Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Món nợ” với Trạng Quỳnh

NỮ SĨ ĐOÀN THỊ ĐIỂM
“Món nợ” với Trạng Quỳnh

Trong giai thoại văn chương Việt Nam, Trạng Quỳnh nổi tiếng là người thông minh, hay chữ, sâu sắc, thâm thúy nhưng tính tinh nghịch đáo để. Tuy nhiên Trạng Quỳnh vẫn phải chịu thua một người, đó là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, con của quan bảng Đoàn, thầy dạy Quỳnh. Cô Điểm không phải là tay vừa. Có dịp cô lại tìm cách trêu chọc Quỳnh, tuy trong bụng rất thương.

Một buổi chiều nọ, thầy sai Quỳnh đi có việc, tối về muộn phải gọi cổng. Chó trong nhà ngỡ người lạ, xộc ra cắn. Quỳnh vội tót lên cây cậy ở góc vườn. Điểm cầm đèn ra soi, trách Quỳnh về muộn, rồi bảo phải đối được một câu mới mở cổng cho vào. Câu đối rằng:

Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, dái đỏ hồng hồng
Khó đối ở chỗ hồng là quả hồng, màu hồng, mà hồng lại cùng với họ cậy
Quỳnh không đối được, ngồi chịu trận trên cây cho đến nửa đêm, Điểm mới nhốt chó mở cổng cho vào.
Một hôm, biết Quỳnh đi phố Mía (Sơn Tây) về, Điểm lại ra câu đối trêu chọc:
Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường
Lại là một câu khó, Quỳnh loay hoay mướt cả mồ hôi mà không đáp được. Trong câu có các chữ mía, mật, kẹo, đường là bốn âm khác nhau nhưng lại có có chung đặc điểm.
Một ngày tiết trời giáp Nguyên Đán, mưa rả rích. Lúc ấy, cô Điểm ngồi trong nhà gói nem. Trông thấy Quỳnh đội mưa đi mua rượu về, bèn bảo nếu muốn nhắm nem thì ngồi xuống gói với cô. Quỳnh trả lời:
- Chả thích nem, chỉ thích giò!

Điểm cười bảo hễ đối được một câu thì cho ăn giò! Nói rồi Điểm đọc:

Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, giò (lần) đến hàng nem, chả muốn ăn.
Câu đối tai ác quá ! Quỳnh lại một phen ngồi cắn răng im lặng, sau cùng đành chịu thua.

Sau những lần đối đáp như vậy, trong lòng Quỳnh đã phục tài Điểm nhưng vẫn không ưa cái tính chơi chữ sâu cay của cô gái..

Một hôm lúc Điểm sắp đi chợ, Quỳnh gói mấy đồng tiền vào một tờ giấy rồi gíúi vào tay Điểm. Điểm giở ra thấy trong giấy có viết hai chữ “cà cuống” thì hiểu ngay rằng Quỳnh có ý xỏ mình. Đến chợ mua bán xong, Điểm đem về một rổ toàn cuống cà. Quỳnh bắt đền, Điểm điềm nhiêm nói:
-Tại anh không dặn mồm mà trao giấy. Tôi nhìn chữ, mua cuống cà là đúng còn bắt đền nỗi gì ?
(Chữ nho xem từ phải sang trái nên cà cuống đọc thành cuống cà)
Quỳnh cãi không được, đành cười trừ.
Bị thua liên tiếp mấy phen, Quỳnh đâm liều. Một tối, Quỳnh lợi dụng cơ hội thuận lợi đột nhập vào phòng Điểm và leo lên giường nằm trước. Lúc quay vào, vì trời tối om om nên Điểm không thấy và quờ tay trúng phải …của Quỳnh. Điểm thắp sáng đèn lên và đọc một câu đối rồi dọa rằng nếu đối không được sẽ mách thầy về tội sàm sỡ. Điểm đọc:
Trướng nội vô phong phàm tự lập
(Trong màn không có gió mà tự nhiên buồm dựng nên)

May cho Quỳnh lần ấy xuất khẩu ngay tức khắc:

Hưng trung bất vũ thủy trường lưu
(Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy)

Câu đối khá chỉnh, nhờ vậy mà Điểm thôi không mách chuyện với quan Bảng.
Nhưng Quỳnh vẫn không chừa. Chiều hôm sau, lúc Điểm đang tắm, Quỳnh đứng ngoài cứ nằng nặc đòi vào xem. Điểm nói nếu đối được câu này thì cho vào:
Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch tiếng Hán nghĩa là da trắng)
Quỳnh lại đứng chết trân không đối được.
Càng về sau, giữa Quỳnh và gia đình họ Đoàn như có hố ngăn cách. Ông Bảng và cả cô Điểm cũng không muốn chọn Quỳnh làm rể vì Quỳnh không thích tiến thân bằng công danh sự nghiệp. Đã thế tính tình Quỳnh lại ương bướng, không chịu ràng buộc trong lễ giáo phong kiến.
Một ngày đầu Xuân trong lúc cùng đi hái lộc, Điểm hái một cành xương rồng trao cho Quỳnh và đọc:

Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long.

Quỳnh nghe và giận vì cho rằng Điểm thẳng thừng ví mình như loài xương rồng gai góc mọc ở bờ, ở bụi chẳng khác nào kẻ hư thân mất nết, cứng đầu cứng cổ. Cho dù có đem cây ấy trồng vào nhà quan cũng không thể bén rễ, bén gốc.
Càng nghĩ càng bực, thế là Quỳnh đối thẳng tuột:
Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử!
Đôi câu đối chọi nhau chan chát. Hai người đối mặt nhau đều cùng cảm thấy cạn cả chữ lẫn tình.
(Theo Giai thoại về Trạng Quỳnh


Dùi đục chấm mắm cáy!

Trong cuốn “Thành ngữ tiếng Việt” (NXB KHXH, H.1978), Nguyễn Lực và Lương Văn Đang đã thu thập cả hai dạng thành ngữ này và giải thích cùng một nghĩa là “không phù hợp, thô bạo, thiếu tế nhị” (tr.57)
Trong thực tế giao tiếp hằng ngày, người ta thường nói “dùi đục chấm mắm cáy ” hơn là “bầu dục chấm mắm cáy”. Tuy vậy “bầu dục chấm mắm cáy” lại là dạng ban đầu, dạng khởi thủy; còn “dùi đục chấm mắm cáy” chỉ là biến thể do đọc chệch “bầu dục” ra “dùi đục” mà thành.
Nghĩa của thành ngữ “bầu dục chấm mắm cáy” hình thành trên cơ sở của sự chênh lệch hay tính không tương hợp giữa thức ăn và gia vị. Bầu dục là món ăn ngon và hiếm. Chẳng thế mà trong kho thành ngữ, tục ngữ của Việt Nam còn có câu:
Sáng ngày bầu dục chấm chanh
Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chày
Vậy mà cái món ngon và hiếm ấy lại đem chấm với mắm cáy, một thứ mắm xoàng nhất, có thể nói là mạt hạng trong các loại mắm ở vùng biển. Bầu dục nếu ăn đúng cách phải chấm với chanh hay nước nước gừng. Còn mắm cáy chỉ dùng để ăn với rau muống, dua, cà...
Trong “Phú Việt Nam” có bài “Đàm tục phú” -một bài phú khuyết danh từ thế kỷ trước-khi phê phán những kẻ văn dốt, võ nhát nhưng lại ham muốn học đòi những người có khả năng kinh bang tế thế, cũng liên hệ đến sự chủng chẳng, không phù hợp giữa bầu dục và mắm cáy:
Chủng chẳng như bầu dục mắm cáy, muốn bậc kinh luân
Chình chịch như khối đất nắm ao bèo, toan bề thao lược
Có thể là do những nét tương tự về ngữ âm giữa bầu dục và dùi đục mà xuất hiện biến thể “dùi đục chấm mắm cáy”. Vả lại, biến thể này cũng cho phép có một cách giải thích khách của nó mà xem chừng cách giải thích ấy cũng có thể chấp nhận được
(Theo Kể chuyện thành ngữ tục ngữ

Bắt cá hai tay

Hễ một người nào đó vì lòng tham muốn có được nhiều thứ trong cùng một lúc, hoặc để ăn chắc, không được thứ này thì được thứ khác, hoặc vừa làm điều này ở đây rồi lại làm điều đó ở nơi khác nữa (theo lẽ thường anh ta chỉ được làm ở một nơi), thì sẽ bị mọi người gọi một cách mỉa mai là kẻ “bắt cá hai tay”.

“Bắt cá hai tay” được hiểu ở đây với nghĩa đen là mỗi tay bắt một con cá và kết quả là tuột mất, chẳng bắt được con nào (vì mỗi tay bắt một thì không chắc chắn). Chẳng thế mà ca dao Việt Nam đã từng khuyên nhủ mọi người:
“Xin đừng bắt cá hai tay
Cá lội dưới nước, chim bay lên trời”

Từ nghĩa đen cụ thể đó, nhân dân ta đã dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng “nước đôi”, hoặc tham lam, ôn đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này thì được việc khác, kết quả hoặc là không được gì, “xôi hỏng bỏng không” hoặc được chắc một thứ nhưng thường bị chê trách là tham lam, khôn ranh

(Theo “Kể chuyện thành ngữ tục ngữ”)

1 nhận xét: