Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng (phần IV)

Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng (phần IV)






V. TRỊNH CÔNG SƠN - NGƯỜI TÌNH CỦA CUỘC SỐNG
Con ngườii trước cái chết và nỗi ám ảnh tàn phai
Trong một lần trả lời phỏng vấn về những bản tình ca, có người so sánh nội dung ca từ Trịnh Công Sơn với thơ ca Rabindranath Tagore nhà thơ của “Tâm tình hiến dâng”, “Người làm vườn”, “Mùa hái quả”... Trịnh Công Sơn trả lời, chỉ xin được làm “Người tình của cuộcsống”. Thật vậy, những ca từ của Trịnh Công Sơn là những khát khao của một người khát sống.
Bởi vì khát sống, nên ông luôn ám ảnh về cái chết.
Trịnh Công Sơn từng nói: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và cái chết trở thành một vấn đề lớn trong đời sống tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi”. [61; 523]
Trong ca từ Trịnh Công Sơn chúng ta dễ dàng bắt gặp những “ám ảnh” ấy:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày.
                                                                            (Cát bụi)
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời.
(Bên đời hiu quạnh)
Sống có bao năm vui vui buồn buồn
người người ngợm ngợm
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non.
                                                                                           (Giọt lệ thiên thu)
Sự nhạy cảm thường trực về tính hữu hạn của cuộc đời đã thúc đẩy tâm hồn ông luôn tiếp cận với cõi vô thường.
Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu...
Hạt cát ngu ngơ nằm chìm dưới chân đi
Bờ bến thiên thu nằm chìm dưới hư vô.
(Chìm dưới cơn mưa)
Sống từng ngày
Chết từng ngày
Còn sống một ngày là hẹn chết mai đây.
                                                                                 (Buồn từng phút giây)
Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù
Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần...
Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này.
                                                                                                       (Phúc âm buồn)
Nhưng có lẽ ca khúc Một cõi đi về với những ca từ nhuốm màu Thiền - Phật là ca khúc có cái nhìn mới về số kiếp con người, ông xem cái chết như một sự giải thoát, nếu nhìn từ phương diện triết học. Sinh thời, Trịnh Công Sơn cũng từng công nhận Một cõi đi về là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu vì có những câu trong bài hát này bản thân ông cũng thấy khó giải thích. Nhưng tuy vậy, dù không hiểu hết lời nhưng chúng ta khi nghe, khi hát lên thì có điều gì đó chạm đến trái tim của mình. [61; 520]
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Mỗi con người đều có một cõi đi về riêng của mình, đó là ý đồ chính của bài hát. Từ hư vô người ta đến với cuộc sống và từ cuộc đời rong chơi một thời gian người ta lại trở về với hư vô. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng có cảm nhận rất lạ là sau khi nghe bài hát này ông không cảm thấy sợ chết nữa. [61;520] Ấy là một cảm nhận chung của chúng ta, vì ai cũng có cõi đi cõi về giống nhau nên việc đến và đi tới cuộc đời rồi trở lại hư vô không còn hăm dọa con người, không xa lạ với mọi người. Hiểu được như thế, con người chợt thanh thản trước cái chết.
 Qua ca từ Một cõi đi về của Trịnh Công Sơn chúng ta bắt gặp tính chất vô thường của thơ Thiền đời Lý-Trần trong bài Chợt tỉnh của Tuệ Trung:
Đoán biết rằng “không” và “có” không cách nhau lắm
Sống và chết vốn từ một đợt sóng
Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay
Hoa nở năm mới cũng là hoa năm cũ
Ba sinh thấm thoắt thực như ngọn đuốc trong gió
Chín cõi tuần hoàn giống như con kiến bò
trên miệng cối xay bột
Có người hỏi thế nào là cứu cánh
Ma-ha-bát-nhã tát--ha.
 Trong các bài thơ Thiền đời Lý-Trần, các nhà thơ cũng phản ánh thân phận con người ngắn ngủi và chóng vánh. Đời người chỉ “Như một ánh chớp, mới có đã thành không” (Thị đệ tứ - Vạn Hạnh). Tính chất vô thường này được biểu hiện sinh động qua hình ảnh “Ba sinh thấm thoắt như ngọn đuốc trước gió” (Đốn tỉnh - Tuệ Trung). Tất cả, cuộc sống, công danh phú quý, hạnh phúc tuổi xuân, đều chỉ là một giấc mộng ngắn ngủi, một áng mây nổi tụ tán không định trước, một mũi tên bay mất hút không trở lại. Các nhà thơ Thiền luôn kêu gọi mọi người nhận thức rõ điều này “Mặt trời lên rồi sẽ lặn, đời người nổi rồi sẽ chìm” (Thư thời vô thường kệ - Khóa hư lục, Trần Thái Tông); “Tháng ngày không ở lâu; cái già, cái bệnh rất dễ xâm nhập” (Hoàng hôn khuyến chứng kệ - Khóa hư lục, Trần Thái Tông), kêu gọi con người nhìn thẳng vào thực tế. Tính chất ngắn ngủi vô thường của thời gian trần thế cần được ý thức không phải để bi quan yếm thế mà để vượt lên khỏi nỗi sầu cố hữu này, đạt đến tâm thái “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước nở một nhành mai) (Cáo tật thị chúng, Mãn Giác thiền sư). [14]
 Ngay trong cái giây phút “ngộ đạo” thì thời gian hữu hạn đã trở thành thời gian vô thủy vô chung, mùa xuân có đi có đến đã trở thành mùa xuân hằng thường, vĩnh cửu, hay nói khác, thời gian đo đếm được đã trở thành một thứ siêu thời gian. Trong các tác phẩm luôn có sự vận động biện chứng giữa cái vô thường và cái hằng thường, giữa khoảnh khắc và trường cửu. Thấm nhuần tính chất Thiền Phật giáo, Trịnh Công Sơn cũng đã “ngộ” ra cõi đời này chỉ là cõi tạm và ông kêu gọi mọi người hãy sống vui vẻ nơi Quán Trọ này:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Cành tre… (í… a)
Dòng sông… ( í… a)
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
(Í…a …í… à… í… à… a…)
                                                                               (Ở trọ)
Bi kịch phận người không chỉ mâu thuẫn giữa cái hữu hạn và vô hạn mà còn là bi kịch của sự phi lý. Trong Trường ca Tiếng hát dã tràng, Trịnh Công Sơn đã nói rõ điều ấy. Theo tài liệu Nguyễn Đắc Xuân, Trịnh Công Sơn viết trường ca này lấy ý tưởng từ tác phẩm Le Mythe de Sisyphe(Huyền thoại Sisyphe) của Albert Camus – tác gia hiện sinh người Pháp đoạt giải Nobel 1957. Tác phẩm Huyền thoại Sisyphe nói về sự phi lý của cuộc đời. Tất cả những gì con người nỗ lực xây dựng nên rồi cũng chẳng đi đến đâu, giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai hằng ngày phải đẩy một tảng đá lên núi cao và thả tay cho tảng đá lăn xuống vực rồi sau đó lại cố sức đẩy lên rồi lại thả tay. Tất cả sự nỗ lực ấy không có nghĩa gì hết, giống như truyền thuyết “Dã Tràng xe cát biển Đông” của người phương Đông vậy. Trường ca Tiếng hát Dã Tràng nhuốm màu triết lý về thân phận làm người. Kiếp người là vô nghĩa, con người là khổ đau, chỉ có tình yêu mới làm vơi bớt khổ đau. Trường ca là tiếng kêu thống thiết của “Dã Tràng khóc cho thân mình” trước cảnh “Trùng dương đưa sóng vào bờ, đùa lên biển cát hoang vu, xóa từng mảnh công dã tràng…” nói lên niềm đau vô vàn của thân phận. Những gì con người làm ra rồi cũng là công dã tràng. Tuy nhiên mang thân phận làm người thì chỉ “… còn dài mai sau đời lên cơn đau”. Một ý niệm ở đây bắt gặp tư tưởng đạo Phật “Đời là bể khổ”… Nhưng không phải vì vậy mà ông tuyệt vọng, buông xuôi. [28] Trịnh Công Sơn chỉ ra rằng chỉ có tình yêu mới làm vơi bớt khổ đau và đó là chốn trú ẩn cuối cùng:
Tên tháng ngày viết trên môi cười
Đốt đêm dài nghe ngóng tình yêu,
Nghe dã tràng xuống hai vai gầy,
Đốt cơn buồn đi đến tình yêu,
Gọi vào tình yêu, gọi vào tình yêu
Ta ra ngàn lối bắc loa gọi vào tình yêu.
Nhạc sĩ Văn Bình cho rằng: “Trường ca này là kho lưu trữ những ưu tư mà ta thường bắt gặp lại trong nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn sau này như Lời buồn thánh, Đóa hoa vô thường”. [19; 74]
Một lát cắt quan trọng nữa để tìm hiểu về phận người mong manh, chóng tàn là tìm hiểu nỗi ám ảnh thời gian tàn phai trong thế giới Trịnh Công Sơn.
Trong tác phẩm Trịnh Công Sơn / Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, Bùi Vĩnh Phúc đã phân tích khá kỹ nỗi ám ảnh thời gian tàn phai này. Nhận xét rằng người ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh tàn phai trong thế giới của Trịnh Công Sơn, như nắng vàng phai, lá vàng phai, ôm lòng phai tàn, thu phai, mộng nhạt phai, v.v…, ông viết: “Đối với ông, thời gian thường đi quá nhanh, để tất cả những gì là tươi đẹp trong cuộc sống này cứ thế mà phai úa, tàn héo dần. (…) Trong bài Nhìn những mùa thu đi, Trịnh Công Sơn viết: “Nhìn những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng/ Và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng/ Nghe tháng ngày chết trong thu vàng (…) Đã mấy lần thu sang / Công viên chiều qua rất ngắn / Chuyện chúng mình ngày xưa, anh ghi bằng nhiều thu vắng, đến thu này thì mộng nhạt phai”. Quên lãng, chết, rất ngắn, nhạt phai. Đó là những nhận thức của Trịnh Công Sơn về bước đi hững hờ mà gây nhiều xót xa, đau đớn của thời gian, đối với kiếp người”. [4]
Không phải chỉ trong ca từ Trịnh Công Sơn mới tiếc xuân thì, mới ám ảnh nỗi tàn phai. Thơ xưa đã đầy những lời cảnh báo về nỗi ngắn ngủi của tuổi trẻ: Chơi xuân kẻo hết xuân thì/Cái già sồng sộc nó thì theo sau. Và đặc biệt đến Thơ Mới, tiếng thơ của quyền sống cá nhân – nó trở thành một tiếng nói đầy ý thức về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của cuộc đời.
Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
                                                                               (Xuân Diệu)
Chế Lan Viên thì chối từ dứt khoát khi mùa Xuân đến, ông muốn ở lì với mùa Thu, có nghĩa là ông muốn ở lì với quá khứ, níu giữ thời gian đã mất. Ông ước muốn:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
                                                                          (Xuân - Chế Lan Viên)
Tương tự như vậy, Xuân Diệu lại mong ước táo bạo hơn: Tôi muốn tắt nắng đi/Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại? Cho hương đừng bay đi(Vội vàng). Khó mà bảo rằng ước muốn ấy không “ngông cuồng”, “ngộ nghĩnh”, không chứng tỏ “một sức mạnh phi thường” bởi con người ta ai mà tắt được mặt trời, mà buộc nổi gió, ai mà quay ngược lại bánh xe tạo hoá của thời gian. [21]
Trịnh Công Sơn cũng có một mơ ước rất đẹp, rất “dị thường” như Xuân Diệu và Chế Lan Viên. Nhưng mơ ước của ông lại chỉ là “chăn gió mưa sang”.
Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn,
bàn tay chăn gió mưa sang…
                                                               (Biển nhớ)
Tuy nhiên, ở đây ta thấy các nhà Thơ Mới luôn níu kéo thời gian, luôn muốn quay về quá khứ nên “chắn nẻo xuân sang”. Còn Trịnh Công Sơn cũng buồn, cũng tiếc nuối thời gian. Nhưng ông hiểu đó là quy luật muôn đời của tạo hoá nên chấp nhận chứ không níu kéo, mà cùng hoà vào thiên nhiên để “chăn gió mưa sang”.
Những ca khúc viết về thân phận con người của Trịnh Công Sơn trước sự sống cái chết và nỗi tàn phai cũng chỉ là đi tìm cái hữu hạn của kiếp sống. Sự hiện diện của mỗi số phận bắt buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó, do định mệnh an bài và cái không gian vô định phải nhận diện. Theo nhà Phật đó là nhân quả, là luân hồi, là sự sinh trưởng không ngơi nghỉ và biến hóa vô cùng để phát triển, tạo nên cái “nghiệp” cho số phận. Con người đã ai thoát khỏi vòng: sinh, bệnh, lão, tử và ba chữ tham, sân, si dễ gì tránh được? Nên cái thân phận khốn khó mà mỗi kiếp người phải mang nặng, không nằm trong phạm trù riêng, nó trải rộng ra cả thế gian này với những sai biệt xuyên qua cung số. Cát bụi lại trở về cát bụi.
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
...Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay.
                                                                              (Cát bụi)
Con người trong nỗi cô đơn
Thân phận con người mong manh trước sự sống và cái chết, trước nỗi buồn và sự cô đơn không phải là tâm trạng của riêng ai. Có lẽ là định mệnh tiền kiếp của con người. Văn chương lãng mạn từ xưa đến nay đều buồn, đặc biệt trong thơ trữ tình, nỗi buồn của thi nhân càng được bộc lộ một cách thấm thía hơn.
Riêng với Trịnh Công Sơn - người nhạc sĩ thấm nhuần nền văn hóa lãng mạn Pháp từ thuở nhỏ thì cái tôi, cái bản ngã của ông càng được bộc lộ, khẳng định rõ nét. Nó như một ám ảnh của đời mình. Trịnh Công Sơn là một khối cô đơn. “Làm sao thấu từng nỗi đời riêng…” (Như một lời chia tay). “Người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm…” (Ru ta ngậm ngùi). Hãy nghe ông nói về thế giới của ông: “Tự mình biết riêng mình và ta biết riêng ta” (Ngẫu nhiên). Một trong những thú tiêu khiển của ông là mỗi ngày “Ngồi trong phòng uống rượu và nhìn nắng từ sáng đến chiều tối”. Ông tận hưởng cái thú “Ngồi yên lặng nhìn trời đất và suy tưởng về những điều mình chưa tự giải đáp được cho chính bản thân mình…” Ông cũng cho biết “Khoảng thời gian thích nhất là được ngồi yên tĩnh một mình trước khi có một người bạn đầu tiên xuất hiện để phá tan sự yên tĩnh đó”. Vì thế, những nỗi niềm thầm kín của ông trước sau vẫn là “Một điều giấu kín trong tim con người là điều giấu kín thôi” (Một lần thoáng có).[22]
Bùi Vĩnh Phúc nhận định rằng “tâm hồn là kẻ săn đuổi cô đơn”, nói theo Carson McCullers. Ông viết: “Chính trong sự cô đơn, con người nghe ngóng được cuộc đời, cảm nhận được những hiện tượng thiên nhiên một cách rõ ràng hơn. Trịnh Công Sơn cũng vậy. Trong tịch lặng của niềm cô đơn, thính giác của ông trở nên mẫn cảm hơn bao giờ. Sự nghe ngóng cuộc đời, cảm nhận thiên nhiên của ông, ở một góc cạnh nào đó, cũng là một nỗi ám ảnh muốn ôm lấy đời sống này: “Đêm nghe gió tự tình/Đêm nghe đất trở mình vì mưa/Đêm nghe gió thở dài/ Đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai… (Nghe tiếng muôn trùng). Nghe ngóng thiên nhiên, ông có dịp sống trở lại những cảm giác, những hạnh phúc và đau đớn cũ. Đời sống ông trở nên đậm nét và sâu lắng:
Đôi khi thấytrên lá khô một dòng suối
Đôi khi thấy trong mắt em một dòng suối nhỏ nhoi…
Đôi khi bước qua phố xưa lòng tôi nhớ
Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô.
                                                                                         (Rồi như đá ngây ngô)
Cảm giác cô đơn có lẽ là định mệnh của con người, cho dù ở bất cứ nơi đâu. Trên chính quê hương mình hay ở xa quê hương. Vào thời bình hay thời chiến. Giữa đám đông hay trong khoảng vắng... Chỉ còn có thể về với mình, về với tôi:
Trời cao đất rộng
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Đời như vô tận
Một mình tôi về
Một mình tôi về... với tôi!
                                                         (Lặng lẽ nơi này)
 Tương tự như vậy, đối với các nhà Thơ Mới, cô đơn là nỗi buồn truyền kiếp. Họ ý thức quá đầy đủ về chính mình nên càng cảm nhận rõ rệt cảm giác cô đơn.
Có những nỗi buồn vô cớ xâm chiếm tâm hồn một cách nhẹ nhàng, êm ái:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
…Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu, khẽ buồn…
                                                                          (Chiều - Xuân Diệu)
Nhưngthấm thía hơn là nỗi buồn mang theo cảm giác cô đơn:
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
                                                                   (Nguyệt Cầm – Xuân Diệu)
Huy Cận cũng từng ví tâm hồn cô đơn, sầu não giữa cõi đời của mình như hòn đảo:
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây.
                                                                                       (Mai sau)
Trần Tử Ngang của Trung Hoa hơn ngàn năm trước, cũng đã từng có một nỗi buồn tương tự như thế:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.
Tạm dịch:
Ai người trước đã qua?
Ai người sau chưa đẻ?
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ.[18; 135]
Tuy nhiên, cái buồn và cô đơn của các nhà Thơ Mới khác với cái buồn của Trịnh Công Sơn. Các nhà Thơ Mới chỉ biết tỏ thái độ bất hòa với đời sống xã hội bằng cách lẩn trốn vào cái tôi cô đơn, buồn bã: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ. Ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư. Ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi cũng tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ, ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. [18, 34]
Theo tôi, với Trịnh Công Sơn, ông chấp nhận cô đơn. Trong cô đơn ông nghe ngóng cuộc đời, cảm nhận những vi diệu tinh tế của thiên nhiên. Quan điểm tích cực về cái tôi cô đơn của Trịnh Công Sơn đã quyết định chỗ đứng và điểm nhìn của ông trước cuộc đời. Trịnh Công Sơn cô đơn nhưng không trốn vào nỗi đau của riêng mình mà trải lòng ra với đời, đón nhận, và chấp nhận:
Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người
 tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
 còn những ngày quên kiếp sống lẻ loi
Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người
 tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
 tình sáng ngời như sao xuống từ trời.
                                                                     (Tạ ơn - Trịnh Công Sơn)
Tình yêu trong ca từ TrỊnh Công Sơn
Tạ ơn đời, tạ ơn tình yêu là một trong những đặc điểm nổi bật trong ca từ Trịnh Công Sơn. Tình yêu ở Trịnh Công Sơn là tình yêu không hạnh phúc. Hầu hết trong những tình ca của ông là những bức tranh mang tên: tình phụ, tình sầu, tình xa, tình xót xa vừa, tình nhớ, tình vơi… Hạnh phúc có chăng, chỉ đong bằng những mảnh vụn và những mảnh vụn… cũng sẽ chìm trôi. [7]
 Trong đời người ai chẳng từng yêu và được yêu… và tránh sao khỏi những cuộc tình tan vỡ. Thế giới tình yêu của Trịnh Công Sơn là một đóng góp thành công trong việc phát hiện và biểu hiện những ngôn ngữ tình yêu sâu kín, thể hiện mọi cung bậc tình cảm, nhớ thương, tương tư, mong chờ, giận hờn, trách móc, xót xa, biệt ly, thất tình, tình phụ… Điều đó làm nên tính chân thật, đa dạng trong các ca từ của ông. Lạc vào thế giới tình ca của ông, mỗi người đều bắt gặp thân phận tình yêu của mình.
Trong bài Biển nhớ, viết về mối tình với cô Tôn Nữ Bích Khê, người Nha Trang, một bạn học cùng lớp thời Sư phạm Quy Nhơn, Trịnh Công Sơn nói lên nỗi chờ mong, da diết:
Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về
Gọi hồn liễu rũ lê thê
Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ…
 Chỉ trong một bài Biển nhớ, mà chúng ta bắt gặp đến 2 từ chờ, 3 từ nhớ, 6 từ buồn, 6 từ gọi. Có lẽ chưa có một bản tình ca nào mà nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt đến thế.
 Nguyễn Bính cũng từng thương nhớ người yêu khắc khoải qua bài Tương tư nổi tiếng:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
 Xuân Diệu cũng không kém phần mãnh liệt trong bài Tương tư, chiều:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
 Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Yêu là bắt đầu chuốc lấy tương tư, nhớ mong, khắc khoải đợi chờ. Trong tình ca của Trịnh Công Sơn chúng ta hay bắt gặp những mối tình dang dở, tan vỡ:
Ngày tháng nào đã ra đi
Khi ta còn ngồi lại
Cuộc tình nào đã ra khơi
Ta còn mãi nơi đây.
                                                       (Tình xa)
Xin vỗ tay cho đều
Khi đêm đổ xuống đời ta
Xin vỗ tay cho đều
Khi tình trôi đã trôi xa.
                                                 (Tình xót xa vừa)
Tình ngỡ đã quên đi
Như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang.
                                                                  (Tình nhớ)
 Trong thơ Nguyễn Bính cũng hay nói đến mối tình đơn phương, một phía, yêu nhưng lại bị hững hờ:
Tâm hồn tôi là một bình rượu nhỏ
Rót lần lần giọt mãi xuống nàng Oanh
Không xua tay nàng vẫn cứ vô tình
Hắt ly rượu hồn tôi qua cửa sổ.
                                                                    (Tựa đề một thiên tình sử)
 Với Hàn Mặc Tử lại là tiếng kêu thống khổ của tình yêu tan vỡ:
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi: một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ?
                                                                       (Những giọt lệ)
 Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn buồn, đau một cách lặng lẽ. Ông kể lể, thì thầm như tự an ủi chính mình. Không quằn quại, tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử, không mặc cảm như Nguyễn Bính, không vội vã cuống quýt như Xuân Diệu. “Vì tình yêu của Trịnh Công Sơn là chiếc bóng lung linh, thấp thoáng, chập chờn:Tình không xa nhưng không thật gần (Như một lời chia tay), thoắt ẩn thoắt hiện: “Rộn ràng nhưng biến nhanh…” (Tình sầu). Những mối tình “Không hẹn mà đến, không chờ mà đi” (Bốn mùa thay lá), nghĩa là chẳng có hẹn hò, thề thốt, ràng buộc gì nhau. Tất cả chỉ là tình cờ:Ta gặp tình cờ như là cơn gió (Hoa vàng mấy độ), “Coi như phút ấy tình cờ” (Nguyệt ca). [22]
 Trong Thủ bút Trịnh Công Sơn có viết: “Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại. Dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi”. [54] Điều ông nói quả thật đúng; hơn thế nữa, khi lắng nghe một bản tình ca cũng là khi “lắng nghe im lặng cuộc tình” (Tôi đang lắng nghe).
 Theo Lê Hữu, thực ra, Trịnh Công Sơn thích nói về tình phụ hơn là tình yêu, vì ông nghĩ hầu như ai đến với ông cũng chỉ chực chờ phụ rẫy ông vậy. “Cái may ở đời là được yêu và đôi khi cái may ở đời là bị phụ tình”, ông nói thế. Và những tình phụ, phụ tình vẫn trải đầy trong những ca từ của ông. [22]
Ru em phụ rẫy trong ta…
Yêu em, yêu thêm tình phụ…
                                                                    (Ru em)
Em phụ tôi một thời bé dại…
Trả nợ một đời em đã phụ tôi…
                                                                       (Xin trả nợ người)
Trịnh Công Sơn cũng viết về duyên và nợ, những món nợ tình chẳng bao giờ thanh toán nổi:
Trả nợ một đời không hết tình đâu…
                                                                                 ( Xin trả nợ người)
Trong những tình khúc Trịnh Công Sơn, tình yêu vừa là mật ngọt, vừa là mật đắng:
Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi.
Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời…
                                                                                 (Lặng lẽ nơi này)
Tại sao lại như vậy? Trịnh Công Sơn không có lời giải thích, chỉ nghe ông nói: “Con người không thể sống mà không yêu. Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc, con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại”.[52]
Những chuyện tình ông viết thường là những chuyện tình lặng lẽ, không sóng gió, không sôi nổi, nhưng không phải là không đắm say, nồng nàn:
Tôi xin làm cây xa, đứng nhìn em rực rỡ
Tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi
Tôi xin làm mộng nhỏ, em vừa giấc ngủ say...
                                                                                             (Vì tôi cần thấy em yêu đời)
 Trịnh Công Sơn mơ ước làm giấc mộng để ru em vào giấc ngủ say. Còn Huy Cận lại mơ ước hầu quạt cho em ngủ:
Nắng chia nửa bãi: chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
                                                                              (Ngậm ngùi – Huy Cận)
Ru người yêu ngủ ai mà chẳng trìu mến, nhưng đến mức nhẹ nhàng, trân trọng như Huy Cận thì có lẽ không nhiều. “Mở lòng cùng quạt, và thả trăm con chim mộng quấn quýt quanh giường em nằm là một hình ảnh đẹp nên thơ và lãng mạn ít thấy trong thơ ca Việt Nam”. [21; 87]
 Nhưng phải đến Trịnh Công Sơn, hình ảnh trong thơ tình Việt Nam mới diễm ảo và bước sang một bước ngoặt mới – bắt đầu từ tình khúc Diễm xưa – mối tình đầu của Trịnh Công Sơn với âm nhạc Việt Nam. “Tôi chỉ có những mối tình lãng đãng, khói sương, hoàn toàn không có gì cụ thể. Diễm xưa cũng là một loại tình yêu như vậy”.(7)
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu…
                                                                             (Diễm xưa)
 Kể từ Diễm xưa, “Kể từ Trịnh Công Sơn trở đi, các tình khúc đã đổi khác rất nhiều, và nền tân nhạc phải cảm tạ ông về sự khai phá đó”. Nữ ca sĩ Quỳnh Giao đã có lời nhận định như vậy.[46;205] Trước Diễm xưa làm gì có những “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”, “Làm sao em biết bia đá không đau?” Tình yêu phả hơi thở, truyền cảm xúc đến cả những vật thể vô tri, vô giác. Bằng những ca từ như vậy, Trịnh Công Sơn đã vẽ ra những khuôn mặt tình yêu hoàn toàn khác lạ, không hình dung nổi khuôn mặt ấy ra sao, có hay không, thực hay ảo?
 Đọc ca khúc Diễm xưa của Trịnh Công Sơn, chúng tôi chợt nhớ đến một nhạc phẩm cũng rất nổi tiếng vào những năm 70 của Phạm Duy Ngày xưa Hoàng Thị phổ thơ của Phạm Thiên Thư. Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư kể về mối tình của nhà thơ với cô Hoàng Thị Ngọ, một bạn học cùng lớp, ở gần nhà ông. Bài thơ cũng có hình ảnh thiếu nữ vai gầy, tóc dài bay, áo trắng tinh khiết ôm cặp đến trường, đi dưới hàng mưa. Nhưng ở đây là Sài Gòn không phải Huế, nên nàng không đi dưới hàng cây long não lá li ti, mà đi dưới cội hoa vàng.
Em tan trường về / Đường mưa nho nhỏ / Chim non giấu mỏ / Dưới cội hoa vàng / Bước em thênh thang / Áo tà nguyệt bạch / Ôm nghiêng cặp sách / Vai nhỏ tóc dài / Anh đi theo hoài / Gót giày thầm lặng / Đường chiều úa nắng / Mưa nhẹ bâng khuâng... / Phố ơi? Muôn thuở / Giữ vết chân tình/ Tìm xưa quấn quanh / Ai mang bụi đỏ / Dáng ai nho nhỏ / Trong cõi xa vời/ Tình ơi?... Tình ơi?...
                                                                                                                     (Ngày xưa Hoàng Thị – thơ Phạm Thiên Thư – Phạm Duy phổ nhạc) [56]
 Có lẽ tình yêu ở Trịnh Công Sơn và Phạm Thiên Thư thời ấy là một thứ tình yêu hương hoa, lãng đãng, xa cách. Hằng ngày các chàng trai chỉ có thể dõi mắt ngóng em đi học về dưới hàng mưa, hay dạn dĩ hơn lặng lẽ đi sau em để ngắm nhìn là lòng đã thấy hạnh phúc. Trịnh Công Sơn trả lời phỏng vấn: “Ngày xưa, dường như cả thế hệ tôi là như vậy, yêu một mái tóc, một dáng hình, mỗi ngày chỉ cần nhìn thấy mặt nhau, thấy em qua khung cửa sổ là cả ngày thấy vui”.(7)
Nói như Bửu Ý: “Tình yêu thời ấy, chỉ rộn ràng bề mặt, như viên đá trong cốc, như hòn đá ném xuống ao. Lanh canh một lát, gợn sóng một hồi, rồi đâu lại vào đó, lấy lặng lẽ làm vốn liếng, uống tình lắng xuống, trả em vào đời và “tôi thu bóng tôi”. Loại tình yêu này không còn tồn tại, chỉ còn lẩn lút trên những trang giấy đã ngả vàng. Ngày nay tình yêu đã thay đổi chủ trương rồi thì phải: chớp nhoáng, trao đổi, chiếm đoạt…, cho nên tình yêu theo lối Trịnh Công Sơn đem lại một hương vị xa xôi làm mềm cả trái tim sắt đá nhất, và ai nấy ngưỡng vọng như một bái vật đặt trên đài cao để cho tưởng tượng vươn tới”. [7; 66]
Thời đại ngày nay, những cuộc tình đầy nhục cảm, thoáng qua có lẽ đang “lên ngôi”, vì vậy tình yêu trong sáng, chung thủy, nghĩa vợ chồng trở nên quý hiếm. Trong văn chương xưa đã hiếm, nay càng hiếm hơn. Làm sao tìm được những vần thơ như:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Bài thơ Vua Tự Đức khóc nàng Bằng Phi(8).
Thế nhưng, trong muôn vàn tình yêu lãng đãng, khói sương của Trịnh Công Sơn, thật thú vị khi chúng ta bất ngờ bắt gặp một tình yêu thiêng liêng ở Hạ trắng:
Đời xin có nhau
Dài cho mãi sau
Nắng không gọi sầu
Áo xưa dù nhàu
Cũng xin bạc đầu
Gọi mãi tên nhau
Tự Đức muốn đập cổ kính ra tìm lấy bóng nàng Bằng Phi, xếp manh áo cũ để lưu giữ chút hương thừa của người vợ xưa, còn Trịnh Công Sơn lại mong ước có một tình yêu bền lâu cho đến bạc đầu, để ca ngợi nghĩa vợ chồng keo sơn, gắn bó.(9)tuw
 
 
Người nữ trong ca từ TrỊnh Công Sơn
 
Đối tượng chính trong tình yêu - người nữ, xuất hiện khá nhiều trong ca từ Trịnh Công Sơn. Em thường là những thiếu nữ buồn, yếu ớt, xanh xao, có vóc dáng mảnh mai, mong manh, vai gầy guộc, tóc xõa bay ngang trời… mờ mờ, ảo ảo như một bức tranh phi thực (irréel).

1 nhận xét: