình bị nghi oan, liền đi tìm.
Chàng theo đường mòn về phía mặt trời mọc, gặp ai cũng hỏi:
- Có thấy em tôi ở đâu không?
Nhưng ai cũng trả lời:
- Em anh, anh còn không thấy, làm sao chúng tôi thấy được.
Chàng buồn bã lê bước đi mãi và gục xuống trên đỉnh núi lúc ga vừa gáy sáng. Vì đói khát, vì thương em, vì ân hận, chàng hoá thành ngôi sao Mai
Thấy chồng đi không về, người vợ đi tìm, gặp ai cũng hỏi:
- Có thấy chồng tôi, em tôi ở đâu không?
Nhưng ai cũng trả lời:
- Chồng chị, chị không thấy. Em chị, chị không thấy. Chúng tôi thấy sao được.
Nàng xót xa thương nhớ hai người đến rã rời, vừa chạy vừa khóc lóc, thét gào và tắt thở bên đầu núi. Nàng biến thành ngôi sao Vượt.
Sao Hôm, sao Mai được nhân dân ta thường nhắc đến gợi nỗi nhớ da diết, niềm ly biệt, mất mát vô bờ. Nó là bi kịch của sự mất lòng tin. Con người mất lòng tin sẽ lạc nhau mãi mãi. Người ta bơ vơ tìm nhau giữa hư vô.

Tết "Hàn thực"
Mỗi năm, cứ đến ngày mồng ba tháng ba âm lịch, mọi nhà làm bánh trôi, bánh chay đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên. Ðó là Tết "Hàn thực" hay "Tết ăn nguội".
Ngày xưa ở Trung quốc, đời nhà Tấn, có một người tên là Giới Tử Thôi; ông là một người trung thực, có khí tiết, rất tận tuỵ với Thái tử (sau này lên ngôi Vua gọi là Tấn Văn Công). Thời trẻ, Thái tử bị vua cha ghét bỏ, chàng phải chạy trốn ra nước ngoài cùng với mấy người tôi trung thành. Ðoàn người lưu vong đi lang thang từ nước này qua nước khác, nhiều khi phải ở lại trong rừng hay trên núi, hái rau ăn trừ bữa. Có lần Thái tử ốm, không ăn được rau rừng nấu với muối và nước suối. Thái tử sốt, nuốt không trôi bát cơm chan nước canh nhạt thếch. Giới Tử Thôi lo lắng, sợ Thái tử không ăn sẽ khó qua khỏi, CHÀNG CẮT MỘT MIẾNG THỊT Ở ĐÙI MÌNH, NẤU VỚI RAU CHO THÁI TỬ ĂN. ÍT HÔM SAU, KHI ĐÃ KHỎI BỆNH, THÁI TỬ MỚI BIẾT CHUYỆN này. Thái tử khóc và bảo Giới Tử Thôi: "Ơn sâu nặng, biết đến bao giờ ta trả được".
Sau 20 năm khổ ải, Thái tử trở về nước và lên ngôi Vua. Vua Tấn Văn Công không quên ơn biết bao người đã giúp ông trong 20 năm hoạn nạn, người thì phò Thái tử, người thì giúp cơm ăn hay tiền của, người thì hợp sức đánh bại những kẻ thù để ông có được ngày hôm nay. Vua ban thưởng cho tất cả những ai đã giúp đỡ ông, dù chỉ là chút ít. Giới Tử Thôi cùng Vua trở về kinh đô, chàng tiếp tục làm nghề khâu giày để nuôi mẹ. Mẹ chàng đã già yếu lắm rồi và chẳng còn đi đứng được một mình. Vua trả ơn các công thần đầy đủ cả, riêng Giới Tử Thôi thì Vua quên mất, chẳng hỏi han, chẳng ban thưởng. Giới Tử Thôi tủi phận, cõng mẹ sang một xứ sở xa xôi, rồi vào rừng ở. Một ông cụ hàng xóm thấy vậy, dâng một bức thư lên Vua Tấn, kể chuyện Giới Tử Thôi. Vua giật mình cho người mời Giới Tử Thôi vào triều. Nhưng không ai biết chàng đã đi đâu. Vua cho một đoàn người đi tìm. Ðến một xứ sở xa xôi, có người nói trông thấy một người đàn ông mặt mày nhem nhuốc cõng mẹ vào khu rừng bên cạnh. Ðược tin, Vua mừng rỡ, vội đi xe ngựa đến nơi, phái nhiều người đi khắp ngả vào rừng tìm. Bốn năm hôm, chẳng thấy tăm hơi mẹ con Giới Tử Thôi. Vua nghĩ bụng: "Giới Tử Thôi là người con chí hiếu, ta cho đốt rừng, ắt chàng phải cõng mẹ chạy ra". Nghĩ vậy, ông liền hạ lệnh phóng lửa đốt rừng. Ngọn lửa bốc cháy ngùn ngụt, lan từ khu rừng này sang khu rừng khác, ba ngày ba đêm mới tắt. Khi lửa tắt, mọi người vào rừng đã cháy trụi thì thấy một đống xương người, hai bộ xương cháy đen, bên một gốc liễu đã cháy thành than. Vua Tấn Văn Công ôm mặt khóc. Ông truyền lệnh xây miếu thờ hai mẹ con Giới Tử Thôi. Ngày đốt rừng là ngày mồng ba tháng ba. Dân chúng được tin về cái chết của Giới Tử Thôi vô cùng thương xót. Và từ năm ấy, đến ngày mồng ba tháng ba ở Trung quốc ngày xưa, người ta không đốt lửa, bởi vì lửa gợi nhớ đến cái chết bi thảm của Giới Tử Thôi. Ngày ấy, người ta ăn nguội, gọi là "hàn thực", và mỗi nhà cắm một cành liễu để chiêu hồn người chết oan. Ngày mồng ba tháng ba sau này trở thành một ngày Tết tưng bừng, ít ai nhớ đến bi kịch Giới Tử Thôi.
Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều:
Cửa hàng buôn bán cho may
Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu
Ðó là lời khấn thần Mày trắng của Tú Bà: Mụ mong lầu xanh của mụ đêm ngày tấp nập khách làng chơi, vui như hai ngày hội Hàn thực và Nguyên tiêu.
XEM TIẾP
Giọt lệ thu
(Trích)
Trời thu ảm đạm một mầu,
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em, Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng!
́́ Anh ơi, thu về nh gợi mối thơng tâm. Mỗi độ thu sang em lại vò lònǵ than khóc. Nghĩ năm có một lần thu, nhng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại.
Vì đứa con côi, em phải sống,
Nuôi con rỏ lệ máu chan hòa,
Muôn ngàn hạnh phúc hy sinh hết,
Tim nát, thời gian lặng lẽ qua!...
́́ Tuân lệnh cha già ra đi làm lại cuộc đời mà tâm t tan nát.
́́ "Thôi thì, một liều ba bảy cũng liều. Đành vâng lời cha, em bớc chân ra. Bớc chân ra, cho yên bụng cha già. Bớc chân ra, cho khỏi lụy gia đình. Nhng anh ơi! Một vâng lời, chết mấy tầng ruột gan".
hoặc:
́́ "Anh ơi! Ngoảnh mặt về Nam, em xin từ đây bái biệt anh".
́́ "Thôi! Em vì cảnh ngộ, vạn bất đắc dĩ phải bớc chân ra. Anh có linh thiêng xin biết cho nhau, và phù hộ cho đứa con côi vất vả của chúng ta. Cố giúp cho con nên ngời anh nhé!".
Thắp nén hơng này, khóc biệt anh.
Thề duyên ớc cũ tủi ba sinh,
Thuyền ai một bớc, hai hàng lệ,
Ngoảnh lại con côi dạ chẳng đành.
để rồi em xin đành vĩnh biệt anh:
Chan hòa lệ rỏ, trớc ban này,
Hơng nến lu mờ, khói tỏa bay,
Bốn lạy giã từ, muôn kiếp hận,
Bớc ra, một bớc, một chau mày!...
́́ ... Than ôi, minh dơng đôi ngả, gió mây hội ấy, anh đi đi mãi, năm tháng thờng về, ngời không dấu vết. Em muốn tìm anh tìm chẳng thấy, hôm sớm bâng khuâng buồn lại nhớ, thơng nhau gày gỏ khóc vì nhau.
́́ Ngày tới đêm lui, hôm mai lần lữa, những ngậm ngùi than thở xót cho thân. Lênh đênh sóng nớc một con thuyền, phong ba cuộc thế mấy phen dập vùi. Nghĩ nh cánh buồm bọc gió, bể hận không bờ, con chèo tuyệt vọng khôn dò bến, em nay còn biết buông theo ngả nào! Trên cầu đoạn trờng, sầu dờng bể, khắc nh năm, võ gày thảm thiết thơng anh, trăm mối tơ lòng không tung mà rối.
́́ Xuân lại, cảnh tình đã chẳng khác chi đông, thu sang tâm sự lại dạt dào, thơng tâm gió buổi mây chiều, lòng em lai láng biết bao sầu tình!
Nớc non ngao ngán tình xa,
Trăm năm bạn cũ bây giờ xa đâu?
Để riêng ai
Bức khăn hồng tầm tã giọt châu
Gối chăn còn ngấn lệ sầu đến nay!
́́ Anh ơi, nớc non còn đó mà anh vội đi đâu? Ngày xanh sao chẳng ở cùng nhau, duyên thắm nỡ nào chia rẽ lứa. Ngoài nội uyên kia cùng chắp cánh, trên nơng én nọ chẳng lìa đôi, tung mây kết bạn ngang trời, nghĩ chim ríu rít tủi ngời lẻ loi.
́́ Con còn trong cữ cha se rốn, vợ qua bể cạn chửa hoàn hồn, anh đã vội vàng vứt áo ra đi. Ôi, ra đi nào phải đi gần, dặm đờng Âu Mỹ ngàn trùng nớc non. Buổi tiễn đa nhìn anh thôi lại nhìn con, giọt hồng lã chã, chén quan hà những uống lệ mà say!...
́́ Anh sang Tây, em cũng tính ngày về Bắc, con vừa đầy tháng em đã bớc lên đờng.
́́ Nghĩ vợ chồng lấy nhau mùa thu, biệt nhau cha kịp qua thu, đất khách quê ngời, gánh tình xẻ nửa dặm sầu chia hai, mà nay em ra về, nớc non nh vẽ cảnh đoạn trờng!
́́ Thôi, từ đây cảnh trời Phan Thiết rẽ hai thâm tình! Than ôi, cùng nhau đơng hợp mà tan, nghĩ nguồn cơn ấy thì thà rằng đôi lứa nh chim, lại không biết có cái thảm những ngày gió ma chia rẽ.
Gió ma chim chẳng lìa đôi,
Giữa đờng ân ái nào ngời lẻ duyên;
Lai sinh nguyên chắp cánh uyên,
Cao bay chẳng để khuôn thiêng lọc lừa.
́́ ... Em nay vì anh đến nỗi chừng xuân tơ liễu còn xanh, mà nửa làn tâm sự đã sang thu rồi! Anh đi chẳng lại đã đành rằng duyên kia dang dở, những ngày xanh quãng vắng em chờ đợi ai!
Ngày xuân luống tiếc xuân dài,
Oanh đa liễu đón duyên ai đi về.
Vui xuân đôi lứa đề huề,
Sầu xuân say tỉnh tê mê một ngời,
Xuân xanh duyên đã phai rồi,
Đời xuân thôi cũng là đời bỏ đi!
́́ Con anh măng sữa, em còn thơ ngây, cuộc đời trăm đắng nghìn cay, trông vào ai, cậy vào ai? Đờng gian nan chân chồn bớc ngại, tới lui dã dở, nắng ma dễ biết lánh vào đâu!
́́ Trông vời đỉnh Dĩ mây che khuất, bơ vơ thân gái cõi phong trần, dở duyên em đành lại phải ôm con thơ quanh về nơng tựa gối cha già. Nhng để lụy đến cha già cũng là một điều vạn bất đắc dĩ, chứ lòng em có muốn thế đâu. Nghĩ cha em nửa đời gà trống nuôi con, cảnh ngày đã xế về hôm, mà vẫn còn đeo lo đeo nghĩ, thì em lại ngậm ngùi tấc dạ làm con.
Thần hôn đã lỗi đạo thờng,
Con côi mẹ góa lại nơng cha già.
Muối da đắp đổi ngày qua,
Phơ phơ tóc bạc cũng sa giọt sầu!
́́ Thu thờng lại, ngày vui chẳng lại, thu thờng đi, lòng hận chẳng đi; thơng không có hạn, giận không có kỳ, ngời đi đi mãi, kẻ khóc khóc hoài. Chao ôi, anh có biết đâu một sớm anh chơi mây, để lại tháng ngày em lẻ bạn!
Thu có hạn, sầu dài không hạn,
Cảm thu sang, nhớ bạn lứa đôi.
Đoạn trờng biết mấy tao nôi,
Khóc rồi lại khóc, hờn thôi lại hờn.
Khúc uyên dạo dây đờn ai dứt,
Dao sầu kia cắt đứt lòng son.
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn,
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan!
́́ Năm theo anh mời bảy thơ ngây, đào tơ sen ngó, ái ân thủa đó, đem ngày xanh hẹn buổi bạc đầu. Em những chắc cùng nhau đôi lứa thiếu niên. Bắc Nam dù cách trở, hơng lửa vẫn nồng nàn, thì nay dẫu xa xôi, mai rồi lại gặp gỡ, vả nớc non còn đó, đâu hết cơ duyên. Nên chi con thơ măng sữa em chăm chút, chẳng phiền cha mẹ, chẳng phiền anh, rắp mong để yên lòng khoa danh gặp hội anh đua bớc. Một mai nam nhi toại chí, dới bóng tùng quân em cũng đợc nở nang mặt mày.
́́ Ôi, tin đâu xé ruột xé lòng!... Mảnh giấy xanh đa đến tận nơi: ngày hai mơi nhăm tháng bảy năm Canh Thân là ngày anh tạ đất tạ trời, cớp công cha mẹ, dứt tình vợ con, lìa rẽ anh em, chia đờng kim cổ. Một gánh nợ đời trút cả cho ngời còn ở lại!
́́ Chao ôi, lng trời sét đánh, em thật đã chết cả đời ngời.
́́ Thôi thế là thôi! Một dải khăn ngang, năm thân gấu xổ, trăm năm sự còn nói năng gì!
́́ Con anh nào đã biết mặt cha, thân côi cút trái đào ba tuổi, từ đây em dạy em nuôi, khoảng trời đất không mong gì còn có bố!
́́ Nghĩ mà chua xót thơng con, nhà không nóc ma gió mai ngày, cuộc đời xoay xở biết toan sao? Đoạn trờng em lại biết bao nhiêu giăng mắc. Con còn trẻ thơ lo ăn lo mặc, lo học lo hành, con khôn lớn lại phải lo sao cho thành danh phận, để chen vai nối gót với đời. Nghĩ nh thế thân em sức vóc liễu bồ, cánh vây không có, hai bàn tay trắng, đức tài cũng không. Một mình mẹ góa nuôi con, em biết lo liệu thế nào cho tròn phận ấy?
́́ Anh ơi, anh mất đi, anh để lại cho em biết bao nhiêu nỗi dở dang ở đời! Dầu em có nghĩ liều: mặc đời cua máy cáy đào, nỗi dở dang âu đành chẳng bận. Nhng tình nhớ thơng khuây khỏa sao đây! Ra vào vắng vẻ tháng ngày, khăn áo cũ còn hình dung bóng dáng. Khoảng trời đất non buồn nớc lạnh, ngời đi bằn bặt, kiếp này còn gặp nhau đâu nữa mà mong!
́́ Trên mây kia Ngu Chức chia phôi cũng đoạn trờng, nhng khóc nhau còn lại có ngày thấy nhau. Em khóc anh mấy thu nay lệ đã đắm lòng, ngời đành không lại, mộng sao chẳng về? Nghĩ đau duyên ấy lại hờn với Ngâu:
Thu về đẹp lứa duyên Ngâu,
Năm năm ô thớc bắc cầu Ngân giang;
Đôi ta ân ái lỡ làng,
Giữa đờng sinh tử đoạn trờng chia hai;
Anh vui non nớc Tuyền đài,
Cõi trần hơng lửa riêng ai lạnh lùng;
Nhân gian khuất nẻo non Bồng,
Trăm năm não thiếp tấm lòng bơ vơ!
́́ Anh ơi, chung cảnh thu này, đông tây nam bắc biết bao ngời cảm thu. Nhng lòng thu hẳn có nh em, mà mây chiều vẩn dạ, gió mai lạnh lùng. Nh em mỗi hạt sơng gieo là một giọt lệ thảm, mỗi làn lá rụng là một mảnh tình sầu. Thu càng thâm, sầu càng nặng.
́́ Anh ơi, em nghĩ đến về với anh mùa thu, mất anh lại cũng mùa thu, cho nên năm năm cứ đến độ thu sang, thì em lại bồi hồi nhớ trớc tởng xa, mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu!
́́ Anh ơi, giọt lệ khóc thu, em chỉ vì anh mà năm năm lai láng... Than ôi, thu sang thu não lòng ngời biết bao!
Sầu thu nặng, lệ thu đầy,
Vi lau san sát, hơi may lạnh lùng,
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm...
Viết ở sông Thơng mùa Thu năm Quý Hợi 1923

Tuơng Phố
Câu thơ nên nghĩa
Tương truyền một buổi chiều tà mùa hạ, Hoàng tử Lê Tư Thành (sau này là vua Lê Thánh Tông) đi hóng mát trên bờ sông đào vùng Tống Sơn (Thanh Hóa), tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo ở bến nọ. Cô gái nhan sắc mặn mà khiến Hoàng tử rung động liền bỡn một câu:
"- Gạo trắng, nước trong, mến cảnh lại thêm mến cả..."
Tuy bỏ lửng nhưng ý hoàng tử thì đã rõ. Cô gái nghe xong, làm thinh. Một lúc cắp rá gạo ra về, cô mới ngoái lại đáp: "- Cát lầm, gió bụi, lo đời đâu đấy hẵng lo cho...".
Câu này cũng bỏ lửng, thiếu chữ như câu trên nhưng ý nghĩa cũng rõ lắm. Ý nói đời đương loạn lạc, làm thân nam nhi nên ra tay giúp đời trước đã, rồi sau đó có nghĩ tới chuyện mình hay chuyện ai hẵng hay.
Nghe lời, Hoàng tử thêm mến phục bội phần. Cô gái ấy là Ngọc Hằng sau này trở thành người vợ yêu của vua Lê Thánh Tông.
Cao Bá Quát chơi xỏ vua Tự Ðức
Tự Ðức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.
Một hôm sau buổi chầu, Tự Ðức nói với các quan:
-Ðêm qua Trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!
Rồi đọc luôn:
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa Nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ "khề khà", "lấm tấm" nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:
-Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Ðức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở Nôm rất độc đáo của mình, không dè bị Quát giội một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông đã nghĩ ra. Tuy nhiên, ông vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.
Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường...
Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

Nghĩa là:
Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp,
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết,
Khệnh khạng còn mang đến hỏi tú tài.

Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Ðức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.
XEM TIẾP
Bảng, Trạng ganh nhau.
Khoảng đời nhà Mạc, ở miền Hải Dương có hai người bạn ở gần làng nhau: Phạm Trấn ở làng Lâm Kiều và Ðỗ Uông ở làng Ðoàn Lâm.
Vào năm Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên (1554- 1561), hai người cùng trạc ba mươi tuổi và cùng đỗ khoa thi hội. Ðến kỳ thi đình, Phạm Trấn đỗ Trạng nguyên, còn Ðỗ Uông thì đỗ Bảng nhãn. Trấn, sức học vốn kém Uông, nên hí hửng lắm, bảo: "Gìơ ta mới đè được thằng Uông đây!"
Uông nghe nói tức lắm. Lúc vinh quy, Trạng Bảng cùng về một đường. Bảng không chịu nhường Trạng đi trước, cứ dóng ngựa đi ngang hàng.
Ðến làng Hoạch Trạch, dân chúng kéo nhau ra xem và xin thơ để đề vào chiếc cầu ở đầu làng. Ðó là chiếc cầu ngói hơn mười gian. Bảng, Trạng liền thách nhau qua bảy gian phải vịnh xong bài thơ; ai xong trước đi trước, không được tranh nhau.
Lần ấy Trấn thắng, ai cũng chịu tài, chỉ Uông không phục, cho là thơ đã làm sẵn từ bao giờ. Rồi, lại dóng ngựa đi ngang hàng. Ðến làng Minh Luận, có người mới làm xong nhà, ra đón đường xin một bài thơ mừng nhà mới. Trấn đọc luôn:
Năm năm thêm phú quý
Ngày ngày hưởng vinh hoa
Xưa có câu như thế
Nay mừng mới làm nhà.
Lần này, Uông đã có vẻ hơi chịu tài nhanh nhẹn của Trấn. Ðến cầu làng Ðoàn Lâm, tục gọi là Cầu Cốc, trong cầu có cô bán hàng là cô Loan; hai người lại thách nhau làm bài thơ Nôm lấy đề là "Cô Loan bán hàng cầu Cốc". Hạn mỗi câu phải có hai giống chim, qua cầu phải xong, ai xong trước đi trước, nhất thiết không được tranh nhau nữa. Trấn ngồi trên lưng ngựa, đọc ngay rằng:
Quai vạc đôi bên cánh phượng phong
Dở giang bán chác lựa đồ công
Xanh le mở khép nem hồng mới
Bạc ác phô phang rượu vịt nồng...
Bảng bấy giờ mới thực sự chịu phục Trạng là nhanh trí và nhường cho Trạng đi trước, không tranh dành gì nữa.
Càn Khôn: Kiền Khôn: Trời, đất.
Đây là tên 2 quẻ trong Kinh dịch, tượng trưng trời, đất.
Lời sớ của Trình Di nói: Càn là đầu muôn vật cho nên là trời, là dương, là cha... Khôn là quẻ đối nhau với Càn. Càn lấy chính bền làm trinh, không thì mềm thuận làm trinh. Việc làm của người quân tử mềm thuận mà lợi... Lợi cho muôn vật đều chủ ở khôn. Vì cuộc sinh thành đều là công của đất cỏ, nên khôn là đất, là âm, Là mẹ.
Bích Câu Kỳ ngộ:
Ra vào kim khuyết quỳnh lân.
Treo tranh Yên thủy, giắt bầu kiền khôn.
" Có công mài sắt có ngày nên kim"
Nhà Ðường ( Trung Quốc) sáng tạo một thời đại thơ ca muôn ngàn hương sắc. Lý Bạch là một trong những thiên tài lừnglẫy. Thơ ông bát ngát những ước mơ đẹp thấm thía tình yêu con người. Tương truyền, từ thuở nhỏ, Lý Bạch đã yêu say đắm thiên nhiên, ao hồ, sông núi . Chú bé thường mải mê đi tìm hoa cỏ đẹp, có khi quên cả buổi học, chú chán lớp học.
Một hôm chú men theo dòng suối, đến chân núi. Một cụ già đang ngồi mải mê với một phiến đá và một mảnh sắt nhỏ. Chú đến gần xem và tò mò hỏi:" Bà ơi, Bà mài sắt làm gì thế?" Bà nhìn cậu bé đáng yêu đáp:" Bà mài sắt để làm kim khâu cháu ạ". Mắt bà sao phúc hậu thế, giọng bà sao hiền từ thế. Rồi bà bảo bé Lý Bạch ngồi xuống bên cạnh. Chú nhìn chăm chăm hai bàn tay gầyđưa đi đưa lại miếng sắt hàng trăm ngàn lần trên phiến đá mài; chú khẽ hỏi:" Miếng sắt to thế này mà làm được kim hả bà?" Bà bảo: " Mài mãi, sắt cũng mòn đi, bé lại và thành cái kim" Chú lại hỏi: " Thế bao giờ mới xong hả bà?" Bà lại đáp, giọng ôn tồn: " Bà cứ mài, mài mãi, hôm nay, ngày mai, một tháng, hai tháng, năm nay, sang năm, thế nào cũng xong." bà nói tiếp, dằn giọng hơn "phải xong". Chào bà cụ, chú bé đứng dậy ra về; suốt dọc đường , chú suy nghĩ về lời bà ; chú ghi nhớ:" Có công mài sắt có ngày nên kim", nhớ cái phút bà ngẩng nhìn chú với ánh mắt sáng và nói:" Thế nào cũng xong, phải xong", cái phút ấy làm bừng một ánh sáng trong lòng chú bé và, suốt đời, sẽ còn rung động trong trái tim Lý Bạch.
Từ ngày đấy, chú bé ham mê đọc sách, ghi chép, đọc thật nhiều sách. Với tâm hồn dễ xúc động và kiến thức rộng bao la, Lý Bạch đã để lại cho đời sau những áng thơ tuyệt mỹ.
Chúng ta thấy đấy,mảnh sắt mài mãi cũng thành kim. Kiên trì , nhẫn nại thì có thể làm được nhiều việc khó. Ðó là phẩm chất phải có của các nhà khoa học, các nghệ sĩ chân chính." Có công mài sắt có ngày nên kim" là điển tích lấy từ giai thoại văn học Trung quốc. Nó đồng nghĩa với thành ngữ Việt nam: " Kiến tha lâu cũng đầy tổ"

Ỷ LAN PHU NHÂN
Vua Lý Thánh Tông (1054- 1072), tên thực là Nhật Tôn, đã 40 tuổi mà không có con, nên hết sức lo lắng cho việc kế vị sau này. Theo lời khuyên của các quan, Vua đi cầu tự ở chùa Siêu Loại, làng Thổ Lỗi, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Nghe Vua đến, dân làng đổ xô ra đứng xem đầy đường; duy chỉ có một người con gái cắt cỏ, thấy kiệu Vua đi qua, vẫn cứ đứng dựa vào gốc một cây lan, ở trên một cái đồi vắng, chứ không thèm chạy ra xem. Vua ngồi trên kiệu trông thấy lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc, không có vẻ gì là luống cuống sợ hãi. Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mĩm cười mà hát một câu hát như sau:
Người thanh thì tiếng cũng thanh
Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu.

Lý Nhật Tôn rất lấy làm vừa lòng, ĐƯA NÀNG VỀ CUNG, PHONG LÀ Ỷ LAN PHU NHÂN. (Ỷ LAN: TỰA CÂY LAN). §ƯỢC ÍT LÂU, Ỷ LAN PHU NHÂN CÓ THAI, SINH RA MỘT TRAI KHÔI NGÔ TUẤN TÚ: ĐÓ LÀ Thái tử Càn Ðức, sau này sẽ trở thành vua Lý Nhân Tông (1072- 1127), một trong những vị vua lớn của nhà Lý.
Phật xa, cha mẹ gần”
Ngày xưa, Dương Phủ nhà nghèo, còn nhỏ đã phải sớm hôm cày cuốc lấy cái ăn, cái mặc để phụng dưỡng cha mẹ. Lớn lên, nghe nói bên đất Thục, có đức Võ Tề đại sứ (Nhà tu hành đắc đạo) ông bèn xin phép song thân, vắng nhà vài hôm, để đến gặp đại sĩ. Đi được nửa đường, tình cờ gặp vị Lão tăng, qua những câu chào hỏi, Lão tăng nói:
- Được gặp Võ Tề, sao bằng được gặp Phật?
- Dạ thưa cụ, Phật ở đâu ạ?
- Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào khoác cái áo như thế này, sỏ đôi dép ngược như thế này, người ấy chính là Phật đấy!
Dương Phủ cảm ơn, quay trở về, nhưng đi đường không gặp ai như thế cả. Về tới nhà, thì đêm đã khuya, trời tối như mực, ông gọi cửa, bà mẹ nghe tiếng con, mừng quá vội vàng khoác tấm chăn, sỏ ngược dép ra mở cửa đón con. Bỗng ông nhận ra hình dáng như Phật, mà Lão tăng đã nói cho nghe.Bấy giờ ông chợt hiểu được thâm ý của Lão tăng. Cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải mất công đi mộ phật đâu xa cả.
Thật vậy, từ ngàn xưa tổ tiên ta có câu:
Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
Và: Tu đâu bằng tu tại nhà
Thờ cha kính mẹ đấy là chân tu.
Thiết nghĩ: Ý nghĩa của lời răn dạy ấy rất đúng với ý nghĩa của câu chuyện kể trên. Làm con phải hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ như phụng thờ Phật vậy. Vì từ thuở lọt lòng, cha mẹ đã tốn biết bao công sức để nuôi dạy con khôn lớn nên người.
Câu thơ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” thật là không ngoa chút nào. Cách ngôn Pháp cũng có câu : “Dẫu tráng trứng trong lòng bàn tay, cũng chưa đền đáp nổi công ơn cha mẹ”. Lại còn có câu:
“Phật xa, cha mẹ gần”, là con phải biết thành kính thờ phụng cha mẹ, bởi lẽ, hiếu là đầu của trăm nết tốt. Chỉ có người con hiếu thảo mới trung thành với Tổ quốc và nhân ái với mọi người.
ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG.
Thời Lê Trung Hưng, có Nguyễn Ðăng Cảo là một người nổi tiếng trong việc ứng đối. Ông quê ở làng Hoài Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; không rõ năm sinh và mất, chỉ biết ông đậu Thám hoa vào khoảng Lê Hi Tông (1676- 1705).
Bấy giờ, vua Khang Hi nhà Mãn Thanh sai sứ mang chiếu sang nước Nam, buộc mọi người phải gọt đầu gióc tóc như người Mãn. Ðược tin ấy, vua Lê Hi Tông lo lắm, liền tức tốc cử Ðăng Cảo lên ải Nam quan tiếp sứ Thanh để tìm cách thoái thác. Lên đến cửa ải, sau khi đã đem lẽ lợi hại ra biện luận với sứ giả, Ðăng Cảo bèn làm một bài biểu gửi sứ giả mang về cho vua Thanh. Vua Thanh xem tờ biểu, phục tài hùng biện của Ðăng Cảo, bèn hạ chiếu bãi bỏ việc ấy đi.
ÍT lâu sau, Ðăng Cảo có dịp sang sứ nhà Thanh, vua Thanh thấy Ðăng Cảo hay chữ, liền ra một vế đối như sau:
Lão khuyển lạc mao, do hướng đình phệ nguyệt.
Nghĩa là:
Chó già rụng lông, còn ngóng ra sân sủa nguyệt (trăng)
Nghe câu đối đầy giọng khinh miệt, Ðăng Cảo bực tức liền đối ngay lại một câu rằng:
Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên.
Nghĩa là:
ẾCH CON ngắn cổ, cũng ngồi đáy giếng dòm trời.
Câu trả lời thật ngang tàng, có ý mỉa bọn thống trị Mãn thanh kiến thức hẹp hòi, như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt chỉ thấy trời bằng miệng giếng chớ có biết đâu trời rộng bao la.
Vua Thanh thấy Ðăng Cảo đối đáp cứng cỏi, khen là người có dũng khí, và tỏ vẻ rất kính trọng ông. Từ đấy, triều Khang Hi nhà Thanh không sách nhiễu nước Nam ta nữa.
QUẠT MỒ
Thương thay cho kẻ quạt mồ
Hại thay cho kẻ lấy vồ đập săng

(Ca dao Việt Nam)

Trang Tử đi chơi về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, chàng cười, cười như nắc nẻ, cười mãi. Vợ Trang Tử thấy lạ, lấy ghế ngồi bên cạnh, hỏi chồng: "Mình có việc gì mà cười lắm thế?" Trang Tử ngồi nhỏm dậy, nói: "Thế này nhé..." rồi lại cười. Chàng vừa đi qua một cánh đồng; một thiếu phụ xinh đẹp, đọi khăn tang che mái tóc mượt mà, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa mọc, đất còn ẩm.
Trang Tử lấy làm lạ; chàng dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. "Hay là nàng thương người dưới mồ nóng bức?". Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: "Thưa quí nhân, nàng quạt mồ là nghĩa làm sao?". Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: "Ðây là mồ chồng thiếơ. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăng hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô." Nghe vậy, vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó: Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu trơ trẽn đến thế".
Trang Tử tỏ lòng khâm phục vợ. Và chàng muốn thử lòng vợ. Vốn biết pháp thuật, chàng giả vờ chết; chàng dặn vợ: "Mình quàn tôi một trăm ngày rồi hãy chôn". Vợ chàng tưởng chàng đã chết, quàn trong nhà. Ðược mươi hôm, Trang Tử cựa mình hoá phép thành một chàng tria trẻ đẹp, hào hoa. Chàng thư sinh nhận mình là học trò thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: "Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô cho ở lại mấy hôm". Vợ Trang Tử vừa tháy chàng, đã đem lòng quyến luyến; nàng vội nhận lời.
Từ đêm ấy, hai bên quấn quít nhau, không rời nhau được. Bỗng một hôm chàng ôm bụng, lăn lộnk trên giưưòng, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la thảm thiết. Chàng ú ở nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được chàng: lấy sọ người chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chữa bệnh cho người yêu. "Thịch, thịch, thịch" Vồ nện mấy nhát, nắp săng bật tung. Thật khủng khiếp, Trang Tử nhổm dậy và phá lên cười, chàng cười rất lau. Sau cơn hoảng sợ, người thiếu phụ xấu hổ quá, nàng ốm, vài hôm sau nàng chết.
Nàng chết, Trang Tử nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca bài Cổ bồn, bài ca vừ anhư cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót xa cho thân phận con người: "Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng...! Nhìn nhau lệ chẳng rơi lã chã...! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương...".
Trang Tử hay Trang Chu, đệ tử nổi tiếng của triết gia Lão Tử, có một tư tưởng bi đát về cuộc sống con người.
XEM TIẾP
Chiêu Quân
Trong Truyện Kiều, buổi gặp gỡ dưới trăng giữa Thuý Kiều và Kim Trọng, Kiều gãy bản đàn Bạc mệnh. Nguyễn Du tả khúc đàn của Kiều như sau:
"Qúa quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia..."

Nguyễn Du gợi đến lúc qua cửa ải sang Hồ, Chiêu Quân đánh một bản đàn ai oán. Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Ðình Chiểu ví thân phận Kiều Nguyệt Nga bị đem cống giặc Ô Qua như thân phận nàng Chiêu Quân xưa phải cống Hồ:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ
Bởi người Diên Thọ hoạ đồ gây nên".

Chiêu Quân là một trong bốn cô gái đẹp nhất của nước Trung Hoa cổ: Chiêu Quân, Ðiêu Thuyền, Dương Quý Phi, Tây Thi.
Chiêu Quân tên là Vương Tường, là cung phi của Vua Nguyên đế đời Hán (thế kỷ I trước Công nguyên). Vua có 3000 cung phi nên không thể biết từng mỹ nữ. Ðể chọn hậu cung, Vua ra lệnh cho Mao Diên Thọ vẽ chân dung cả 3000 cung nữ. Thừa dịp, Mao Diên Thọ ăn hối lộ của cung nữ: ai đút lót nhiều tiền, hắn vẽ thật đẹp; ai nộp ít tiền, hắn vẽ xấu đi. Chiêu Quân đẹp tuyệt trần, tính tình lại ngay thẳng, nên bị Mao Diên Thọ vẽ một bức chân dung xấu xí. Lúc bấy giờ chúa "rợ Hồ" đánh thắng nhà Hán. Muốn bãi binh, vua Hán phải nộp một cung phi tuyệt sắc. Mao Diên Thọ cùng bọn gian thần đưa tranh Chiêu Quân lên vua Hán, tâu nên chọn cung nữ này. Khi Chiêu Quân vào triều bái để lên đường sang Hồ, vua Hán ngây ngất trước một sắc đẹp lộng lẫy chưa từng thấy. Vua xót xa thương tiếc, song sứ giả "rợ Hồ" đứng đó, không thể thay cung nữ khác. Vua thẩm xét việc man trá của Mao Diên Thọ, định trị tội, song hắn đã trốn được sang Hồ, làm tôi tớ cho giặc.
Chiêu Quân sa lệ, xót xa cho thân phận, từ biệt quê hương. Ðến cửa ải biên thuỳ, nàng nhìn về quê hương xa thăm thẳm, về kinh đô cách ngàn dặm. Nàng lấy đàn, gảy một bản đàn ai oán tuyệt vọng, khiến đoàn người tiễn đưa không ai cầm được nước mắt. Ðến Lạc Nhạn đài bên sông Hắc Thuỷ, nàng viết một lá thư gửi về quê hương, buộc thư vào cánh nhạn. Nhìn dòng Hắc Thuỷ, vô cùng tủi phận, nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Ðược tin này, cả nước Trung Hoa và cả nước Hồ hết sức cảm phục và xót thương. Nơi này đất cằn khô, một màu trắng xoá; song cỏ mọc trên nấm mồ Chiêu Quân một màu đỏ thắm. Người ta dựng một toà miếu bằng đá, có tấm bia đá, ghi tên tuổi người cung nữ tuyệt đẹp có tấm lòng sắt son. Sau này, biết bao nhà thơ, nhà văn Trung quốc và Việt nam đã ngợi ca tấm lòng son của nàng Chiêu Quân.
Nhà thơ Tản Ðà viết bài Tế Chiêu Quân bằng chữ Hán, bản dịch của Nguyễn Thiện Kế:
"Cô ơi cô đẹp nhất trên đời
Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua.
Một đi, từ biệt cung Vua
Có về đâu nữa, đất Hồ nghìn năm"


Lệ Chi Viên
Trên trăm năm rồi nhân dan ta vẫn nhắc đến Nguyễn Trãi với nỗi đau thế thái nhân tình mà đỉnh điểm của nó là vụ án Lệ Chi Viên. Máu và nước mắt nơi vườn xưa u ám, nơi thành quách rêu phong, góp phần làm cho Nguyễn Trãi sống mãi.
Nguyễn Trãi hiệu là ỨC TRAI SINH NĂM 1380 Ở KINH ĐÔ THĂNG LONG. ¤NG THI đậu Thái học sĩ (tiến sỹ) làm quan triều đình nhà Hồ được 6 năm thì quân Minh sang đô hộ nước ta. Cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhà Hồ thất bại. Nguyễn Trãi từ chối làm quan triều Minh. Ông bị quân Minh giam lỏng ở Ðông Quan (Thăng Long cũ). Năm 1417, nghe tin Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa, Nguyễn Trãi bí mật cùng Trần Nguyên Hãn lặn lội tìm đến Lam Sơn và tôn Lê Lợi làm minh chủ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần".
Với tài thao lược về quân sự và chính trị, Nguyễn Trãi là linh hồn của khởi nghĩa Lam Sơn. Cuộc kháng chiến kéo dài mười năm (1417-1427), quân Minh phải đầu hàng. Lê Lợi lên làm vua. Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi soạn thảo giấy tờ bang giao và viết "Ðại cáo bình Ngô", một thiên"cổ hùng văn" tổng kết mười năm đánh quân Minh. Ngoài tài quân sự, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn.
Nhưng thiên tài Nguyễn Trãi đã dẫn ông đến thảm hoạ Lệ Chi Viên vì nó đi ngược lại quyền lợi của bọn vua quan thống trị, Lê Lợi không cho Nguyễn Trãi phát huy tài năng và ý nguyện vì dân. Năm 1429, Lê Lợi giết hai tướng tài là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Năm 1430, Nguyễn Trãi bị tống giam, sau được trả tự do. Ông vẫn kiên gan theo đuổi tư tưởng dân là gốc. Nhưng triều đình càng ngày càng mục nát, biết không thể chống lại phe cánh phản bội đầy thế lực, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn vui cùng tiếng thông reo, suối hát.
Cuối tháng bảy 1442, Lê Thái Tông đi tuần về phía Ðông xem duyệt binh ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự chơi chùa Minh Sơn vùng Côn Sơn. Trên đường về kinh, vua đã cùng Nguyễn Thị Lộ, người vợ trẻ của Nguyễn Trãi (giữ chức Lễ nghi học sỹ trong triều) xa giá đến Lệ Chi Viên (vườn vải) thuộc huyện Gia Lương tỉnh Hải Dương. Bổng nửa đêm, vua chết đột ngột. Quan quân im lặng đưa thi hài về cung và vu cho Nguyễn Thị Lộ giết vua. Nguyễn Trãi được tin, vội về triều, cũng bị bắt giam.
Vụ án Lệ Chi Viên trở nên một vụ án đầy oan khuất. Nguyễn Thị Lộ chỉ là một cái cớ cho bọn quyền thần gian ác tiêu diệt Nguyễn Trãi, tiêu diệt một tài năng lớn. Nguyễn Trãi đã từng viết:

Hoạ phúc có nguồn, đâu phải một buổi
Anh hùng để hận mấy nghìn năm

Chưa đầy nửa tháng sau, ngày 16/8/1942 cả gia đình Nguyễn Trãi phải chịu bản án tru di tam tộc. Thi hài Nguyễn Trãi chôn tại núi Tam Tiêm (vùng Ðông Triều) năm ấy ông sáu mươi ba tuổi.
Hai mươi năm sau (1464) LÊ THÁNH TÔNG ĐÃ RỬA OAN CHO NGUYỄN TRÃI QUA MỘT CÂU THƠ "ỨC TRAI TÂM THƯỢNG QUANG KHUÊ TẢO" (ỨC TRAI LÒNG SÁNG TỰA SAO KHUÊ).
Vụ án Lệ Chi Viên, bi kịch của Nguyễn Trãi là bản cáo trạng lên án bọn thống trị phản bội trí thức, tài năng nhân đạo. Hiện nay, trên khắp thế giới, diễn lại biết bao vụ án Lệ Chi Viên.
Lam Kiều
Bùi Hàng, một thư sinh đời Ðường (Trung quốc), một hôm xuống đò, định tìm đến Ngọc Kinh, nơi tiên ở. Cùng đáp chuyến đò có nàng Vân Kiều sắc nước hương trời; chàng thương yêu ngay, liền làm một bài thơ, tìm cách đưa người đẹp. Khi thuyền sắp cập bến, Vân Kiều cho thị nữ đưa chàng một phong thư, chàng vội bóc thư xem, có một bài thơ, ý nói: chàng chẳng phải nhọc công tìm đến Ngọc Kinh, chàng đến Lam Kiều sẽ gặp tiên. Chàng còn đang ngẩn ngơ, không hiểu Lam Kiều là nơi nào và sao lại có thể gặp tiên ở đó, thì nàng Vân Kiều đã biến mất, khi thuyền vừa cập bến.
Bùi Hàng hỏi thăm đường tìm đến Lam Kiều, đó là nơi có một cái cầu bắc qua sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Ði không biết bao nhiêu ngày, chàng đến Lam Kiều. Trời nắng gắt, miệng khát, chàng ghé một ngôi nhà bên đường, xin nước uống. Bà chủ nhà gọi: "Vân Anh, con mang nước ra, oó khách xin nước uống". Thiếu nữ tên Vân Anh mang nước ra. Chàng ngạc nhiên nhìn mãi người con gái đẹp tuyệt trần. Bà chủ thấy vậy, bảo chàng: "Con bé này là em gái của Vân Kiều, chàng chớ lấy làm lạ; hai chị em nó giống nhau như đúc". Bùi Hàng mừng lắm, có lẽ duyên trời đã định; một lát sau, chàng kể với bà chuyện gặp Vân Kiều trên thuyền. Bà tươi cười bảo chàng "Chắc Vân Kiều muốn se duyên em gái nó cho chàng", rồi bà thong thả nói tiếp "Hiện tôi có một cái cối ngọc mà thiếu chày ngọc để giã thuốc. Bao giờ chàng tìm được chày ngọc, mang về đây, tôi sẽ gả Vân Anh cho chàng". Bùi Hàng nhận lời. Chàng đi khắp nơi, đi mãi, vượt núi băng rừng mà chẳng tìm được chày ngọc. Chàng đã thất vọng, toan trở về nhà, thì may sao, một hôm chàng đang ngồi dưới một bóng cây cao, hai tay ôm đầu, chán nản, thì một ông già râu tóc bạc phơ đến bên chàng. Chàng kể lể nỗi niềm của chàng, ông tiên lấy ở túi ra một cái chày ngọc, đưa cho chàng: " Cho con, con cầm lấy". Bùi Hàng lạy tạ, băng băng trở về Lam Kiều, hai tay ôm khư khư chày ngọc nhét kỹ dưới áo. Bà chủ nhà vui mừng gả Vân Anh cho thư sinh Bùi Hàng. Chẳng bao lâu, đôi trai gái hoá thành tiên, bay lên trời.
"Lam Kiều" chỉ nơi người đẹp ở, hoặc nói đến nhân duyên tốt lành. Trong Truyện Kiều, hai lần Nguyễn Du nói đến tích này: Sau khi gặp Kiều trong buổi Thanh Minh, Kim Trọng tưởng nhớ người đẹp và "xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang". Và trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói: "Chày sương chưa nện cầu Lam...". Phan Trần có câu: "Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào...".
Kết cỏ ngậm vành: Chỉ sự báo ơn sâ
Kết cỏ: Theo Tả Truyện, Ngụy tử có người thiếp yêu không con, người thường dặn con là Ngụy Khỏa rằng: "Nếu ta chẳng may có chuyện gì hay ốm mà phải chết thì con lo gã chồng tử tế ho nàng".. Nhưng khi Ngụy tử ốm nặng sắp chết thì lại dặn khỏa: "Đem nàng chôn theo ta." Khi Ngụy tử chết, Khỏa cứ đem gả chồng cho nàng, nói rằng: "Nay ta, theo lời dặn khi cha ta còn sáng suốt mà đem gả chồng cho nàng." Đếựn khi đánh nhau với quân Tầ nở Phụ thị, Khỏa thấy một ông già cứ nắm từng bụi cỏ mà kết lại với nhau. Ngựa Đổừ Hồi vì thế mà bị vướng ngã rồi bị Ngụy Khỏa bắt. Đêm hôm ấy, nằm mộng thấy ông già kết cỏ đến nói: "Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của Tiên Nghiêm mà gả chồng cho con gái tôi, vì cớ ấy tôi kết cỏ để báo ơn sâu của tướng quân."
Ngậm vành: Tục tề hài ký dẫn trong Hậu Hán thư: Dương Bảo đời Hậu Hán thuở lên 9, một hôm đến chơi mé Bắc núi Hoa âm thấy con chim sẽ vàng bị loài chim Cắt đánh, rơi nằm dưới gốc cây đang bị kiến lửa đốt. Bảo bắt đem về nuôi, cho ăn hoa vàng hơn 10 ngày, lông lá mọc lại đủ cả mới thả cho bay đi. Đêm hôm ấy, có một đứa trẻ bận áo vàng đến trước Bảo lạy rồi nói: "Cậu là người nhân ái đã cứu sống tôi, thực cảm cái ơn đó nên nay đem 4 chiếc vòng ngọc đến tạ" (Cậu bé ngậm 4 chiếc vòng nơi miệng).

Chỉ hồng: Xích thằng.
chỉ việc xe duyên vợ chồng, việc nhân duyên do trời định.

Do điển "Xích thằng hệ túc" nghĩa là Dây đỏ buộc chân (vợ chồng).
Tục u quái lục: Vi Cố nhân một đêm trăng đi dạo chơi gặp một ông lão ngồi tựa lưng vào một cái túi lớn, trong túi có đựng đầy những sợi dây đỏ, hướng về phía mặt trăng mà kiểm sách. Vi Cố hỏi, ông lão trả lời đây là văn thư kết hôn của thiên hạ. Còn những sợi dây đỏ thì dùng buộc chân những đôi trai gái thành vợ chồng, dù cho hai bên có thù oán nhau, ở xa nhau không cùng quê quán nhưng khi dây chỉ đỏ đã buộc chân họ lại rồi, tất sẽ ăn ở hòa hợp.

Kiều:
Dù khi lá thắm chỉ hồng.
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

Chín chữ
Cửu tự cù lao: Chỉ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ.
Chín chữ này là: Sinh (sinh đẻ), Cúc (nuôi), Vũ (vuốt ve), Súc (cho bú), Trưởng (lớn), Dục (dạy), Cố (chăm nom), Phục (theo tính dạy), phục (giữ gìn).
Kinh thi: Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao... phu hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, Trường dục ngã, cố ngã, phúc ngã, xuất nhập, Phục ngã, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực." (Xót thương cha mẹ ta, sinh ta ra siêng năng khó nhọc... Cha ta sinh ta ra, mẹ ta nâng đỡ ta từ trong bụng, Cha mẹ ta đã vỗ về, nuôi nấng cho ta bú mớm, bồi bổ cho ta khôn lớn, dạy cho ta lời khôn lẽ phải, lo lắng theo dõi khi ta đi đâu, dựa theo tính ta mà khuyên răn ta, che chở, giữ gìn cho ta. Muốn báo đền ơn đức cha mẹ, công đức đó như trời rộng, không có giới hạn).

Thạch Sanh:
Đội ơn 9 chữ cù lao.
Ba xuân tấc cỏ nghĩ sao cho đành

Vân Tiên:
Thương thay 9 chữ cù lao.
3 năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình 


NGHỊ HÁCH
Nghị Hách là một nhân vật kinh khiếp trong tiểu thuyết "Giông Tố" của Vũ Trọng Phụng. Hắn thuộc loại lưu manh, nhờ gian hùng, xảo trá, lừa thầy phản bạn mà thành triệu phú. Có tiền, hắn sống trác táng và dùng tiền để mưu danh lợi.
Chân dung Nghị Hách được Vũ Trọng Phụng miêu tả chân thật, sinh động, có tính khái quát về một hạng người nham hiểm. Nghị Hách gần 50 tuổi, thân hình vạm vỡ, hơi lùn. Hắn thường đeo kính gọng vàng, đội mũ dạ đen, đi đôi giày nhọn bóng lộn. Nhưng dù có đắp lên trên mình bao nhiêu "đồ Tây" thì trông bộ dạng hắn vẫn thô lỗ, quê kệch.
Con người hắn đầy thú tính. Hắn nguyên là một cai thợ nề ở Hải Phòng. Hắn ở chung với Hải Vân trong một túp lều tàn. Một hôm, hắn vu vạ cho Hải Vân ăn cắp, đẩy Hải vân vào tù và cướp vợ bạn. Rồi hắn bỏ sang Lào kiếm ăn. Có ít tiền, hắn về Hà Nội câu kết với con buôn, làm ăn phát đạt. Hắn dựa vào tiền để móc nối với quan Tây tranh cử Nghị Viện. Một công ty tư bản Pháp muốn lợi dụng hắn để độc quyền kinh doanh nước mắm, hứa giúp hắn tranh cử. Trong lúc Nghị Hách đang dốc sức dùng mọi thủ đoạn để tranh cử Nghị Viện thì Hải Vân trở về. Ông vờ xem tử vi cho Nghị Hách để tố cáo hắn. Mỗi lời của Hải Vân là một bản cáo trạng về tội lừa thầy, phản bạn, ăn chơi trác táng đến mức loạn luân của Nghị Hách. Từ tội cướp vợ bạn, đến tội cưỡng bức cô Mịch một đêm trăng ở làng quê, đến tội giết người, lừa đảo để làm giàu. Và hắn phải trả giá cho cuộc đời nhơ bẩn ấy bằng một sự thật khủng khiếp: Long, thư ký của Tú Anh mà hắn tưởng là không cùng dòng máu với mình lại chính là con hắn (Long là đứa con sinh ra do hắn cưỡng bức vợ Hải Vân ). Do không biết rõ nguồn gốc, nên Long đã sống chung chạ với con gái Nghị Hách. Vô tình Long mắc tội loạn luân.
Bộ mặt ghê tởm của Nghị Hách được phơi bày. Nhưng hắn vẫn nhơn nhơn, tiếp tục tranh cử vào Nghị Viện. Hắn vờ phát chẩn cho dân nghèo, và nhờ quyền lực quan Tây, hắn được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Hắn lớn tiếng hô những lời dối trá, nào là "muốn đem tài trí ra làm việc công", nào là " thấy đồng bào lầm than, ai oán tôi không thể yên tâm"...
Nhưng hắn có thể lừa được ai? Một đêm "giông tố", Long- con trai hắn đã tự tử vì không thể sống tiếp cùng cha nó một cuộc đời loạn luân, lừa đảo, bịp bợm.
Nghị Hách - cái tên tiêu biểu cho cái ác đang hoành hành, chiếm đoạt quyền lực, ngự trị xã hội mới. Nghị Hách vừa ngu dốt, vừa tàn bạo, lại dùng quyền lực và đồng tiền để gây tội ác. Báo động về cái ác, nhà văn Vũ Trọng Phụng đề cao trí thức và nhân cách qua các nhân vật Hải Vân và Tú Anh.
Hoa đào năm ngoái.XEM TIẾP
Trong Truyện Kiều có đoạn kể Kim Trọng từ biệt Thuý Kiều về Liêu Dương hộ tang chú; nửa năm sau trở lại, chàng chỉ còn thấy nhà trống, vườn gai góc um tùm mà không có bóng người. Nguyễn Du nói tâm trạng chàng bằng mấy câu thơ:
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió Ðông...

"Hoa đào năm ngoái... là một tích truyện xưa của Trung quốc: đời Ðường, Thôi Hộ, quê ở Bắc Lăng về Ðô thành thi tiến sĩ. Gặp tiết Thanh Minh, cảnh đẹp như tranh, chàng thư sinh phong nhã dạo chơi quanh Kinh Ðô. Chàng khát nước, bên đường, trong một khu vườn lá xanh, hoa nở, thấp thoáng một căn nhà xinh xắn. Cổng đóng, Thôi Hộ gõ cửa. Bên trong, tiếng bước đi nhẹ nhàng, rồi tiếng một thiếu nữ hỏi: "Ai đấy?". Chàng lễ phép xưng họ, tên rồi nói: "Tôi đi dạo chơi, muốn xin nàng nước uống". Cánh cửa hé mở; một cô gái đẹp tuyệt trần mời chàng ngồi ghế đá cạnh đấy rồi trở vào nhà mang ra một bát nước. Thôi Hộ đỡ lấy, đắm đuối nhìn nàng đứng tựa gốc một cây đào đang độ nở hoa. Khuôn mặt nàng ửng hồng, hoà với màu hồng của hoa đào. Chàng cảm tạ, ra đi. Thiếu nữ nghiêng mình nhìn theo. Cổng đóng lại.
Năm sau, đúng tiết Thanh minh, Thôi Hộ trở lại nơi cũ. Cổng khoá, chàng gõ cửa hồi lâu, không thấy người chàng vẫn nhớ thương ra mở cổng. Ngẩn ngơ, chàng đề trên cánh cổng mấy câu thơ, ý nói: "Ngày này năm ngoái, bên trong cánh cửa, khuôn mặt ai cùng với hoa đào ánh lên màu hồng. Hôm nay, còn đâu khuôn mặt ai hồng thắm. Mà hoa đào vẫn cười với gió Xuân". Rồi chàng buồn bã trở về.
ít ngày sau, Thôi Hộ không nguôi thương nhớ, lại tìm đến vườn hoa đào. Lạ thay, trong nhà có tiếng khóc, chàng gọi cổng thì một ông cụ bước ra, ôm lấy chàng hỏi: "Ôi, người có phải là Thôi Hộ không?. Con gái tôi chết rồi, nó chờ người". Chàng vội bước vào nhà. Người con gái năm ngoái nằm đó, nước da vẫn ánh màu hoa đào. Chàng quỳ xuống, khẽ gọi: "Nàng ơi, Thôi Hộ đây, Thôi Hộ về đây". Người con gái mở mắt, bừng tỉnh dậy.
Sau, ông cụ gả con gái cho Thôi Hộ. Hai câu thơ của Nguyễn Du kể trên miêu tả tâm trạng Kim Trọng tương ứng kỳ diệu với tâm trạng Thôi Hộ, "thấy hoa mà chẳng thấy người".
Cô Kiều Cười
Một nhóm học trò lớn, nhân một hôm thầy đi vắng, ngồi tán gẫu với nhau về thơ Kiều.
Một anh nhận xét:
- Trong suốt Truyện Kiều, người ta thấy cô Kiều lúc nào cũng khóc, không có lúc nào cười, các bạn có thấy không?

Một anh nữa nói:
- Ðúng đấy! Cô Kiều quả thật không bao giờ cười. Nhưng mà có một lần người ta trông vào cô thì thấy cô buồn cười. Ðố các bạn đó là lần nào?

Nhóm học trò còn đang suy nghĩ, thì một anh chợt nói:
- Tôi biết rồi!. Ðó là lần thăm mả Ðạm Tiên:

"Vân rằng: Chị cũng nực cười!
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!"

Cả nhóm thanh niên đều vỗ tay cười. Nhưng một anh nãy giờ không nói gì, đứng ra nói:
- Các anh bảo cô Kiều không bao giờ cười ư?. Tôi nói là có đấy, mà lại cười to, cười nhiều nữa kia!.

Nhóm học trò sửng sốt, hỏi vặn:
- Ðâu, lúc nào?. Anh đọc chúng tôi nghe!.

Anh học trò ung dung nói:
- Ðó là lúc Từ Hải trở về rước cô:

"... Cùng nhau trông mặt cả cười
Dang tay về chốn trướng mai tự tình...".

Nhóm học trò lại một phen vỗ tay như pháo rang....
Chó gà Tề khách:
Chỉ những người có tài vặt và được quý trọng
Trong số các tân khách nhà Mạnh Thường quân nước Tề có người có tài vặt bắt chước tiếng chó sủa, gà gáy.
Đông Chu Liệt Quốc: Mạnh Thường quân là tướng nước Tề được phái sang sứ nước Tần. Mạnh Thường Quân cùng hơn nghìn tân khách, hơn 100 cỗ xe theo hướng Tây mà đi đến Hàm Dương vào yết kiến vua Tần.

Vua Tần nghe gièm có ý định giết Mạnh Thường quân. Mạnh Thường Quân muốn có chiếc áo cầu lông trắng để biếu Yêu Cơ (Thiếp yêu của vua Tần) để nhờ nàng xin hộ vua Tần. Mạnh Thường Quân dò hỏi khắp tân khách xem có ai có thể kiếm được chiếc áo cầu đó hay không.
Ai nấy đều im không đáp. Sau đó có người khách nói là có thể giả làm chó vào kho trộm lại chiếc áo cầu đã biếu vua Tần để biếu Yêu Cơ. Người khách quả đã làm được điều đó. Nhờ đó Yêu Cơ mới nói giúp vua Tần cho Mạnh Thường quân về Tề. Mạnh Thường Quân sợ vua Tần đổi ý bèn ngay đêm hôm ấy gấp đường ra đi. Đến cửa Hàm Cốc mới vào nữa đêm, cửa quan đã khóa chặt từ lâu rồi. Mạnh thường quân sợ có quân đuổi theo, mong ra khỏi cửa quan ngay nhưng cửa quan đến gà gáy mới mở. Mạnh Thường Quân lo sợ, bồn chồn.
Trong đám hạ khách có người khác bắt chước được tiếng gà gáy bèn cất tiếng gáy lên. Bao nhiêu gà quanh đó đều gáy theo. Cửa quan mở, Mạnh Thường quân cùng quan khách qua cửa quan gấp đường về Tề. ông bảo 2 người khách kia rằng: "Từ nay được thoát khỏi miệng hùm là nhờ sức chó sủa gà gáy đó.



1 nhận xét: