Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Ba sinh

Cầm đuốc chơi đêm:
Do chữ Bỉnh chúc dạ du, ý nói thời gian qua mau, đời người ta quá ngắn, phải tranh thủ mà vui chơi.
Cổ thi: Trú đoản khổ dạ trường hà bất bỉnh chúc du ? nghĩa là: Ngày ngắn khổ nổi đêm dài, sao không cầm đuốc chơi đêm.
Lý Bạch: Quang âm giả bách đại chi quá khách

Nhi phù sinh nhược mộng vi hoan kỷ hà
Cổ nhân bỉnh chúc dạ du lương hữu dĩ giả

Nghĩa là: Ngày giờ thì như người khách đi qua mãi mãi trăm đời, mà kiếp phù sinh của con người thì như một giấc mộng, vui được bao nhiêu. Cổ nhân cầm đuốc chơi đêm thật có lý do vậy.
Ba sinh
Ba kiếp luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác của con người là : Quá khứ, hiện thực và Vị lai.
Theo Cam Trạch Ðạo : Lý Nguyên đời Ðường cùng Viên Trạch đến chơi núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh vó đi lấy nước giếng. Viên Trạch nói : "Bá đó là nơi thác thân của tôi, 12 năm sau tôi sẽ gặp lại bác tại mé ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu." Ðêm hôm đó Viên Trạch mất. 12 năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa trẻ chăn trâu hát rằng : "Tam sinh thạch thương cựu linh hồn... thử thân tuy dị tính trường tồn" (Linh hồn cũ gửi lại ở đá ba sinh, thân này tuy khác nhưng tính vẫn còn mãi như xưa). Lý Nguyên biết đứa trẻ chăn trâu đó chính là Viên Trạch.
Duyên nợ ba sinh : Duyên nợ với nhau trong cả 3 kiếp.
Kiều :
Vì chăng duyên nợ ba sinh.
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

ả Lý :
Nàng Lý Ký sống vào thời Hán Vũ đế.
Sưu thần ký : Quận Mãng Trung đất Ðông Việt có cái hang núi có con rắn to. Hàng năm, nhân dân phải cúng cho nó một đồng nữ. Có một năm, viên quan lệnh lùng tìm đồng nữ mà chẳng được ai. Bấy giờ, ở huyện Tương Lạc có người con gái tên là Ký muốn nhân dịp này bán mình lấy ít tiền nuôi cha mẹ. Nàng bèn trốn đến cửa quan tự bán mình nộp thần rắn và xin một thanh gươm tốt, một con chó dữ. Ðến ngày lễ thần rắn, Lý Ký cầm gươm dắt chó ngồi chờ sẵn trong miếu. Con rắn khổng lồ từ trong hang bò ra, Ký thả chó ra cắn còn nàng theo sau dùng gươm chém. Rắn bị thương đau đớn, lao vọt ra khỏi hang đến trước sân miếu thì chết. Việt Vương Hán Vũ đế (Tức Ðông Việt Vương, Ðông Việt là tên nước được lập ra từ năm Kiến nguyên, năm 140 trước công nguyên) nghe biết chuyện bèn đón vào cung lập làm hoàng hậu.

Lẩy Kiều hay tập Kiều ?

Truyện Kiều, ai cũng phải phục là một áng văn bất hủ. Giá trị của truyện Kiều không những ở trong câu văn óng chuốt, ý tứ hàm súc mà còn ở cái nhạc điệu dịu dàng êm ái dễ nhớ, dễ ngâm, dễ truyền tụng; ai gặp trường hợp nào cũng có thể tìm được một câu Kiều vừa ý mà ngâm ngợi, giải tỏ nỗi lòng.

Để tả những tâm trạng phức tạp mà một hai câu liền không đủ ngụ được hết ý, người ta đặt ra lối “lẩy Kiều” hoặc “tập Kiều”, nghĩa là lấy một câu sáu ở đoạn này ghép vào với câu tám cùng vần ở đoạn kia. Dùng lối này, có người đã mô tả được những sự vật mà Nguyễn Du không từng đề cập đến, cả những sự vật chưa có trong thời ông.

Chẳng hạn như:

Cái ống máng
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng
Nhìn càng lã chã giọt hồng,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra…

Phi công ngồi máy bay khu trục
(chữ E ở câu thứ ba xin hiểu nghĩa là chữ “Air” của tiếng Anh)

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Thành xây khói biếc, non phơi bòng vàng
E thay những dạ phi thường
Nữa khi dông tố phũ phàng, thiệt riêng

Một ông bạn của nàng Phù Dung (thuốc phiện) cứ cả tuần mới vào cầu một lần, mà mỗi lần trên thì thông, dưới lại bí, ì ạch mãi chẳng được, cũng nhăn nhó lẩy Kiều:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần!

(dặn =rặn, theo phát âm miền Bắc)
Một ông xuất thân làm nghề hát chèo, sau trở nên giàu có, đứng ra mở một công ty nấu rượu lớn, được mừng như sau:
Hương càng đượm, lửa càng nồng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo

Một ông khác cho người hàng xóm mượn tiền, mãi không thấy trả, sai người đi hối thúc mới hay con nợ đã bỏ đi từ hồi nào không biết, bèn lẩm bẩm phàn nàn:
Thúc ông nhà ở gần quanh
Bạc đem mặt bạc lánh mình cho xa

*********
Những chữ dùng trong truyện Kiều đôi khi còn được khoác cho một nghĩa riêng biệt để phù hợp với một cảnh ngộ khác thường.

Một anh học trò quanh năm ở tỉnh, nhân ngày xuân cao hứng về vùng quê chơi. Đi qua bãi cỏ thấy mấy cô thôn nữ chăn bò đang cười đùa vui vẻ, anh chàng liền sấn đến kiếm chuyện làm quen.

Một cô trong bọn lên tiếng ngay:
Trông chừng thấy một văn nhân…
Rồi cô bỏ lửng. Anh học trò hí hửng, vuốt lại vạt áo đứng ngóng câu tiếp theo.
Chợt một cô khác cất giọng:
…Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Những tưởng mình được là Kim Trọng, đã tấp tểnh mừng thầm, ai ngờ lại bị coi là Mã Giám sinh, anh học trò vừa thẹn vừa tức. Anh ta bèn đòi đố Kiều (môn sở trường của anh ta bấy lâu nay) với các cô thôn nữ.
Một cô nhanh nhẩu: “Chúng em quê mùa dốt nát đâu dám khoe tài. Biết anh giỏi Kiều, xin nhờ anh đọc một câu Kiều bảo con bò đang đi chỗ này đứng lại xem nào".
Anh học trò chột dạ, đánh liều đọc:

Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.

Anh ta cố ý đọc to chữ đứng. Con bò vẫn tiếp tục đi. Một cô liền nói:
-Thôi, anh chả bảo được nó đâu, để em bảo dùm cho.

Đoạn, cô ngâm:
Họ Chung có kẻ lại già
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm

Cô đọc to và kéo dài tiếng họ (họ: tiếng vùng quê dùng để bảo trâu bò đứng lại), quả nhiên con bò đứng lại ngay. Kế đó một cô thách:
-Bây giờ lại đố anh bảo được con bò rẽ sang bên phải đấy.

Anh chàng muốn gỡ thẹn, liền đọc luôn:
Nàng rằng phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Anh nhấn mạnh cả hai tiếng đi, con bò đi thật nhưng lại đủng đỉnh đi thẳng chứ không rẽ sang bên phải. Anh chạy theo đọc lại lần nữa, nó cũng chẳng nghe cho. Chợt nhớ ra một câu khác, tin chắc lần này thế nào cũng có kết quả, anh dõng dạc ngâm:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha
(Dẽ=rẽ theo phát âm miền Bắc)
Anh kéo dài tiếng dẽ. Con bò vẫn chậm rãi đi thẳng đường. Các cô ôm bụng cười. Anh chàng tiu nghỉu, mặt chín rừ. Bấy giờ một cô trong bọn mới đọc:
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu

Cô nhấn mạnh tiếng vắt (tiếng vùng địa phương để bảo trâu bò rẽ sang bên phải), quả nhiên con bò ngoan ngoãn rẽ sang phải.
*********
Xưa, có một cô thiếu nữ ăn nói bặt thiệp, mở quán nước bên đường để kén chồng. các cậu khóa anh đồ nghe tin kéo đến rất đông, ai cũng muốn khoe tài để mong được người đẹp chú ý; nhưng đã bao ngày vẫn chưa có ai địch lại mồm mép của giai nhân.
Nghề đời vỏ quýt dày tất có móng tay nhọn.

Một hôm, một nho sinh vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi lần, lại giở cái giọng “đàn chị” ra để trêu chọc, nhưng anh chàng đối đáp không kém phần cứng cỏi. Cuối cùng, cô bèn đọc một câu tập Kiều:

Khen cho con…mắt tinh đời!
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già

Cô nhấn mạnh ba tiếng khen cho con, nghỉ một lát rồi mới nối ba tiếng sau. Lối đọc này mang hàm ý: “Khen cho con đấy, con ạ!”.
Nho sinh hiểu ý, đọc ngay một câu cũng trong Kiều:
Vả bây giờ…mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai

Lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng vả bây giờ, cũng nghỉ một tí mới đọc tiếp ba tiếng sau, khiến cho câu thơ có nghĩa là: “Hỗn với tôi thì tôi vả cho bây giờ!”
Thấy nho sinh trả lời hóm hỉnh như vậy, cô gái vừa phục vừa thẹn, mắt đỏ ửng lên và lặng thinh ngồi mân mê tà áo…

1 nhận xét:

  1. Bài viết rất hay, những lúc căng thẳng mà đọc những bài như thế này sẽ hết mệt mỏi ngay

    Trả lờiXóa