Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


CHUYỆN CÁI CHỢ

"Trai thương vợ, đang đông buổi chợ

Gái thương chồng, nắng quái chiều hôm".


Chợ là nơi ồn ào náo nhiệt nhưng tình nghĩa vợ chồng lại đằm thắm mặn mà và kín đáo. Có một thời, người ta chỉ trích một lối sống thiếu sự đối xử tốt với nhau, đã đưa ra câu: “Tình nghĩa anh em, cũng chợ giời"! Chợ giời là cái chợ trời ơi đất hỡi, có đủ những mánh khoé, lừa lọc điển hình hơn ở những chợ truyền thống.

Chợ âm phủ hoặc chợ giời ngày xưa là ở trong hoang tưởng. Thi sĩ Tản Đà ngày xưa có ý định mang văn của mình lên bán ở chợ giời. Ở ta cũng có một vài nơi heo hút mua bán lúc trời nhá nhem tối như giữa người với ma quỷ. Người ta gọi những nơi này là chợ âm phủ.

Á Nam Trần Tuấn Khải đã tả cái chợ làng những năm 1930 - 1931 như sau:

Lâu vắng, như quên cảnh chợ nhà

Nay về, có dịp lại thăm qua

Nói năng trắng trợn, tay buôn thịt

Chào gọi xôn xao, bọn bán quà…

Hống hách thầy cai, lên mặt dữ

Tung tăng lũ bợm, kiếm ăn già

Tự do ngôn luận, không ngăn cấm

Chửi bới huyên thuyên lũ cắp gà…


Ở đâu có sự trao đổi, có một số người bán, một số người mua là thành chợ. Nói đến chợ la nói đến sự phức tạp nhân sinh. Có chợ thôn, chợ làng (chợ làng tôi có những cô gái, một ngày hai bữa cơm đèn), chợ huyện (chợ huyện một tháng sáu phiên, gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần), chợ quán, chợ chùa, chợ đình, chợ cầu, chợ vùng cao, chợ bên sông (quanh năm buôn bán ở mom sông)… Nhưng đặc biệt và gần với mọi người hơn cả là cái chợ làng. Đợi mẹ đi chợ về là một cái đợi chờ đặc biệt, hạnh phúc, ngộ nghĩnh vì cậu bé hoặc cô bé sẽ được đón mẹ, được nhận từ bàn tay thân yêu, chai sạn, giá buốt mà nồng ấm của người mẹ những cái bánh đa, gói kẹo, đẵn mía, cái bút v.v… Đó là những món quà tuyệt vời nhất, ngon lành nhất, không gì sánh nổi.

Vào những dịp Tết lại còn tưng bừng hơn nữa. Chợ là nơi giao tiếp, nhộn nhịp. Thông qua chợ, người ta có thể biết được nhiều thông tin không chỉ về buôn bán, làm ăn mà còn về mọi mặt trong đời sống hàng ngày:

"Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo

Em còn trẻ lắm, nhất làng trong

Mấy năm cô ấy làm du kích

Không hiểu vì sao, chẳng lấy chồng…".


(Núi Đôi Vũ Cao)

Chợ quê thường nổi bật lên hình ảnh những cô hàng xén với những đôi mắt nhìn bâng khuâng. Họ là những bông hoa của chợ nhà thơ Hoàng Cầm đã viết về họ rất hay:

"Những cô hàng xén răng đen

Cái như mùa thu toả nắng…"


Người ta đi chợ để mua bán những thứ cần thiết. Nhưng cũng có những người đi chợ chơi, dạo chợ và coi đó là một thú vui. Cũng có những người đi chợ để tìm hiểu nhau, manh mối một tình yêu nào đó. Chợ xưa, ngoài các dãy hàng thịt, hàng quà, tạp hoá, quán rượu, trầu cau, có các lều gà, vịt, chó, cá, cua, tôm v.v…, còn có lò nhuộm, có cái chảo lớn đun nước màu nhuộm áo, yếm, cạp váy. Góc nọ, góc kia còn có các ông thầy bói, thầy tướng số và có phiên lại có vài ba người hát xẩm.

Qua thăm một cái chợ, người ta có thể biết sơ qua về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương nào đó. Vì tất cả mọi mặt đời thường đều phơi bày ra ở chợ. Chợ cũng là một bản nhạc giao hưởng khổng lồ đủ các loại hình âm thanh. Có những cái chợ thật độc đáo như ở biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, ngoài việc mua bán ra, nam nữ thanh niên còn tìm hiểu nhau rồi hát sli lượn với nhau. Khi gặp được người vừa ý, họ liền đưa nhau ra khỏi chợ.

Ở Hà Giang (Mèo Vạc) và Lào Cai (Sa Pa) còn có chợ tình. Ở đây, trai gái yêu nhau, âu yếm nhau ngay tại chợ đã đành, những người có vợ có chồng rồi vẫn có thể đến đây để gặp người tình cũ của mình một cách tự do mà không chịu sự ràng buộc cấm đoán của chồng (hoặc vợ)…

Những năm gần đây, ở Giảng Võ, Kim Liên, Ngã Tư Sở của Hà Nội có những nhóm người tụ họp nhau lại hình thành chợ lao động. Thành phần của chợ lao động này gồm các thanh niên không có việc làm, những người nông dân trong những ngày nông nhàn kéo nhau ra Hà Nội kiếm việc làm.

Chợ xuân của ta cũng thật đặc biệt. Một vài ngày sau Tết Nguyên đán, khi không khí Tết vẫn còn tràn ngập khắp nơi, người ta họp chợ lấy may ngày đầu năm. Chợ rất đa dạng và phong phú, có đủ các tên gọi khác nhau. Chợ giời là cái chợ Trời ơi đất hỡi, nơi diễn ra sự mua bán đủ các loại mặt hàng từ đơn giản nhất đến máy móc tinh vi. Chợ âm phủ là nơi diễn ra sự mua bán về đêm, không nhìn rõ mặt người… Ngoài ra còn có chợ cóc, chợ đuổi, chợ tạm, chợ bến, chợ cầu, chợ chiều…Tan tác như cảnh chợ chiều, đó là cái cảnh rút lui sào sạc đến mức chẳng còn ai. Ai cũng muốn về cho sớm. Ca dao xưa còn nhắc đến: “Bà già đi chợ Cầu Đông”. Đó là cái chợ ở phố Hàng Đường ngày xưa, nơi Tú Uyên mua được bức tranh nàng Giáng Kiều. Chợ bán đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ cám" Bức tranh bán ở chợ Cầu Đông còn đáng giá hơn nhiều lần. Nó trở thành một câu chuyện dân gian người đời còn nhắc đến.

Người ta nói "Cứ như là vỡ chợ" là ví cảnh quá ồn ào. Đòn "hội chợ" là có nhiều người tham gia vào cuộc đánh rồi lại bỏ đi đến nỗi người bị đánh không còn rõ là những ai đã đánh mình. Lại còn có một câu chuyện cảm động. Một cô gái gánh hàng đi chợ, bị chàng trai giữ lại để tỏ tình. Cô gái cần phải tranh thủ tới chợ cho sớm, đã trả lời rất thật tình mà tha thiết:

"Chàng trai bỏ áo em ra

Để em đi chợ, kẻo mà chợ trưa

Chợ trưa hàng bán hết đi

Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em!"


Khi nói: "Cơm hàng, cháo chợ, vợ nhặt, con thêm" là những từ dùng để chỉ những gì tạm bợ, qua quít không được nghiêm chỉnh.

Chợ ngày xưa còn có một nhân vật đặc biệt. Đó là anh mõ chợ, là người thông báo, đi rao mọi tin tức về việc buôn bán trong chợ. Anh ta còn làm đủ mọi việc như giúp mọi người ổn định chỗ ngồi, sửa lều lán, thu lệ phí v.v… Nhưng anh ta, chỗ nào cũng có mặt và làm cho mọi người vừa lòng… Anh ta luôn chân luôn tay, nói nhiều, ăn mặc xộc xệch, chít cái khăn tai chó.

Chợ là cuộc đời trần tục. Có đủ các mùi vị và hình ảnh sinh động của cuộc sống. Người ta viết quá nhiều về cái chợ. Chuyện về cái chợ không bao giờ hết. Có điều những cái chợ xưa chỉ còn giữ lại một chút thơm thảo và da diết trong ký ức của con người ngày nay.



CHUYỆN CÁI CỔNG LÀNG


Người đi xa, nhìn thấy cây đa, bến nước, cây gạo, nóc đình và cổng làng là biết đã về đến quê.

Làng nào cũng có một cái cổng làng. Có làng lại có một cổng chính, một cổng phụ. Cái cổng làng chiếm một địa vị quan trọng, thiêng liêng, thường trực trọng lòng tất cả mọi người trong làng. Phải đi qua cổng làng rồi mới về đến nhà.

Cái cổng làng chứng kiến sự đến và sự đi của mọi người. Đám cưới tưng bừng đi vào làng với những mâm cau, trầu, lễ vật phủ tấm vải đỏ rồi những đám ma nổi kèn trống tiễn người quá cố qua cổng làng. Khi đi qua cổng làng, người chết phải được khiêng tay, hạ thấp xuống để chào vĩnh biệt cái cổng làng thiêng liêng mà thân thiết.

Mỗi làng xây cổng theo kiểu dáng và phong cách của mình. Nhưng đều có điểm giống nhau là làm sao cho cái cổng làng phải nghiêm trang, hoành tráng, khoẻ mà đẹp. Có nhiều làng xây dựng cổng làng giản đơn mà ưa nhìn. Có những làng xây dựng cầu kỳ hơn. Cổng làng Đông là một cổng tò vò cao 4 mét. Phía trên là hai mái ngói nằm trên khung, vì kèo bằng gỗ tứ thiết. Phía bên ngoài mái được xây lên một bức tường gạch dầy. Trên mái cong có đắp những mảng trang trí núi, mây. Bên dưới có đề tên làng. Bức tường gạch vồ nối liền hai bên cổng tò vò với hai cột trụ cao vút Trên đỉnh cột trụ có hình một quả đào tượng trưng cho sự trường thọ. Mái nhà sát cổng che cho một khoảng đất chừng 10 mét vuông để cho mọi người tạm thời tránh mưa nắng. Thân cột là câu đối với những chữ rồng bay phượng múa:

"Cao quý phong thanh thiên vạn cổ

Nam thanh nữ tú nhất hương chung"

Làng Đông còn một cổng thứ hai nữa với đôi câu:

"Khởi tâm tiền nhân lập

Tích đức hậu thế truyện”.

Trên tường cổng làng có trang trí những nhành lá vạn niên cách điệu thành những đường gấp khúc duyên dáng la đà, móc vào nhau. Đi vào cổng làng phải qua ba bậc lát đá. Cổng làng Hồ có đôi câu đối:

"Mỹ tục thuần phong cảnh chiếu Tây Hồ minh kính.

Thiện ngôn, hảo sự trưởng lưu mạt lợi danh hung" (Mạt lợi là hoa nhài)

Cổng làng Thọ gây ấn tượng bằng hai cột trụ xây cao. Có ba bậc đi lên lát đá xanh. Trước đây có một cây si cao, sum sê, xanh lá, phủ lên một bên cột. Người ta có câu vè:

"Chùa Thiên Niên có cây lá cọ

Bên làng Thọ có cái cổng xanh

Chùa Bà Đanh vắng tanh vắng ngắt”.

Cổng làng cả cũng là một nóc nhà hai mái. Một mái ra ngoài, một mái vào trong. Tất cả được 4 chiếc cột gỗ lim lớn đội lên. Dưới chân cột có chôn hai con sấu đá Có người gọi là con nghê đá. Vào làng phải qua năm bậc xây gạch. Hai bệ cột trụ cổng làng vút lên thanh thoát như múa với trời xanh. Cổng làng Sơn Đồng (Hoài Đức), cổng làng Yên Sơn (Quốc Oai)… được rất nhiều du khách nước ngoài tìm đến, nghiên cứu, chụp ảnh sao chép. Họ trầm trồ khen ngợi hết lời những cái cổng làng này. Mặc dù, chúng ta còn rất nhiều những cái cổng làng khác đẹp hơn nhiều. Có những cổng làng được xây dựng thật hoành tráng với ba cổng tò vò liền nhau. Hai cổng hai bên nhỏ hơn cổng giữa như kiểu toà tam quan ở đình.

Ở những làng có nhiều người làm quan to, thậm chí có cả những tướng quân hiển hách, bên cạnh cổng làng được dựng một bia “hạ mã". Ai đi ngựa tới đây phải xuống ngựa. Ở hai cánh cửa có một hổ phù. Làng nào có nhiều người đỗ đạt, nhiều quan văn thì cổng làng có nhiều câu đối hay, những bức hoành để ngợi ca và khuyến học. Có những cổng làng đắp quả bầu trên nóc. Quả bầu này là quả bầu chứa đựng tinh hoa của cả vũ trụ. Có hình hai con cá hoá long chầu hai bên quả bầu. Bức hoành thường đề chữ Tiểu vi đại (cái nhỏ là cái lớn) hoặc hàng chữ Trực đạo vi hành (đi đường thẳng).

Có cổng lại có cả điếm canh nhô lên cao. Đó là nơi để các tuần phu đứng lên cao mà quan sát xung quanh. Đêm đông họ đốt lửa trên chòi. Trước kia xây cổng làng phải có thầy địa lý xem phong thổ, xem địa thế. Cổng làng phải dựa vào thế đất có long quỳ hổ phục hoặc bụng con cá mới mong có được uy vũ và sự sinh sôi. Nếu dựa đúng vào thế bị gậy thì không hay. Riêng về mặt kiến trúc và trang trí những mây, nước, hoa, lá, màu sắc, đường nét…

Những cái cổng làng xưa còn giữ lại cả một kho báu vô giá. Chúng được xây dựng bằng những bàn tay thần tình của các bậc cha ông chúng ta. Những đường nét, hoa văn mang lại cho chúng ta nhiều tín hiệu từ xa xưa cũng như những mật mã về cái đẹp và tư duy truyền thống, đòi hỏi người đời sau giải mã. Ngắm cổng làng, có lúc ta thấy nó dịu dàng như tình mẹ, lúc đỏ rực lên như ráng chiều, lúc đăm chiêu dằn vặt. Có lúc nó lại mơ màng sương khói. Cổng làng quan sát những điều thánh thiện và những điều ma quỷ trong cộng đồng. Nó là sự đón nhận.

Cổng làng giữ lại những kỷ niệm của những phút giây lịch sử. Cổng luôn im lặng, giữ trong mình những điều bí mật của ngàn đời. Cổng làng rung động khôn xiết cùng với bức tường cũ rêu phong và với những chứng tích nhiều năm tháng đã qua. Cổng làng không chỉ nhìn và thấy, nó còn suy tư. Cánh cửa cổng làng mở là thuộc về dương, đóng là thuộc về âm. Chúng ta không quên cái cổng làng Vũ Đại gắn bó với những nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Bá Kiến… của Nam Cao.

Cũng không quên cái cổng làng trong tiểu thuyết Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Chỉ vì mấy suất sưu chưa đóng đủ mà tuần phu nhất định không mở cổng làng cho mọi người ra đồng làm việc hoặc đi lại khiến nhân dân bất bình đấu tranh.

Quê hương là đêm trăng tỏ.

Quê hương là chùm khế ngọt v.v…


Nhưng quê hương cũng còn là cái cổng làng những người con khi xa quê hương đều cúi đầu chào trước cổng làng, hẹn ngày trở lại. Ngày xưa, quan Trạng về làng cũng phải vái chào cái cổng làng rồi mới đi qua. Tất cả mọi hoạt động trong làng đều được đưa đến cái cổng làng. Những tin tức được niêm yết lên và được mọi người kháo nhau, bàn bạc, truyền bá thành những câu chuyện không bao giờ hết. Ngay sau cái cổng làng thường mọc lên một vài quán hàng. Một số gia đình quây quần tụ tập lại với nhau hình thành một xóm gọi là xóm cổng. Xóm cổng này thường là xóm đông vui nhất làng. Người ta đến đây để nghỉ ngơi, vui chơi thư giãn với bát nước trà, điếu thuốc lào và tán chuyện gẫu với nhau. Cạnh cái cổng làng cũng là nơi trai gái hẹn hò. Họ nhìn lên cổng làng mà thề thốt yêu nhau "đến đầu bạc răng long”. Có khi lại có đám hát xẩm đến hát làm náo nức đám đông với những điệu hát buồn dân dã. Tiếng đàn bầu hoà theo tiếng nhị làm bâng khuâng cả lối xóm. Trong những ngày hội hè, lễ tết, xóm cổng thường là xóm đông vui hơn cả.

Cổng làng thân thiết và gần gũi với mỗi người trong chúng ta. Không thể nào quên được hình ảnh cái cổng làng rêu phong, sương khói trầm mặc mà kiêu hùng.



NHỮNG PHO TƯỢNG QUÝ HIẾM

TƯỢNG BÀ TRƯƠNG THỊ NGỌC CHÚC VÀ CÔNG CHÚA LÊ THỊ NGỌC DUYÊN Ở CHÙA BÚT THÁP.

Chùa Bút Tháp có nhiều tượng, nhưng khách tham quan thường chú ý đến hai pho tượng, đó là tượng bà Trương và Công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ở tư thế ngồi thiền, được đặt trong khám thờ sơn son thếp vàng rực rỡ. Bà Hoàng đội vương miện có chỏm cao. Nhưng bà lại khoác áo kiểu tu hành. Còn Công chúa mặc xiêm y của vương triều. Đó là hai khuôn mặt rạng rỡ, hoa phấn phiêu bồng. Những đôi mắt nghiêm nghị, đoan trang, nhìn thẳng. Môi hơi mỉm cười đôn hậu. Những nếp áo xô lên nhau như những đợt sóng luân hồi, sóng nhân tình gió bụi.

Bà Hoàng mặc áo vàng nhiều hoa văn, cổ xẻ thật sâu, lộ rõ cánh yếm màu phớt hồng trần thế. Đôi mắt sắc, lông mày sương khói mà người Trung Quốc gọi là "yên mi". Theo bút tích còn lại, lúc còn sống, bà Hoàng và Công chúa đều góp cả tâm lực, tài lực cho việc xây dựng chùa và giúp đỡ người nghèo. Nên khi họ về với Phật, các nghệ nhân tài hoa đã tạc tượng họ với tất cả tấm lòng.



TƯỢNG BÀ CHÚA TẠI CHÙA MÍA

Bà Ngô Thị Ngọc Duyên vốn là một thôn nữ. Bà được chúa Trịnh Tráng mời vào phủ chúa. Bà chỉ ơ phủ chúa một thời gian rồi về sống với dân thôn. Bà dùng tiền nhà chúa cho để khai khẩn bãi sông và tạo dựng chùa Mía. Bà choàng bên ngoài một khăn choàng màu sữa "vũ trụ" lên khắp phần trên và nửa đầu. Tóc buông thả, có đường ngôi giữa. Khuôn mặt trái xoan, cặp mày thanh tú, như mây cong. Mắt nhìn xa xôi, cương nghị. Môi quả tim. Phần nào có nét của nữ thần Funông.



TƯỢNG BÀ CHÚA ĐẦM MAI ĐỘNG

Bà có khuôn mặt đầy đặn, nhân hậu. Tóc chải ngược, kết trên đỉnh. Có giải lục trang trí, chảy ra sau lưng. Tượng mặc áo choàng, Cổ kiêu ba ngấn. Cánh tay nhẹ nhàng để lửng thư không.



PHO TƯỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH

Thánh Mẫu là một trong "Tứ bất tử" của Việt nam Tượng cao 2,5 mét, phủ sơn son thếp vàng. Dáng uy nghi, đường bệ, cao sang, quyền quý, thánh thiện mà rất "đời”. Thánh Mẫu vừa là người nhà trời, vừa là người trần thế. Người đã từng là vợ, là mẹ. Người bênh vực kẻ yếu. Tượng có đôi mắt hạnh nhân. Khuôn trăng, mày liễu, Cổ kiêu. Hai bàn tay đặt nhẹ lên nhau, từ bi, thư thái, thương đời. Áo trong của người có những đường gạch ánh sáng. Áo ngoài có hình hài mây khói. Đó là hương trầm, là sự hy sinh, là cầu nối giữa trời và đất.



TƯỢNG CHIÊU NGHI PHẠM THỊ NGỌC XUYẾN

Tượng toạ lạc tại xã Xuân Tảo (Từ Liêm). Bà mồ côi từ nhỏ phải đi làm con nuôi một gia đình nọ. Nhưng vì bà thông minh và có nhan sắc chim sa cá lặn nên được chúa Trịnh Tạc lấy làm vợ, phong cho bà là Chiêu Nghi, rồi đệ nhất cung Tần. Bà thường về thăm quê, bỏ tiền ra mua ruộng tặng làng và dựng chùa. Tượng Chiêu Nghi là một bức tượng rất đẹp, tập trung được hầu như tất cả các nét đẹp chuẩn mực truyền thống của cái đẹp Việt nam nói riêng và của phương Đông nói chung. Đôi mắt tượng xa khơi, tinh anh, trí tuệ. Mắt to mà sáng, cổ cao, lông mày dáng "tân nguyệt" (trăng non). Đó là cái vẻ đẹp thiên thần theo quan niệm á Đông. Tóc buông dài. Đầu đội mũ miện. Dáng ngồi ung dung, tự tại, đầy niềm tin. Mặt hoa da phấn.



TƯỢNG HOÀNG HẬU DƯƠNG VÂN NGA Ở ĐỀN VUA LÊ

Tượng được nhiều bạn nước ngoài đánh giá rất cao: “Một trong những pho tượng đẹp của Đông Nam á” Tượng có vẻ mặt kiêu sa, duyên dáng, đằm thắm, mềm mại, ngọt ngào. Bụng thon, ngực nở, tay chân tuyệt mỹ, dịu hiền, ấm áp, đôn hậu, bao dung, cằm cân nảy mực. Xiêm y của người chỉ cần sửa đổi lại một chút cho “hiện đại” là đủ sức làm nghiêng ngửa giới thời trang trong và ngoài nước…



TƯỢNG PHẬT Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH

Khuôn mặt Phật không có chút xao động, trầm mặc, sâu lắng trang nghiêm. Mắt hơi khép mũi thẳng. Miệng tươi, đậm đà, Phảng phất nét "cứu độ”. Nếp áo phía lưng của người chạy chéo từ vai trái xuống, lượn cong lên rồi cuộn lại như áng mây ở Phía cạnh bên phải… Một số khách du lịch nước ngoài rất thích thú và say mê, thành khẩn trước những Pho tượng thờ ở nước ta. Đó là những Pho tượng các bà chúa, Phật, Thánh Mẫu, Công chúa, giai nhân… ở các đình chùa, miếu ở Hà Nội và các vùng lân cận. Họ là những nhà du lịch chú ý đến văn hoá và nghệ thuật. Các bạn Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan nhận xét: "Những ngôi sao như Lưu Hiểu Khánh, Củng Lợi, Lưu Tuyết Hoa, Trương Mạn Ngọc… chỉ có được chút ít vẻ đẹp nơi các pho tượng thờ ở Việt nam".

Để hiểu biết chân dung các vị nữ thần, vương hậu, Công chúa, các vị nữ anh hùng… được tôn thờ ở Việt nam, chúng ta mới chỉ được đọc qua trên sách báo, xem vài vở kịch, nghe chút nhạc, xem múa mà tưởng tượng ra. Nhưng cái vẻ đẹp tổng thể, đích thực, phong phú lộng lẫy của những khuôn mặt phi phàm đó lại được định hình ở mặt điêu khắc tạc tượng. Qua nghê thuật này, chúng ta mới có thể thấy những khuynh hướng cơ bản về ý tưởng lý tưởng hoá và tinh thần hoá vẻ đẹp tâm hồn và cơ thể của nhân vật…

Một số nhà nghiên cứu về thời trang và về nghệ thuật trang điểm nước ngoài đã sang thăm Việt nam. Họ không muốn nói rằng họ làm những công việc này. Nhưng họ bỏ ra nhiều thì giờ đi nghiên cứu các tượng Thờ của Việt nam. Phải chăng những pho tượng ở các đình, chùa, đền, miếu Việt nam đang lên ngôi? Chúng ta không thể thờ ơ lại càng không thể thiếu hiểu biết về những pho tượng quý hiếm mà cha ông đã để lại cho chúng ta.



CÂY GẠO

Cùng với đình, chùa, cây đa…, cây gạo cũng là một hình ảnh quen thuộc và gần gũi của làng quê Việt nam. Cây gạo có thể được trồng ở những mảnh đất trống, vắng, xa một chút với đình, chùa, miếu, ở bãi tha ma, ở đầu chợ, ở cuối làng như câu: "Đầu đa, gạo cuối chuối sau, cau trước”…

Người theo Phật giáo thích cây đa. Người theo Đạo giáo thích cây gạo. Mọi người cũng nói: “Thần cây đa, ma cây gạo“. Cây đa sum sê, xanh tươi, kín lá, rễ buông xuống rất thơ mộng. Người ta có thể tạm trú mưa, nắng dưới gốc đa. Còn cây gạo thì cao lêu nghêu, khẳng khiu, ít lá. Bên gốc cây đa hoặc cây gạo thường có một bàn thờ nhỏ. Có cả bát hương để thờ phật hoặc thờ ma.

Cách đây mấy năm, tại cây gạo ở góc Văn Miếu lúc nào cũng có khói hương nghi ngút. Cây gạo, phương Tây gọi tà Kapokier, Trung Quốc gọi là mộc miên, nó tượng trưng cho cuộc đời, cho sự ngay thẳng. Nó đón ánh mặt trời và mặt trăng. Nó đứng cao vút hẳn lên, chống lại với bão táp, gió mưa, chịu trận cho đồng loại. Nó đứng bình thản, chân thực, mà kiên cường. Nó như một anh lính gác, định hướng, chỉ cho mọi người dễ nhận ra làng xóm của mình từ rất xa. Nó tượng trưng cho sự trường thọ, giữ liên lạc giữa trời và đất. Nó là cây vũ trụ. Các loài bò sát bám vào gốc cây và rễ của nó. Nhiều loài chim đến với nó. Chim lớn ở những cành trên cao. Chim nhỏ ở những cành thấp hơn, chúng ríu rít, giọng cao, giọng trầm, chuyện trò với nhau, tưng bừng, nhộn nhịp, lại tranh cãi với nhau như họp chợ. Khung cảnh thật tưng bừng, náo nhiệt. Nhưng cây gạo chỉ là "câu lạc bộ", là nơi chúng ngừng nghỉ chốc lát trong những chuyến bay dài mà thôi. Chúng không bao giờ làm tổ trên cây gạo. Vì cây gạo thưa lá, chẳng có lá để nguỵ trang. Chúng rất dễ bị lộ. Tuy vậy, cây gạo hiếu khách, niềm nở. Lá cây gạo mềm dẻo luôn đón những làn gió qua lại. Cành thì nhiệt liệt đón chim từ mọi nơi đến. Gọi là chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong.

Cứ đến tháng 3, 4 hàng năm, cây gạo ra hoa, làm đỏ rực cả một khoảng trời. Người ta bảo là cây gạo thắp đèn toả sáng. Nếu mấy cây gạo ở gần nhau, cùng nở hoa thì gọi là các cây gạo thắp đuốc. Ánh sáng của hoa gạo sáng đỏ, rực rỡ. Nếu trong Truyện Kiều có câu: “Đầu tường, lửa lựu lập lòe đâm bông” thì hoa lựu thắp sáng một quãng vườn. Còn hoa gạo cao, nhiều cành và có nhiều hoa xòe ngửa lên trời.

Ở chùa Hương, đến mùa hoa gạo nở, màu đỏ hai bên núi chạy dọc theo suối Yến. Nhiều hàng cây gạo cứ xếp hàng bên nhau như những dãy đèn. Có những nơi, các cây gạo tập trung lại với nhau, đã tạo ra những "đám cháy” làm ta loá mắt. Du khách bảo hoa gạo thắp sáng chùa Hương. Có nhiều khi hoa gạo rơi cả xuống thuyền của du khách dạo chơi trên suối. Cây gạo làm đẹp cho mọi người và cái đẹp làm cho người ta trở nên thánh thiện hơn, yêu cuộc sống hơn. Cảnh tượng này gây ấn tượng rất mạnh mẽ đối với khách du lịch người nước ngoài. Hẹn trở lại chùa Hương một lần nữa và gọi hoa gạo là "hoa tình yêu".

Ở Tây Nguyên, cây gạo được gọi là cây Pơlang. Chúng làm đỏ rực cả những khu rừng, đồi, sân nhà Rông. Cây gạo ở đây là cây để buộc con trâu hiến sinh trong lễ đâm trâu. Do đó, cây gạo cũng được gọi là cây hiến sinh. Những cặp tình nhân không bao giờ đưa nhau ra gốc cây gạo mà tình tự. Đó là điều tối kị. Họ cho rằng như vậy sẽ gặp phải những sự không may mắn.

Cây gạo lạnh lẽo cô đơn, thường có mặt ở những nơi vắng vẻ, khuất nẻo. Những linh hồn phiêu bạt không có người thân cúng giỗ thường lẩn quất nơi cây gạo. Ngày rằm tháng bảy là ngày cúng cô hồn của thập loại chúng sinh thường được tổ chức gần nơi cây gạo. Người ta vứt tất cả những đồ còn thừa lại sau khi cúng lễ vào cây gạo và cũng có nghĩa là cúng cho các cô hồn vương vất quanh cây gạo. Đã có câu: "Ríu rít thì đến cây đa, nhạt tình thì đến tha ma cây gạo”? Vỏ cây gạo làm thuốc cho ra thai, thuốc chữa sa đì. Rễ cây gạo ăn rộng và sâu nên cây gạo rất vững chắc. Phần cắm sâu xuống đất có những nốt phồng lên gọi là củ làm thức ăn độ nhật cho người xưa khi thiếu lương thực.

Đến cuối tháng 4, 5, bông gạo bay tả tơi theo tất cả các chiều gió, giăng đầy không gian như là tuyết rơi gợi lên mái tóc bạc của các mẹ già. Người nghèo thường nhặt, gom lại để may áo bông chống rét. Người Tây Nguyên và người Thái lấy bông gạo làm đệm trải giường và làm phao cứu sinh. Đệm bông gáo của người Thái Mai Châu rất nổi tiếng. Loại đệm này có độ xốp lý tưởng. Nằm rất êm mà không bí như đệm mút, đệm ga bông từ cây bông rất chóng dẹt và hút ẩm, không bằng bông gạo. Nhất là những chiếc đệm đó lại có những đường thêu bay bổng mà thâm trầm. Chúng cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Gỗ cây gạo trắng, thớ mịn dùng để làm áo quan. Nhất vàng tâm, nhì gỗ gạo. Gỗ cây gạo còn dùng để khắc những bản đồ để in. Nhựa cây gạo phối hợp với một vài loại nhựa khác nữa, dùng làm nhựa để bẫy chim gáy, chim hoạ mi, chim ngói. Hoa gạo cánh to mà dày. Nó rơi xuống đất, rất chóng héo tàn.

Ở phương Tây, gần đây có một số hãng mỹ phẩm thử nghiệm và tìm tòi màu đỏ cho son môi. Màu đó là sự phối hợp giữa đỏ, vàng và trắng. Cuối cùng, họ kết luận: "Màu đỏ lý tưởng đó là màu của hoa gạo". Cindy Crawford dùng màu đỏ hoa gạo. Màu môi của Sharon Stone cộng với màu đỏ trên môi Madona thành màu đỏ hoa gạo.

Cây gạo sống hàng ngàn năm. Nó là nhân chứng yên lặng của nhiều đời người. Nó chứng kiến những sự thăng trầm đầy mồ hôi nước mắt, thậm chí cả máu lửa của nhiều thế hệ. Nó biết tất cả, nó chứng kiến những gì xảy ra với những kiếp người phù du. Những người đi chợ xa, đi buôn bán xa, đi công tác ít ngày… đặc biệt là những người đi xa quê đã lâu năm… nhìn thấy từ xa ngọn cây gạo thấy thân quen vô cùng. Họ đi tắt rồi xuyên qua đoạn ngõ xanh biếc nữa thôi là về đến nhà. Nơi đây có người mẹ, người vợ hoặc người thân đang chờ đón họ…Cây gạo cũng là một hình ảnh thân yêu độc đáo và nổi bật của làng quê Việt nam…



CON NGHÊ ĐÁ

Ở những nơi trang trọng, nổi bật tại các làng xóm thường có một con vật quen thuộc, được kính nể, yêu mến. Đó là những con nghê đá được đặt hai bên cổng làng,cổng tam quan, cổng xóm, cổng đình, sân đình. Có khi những con nghê còn ngồi chót vót trên đỉnh cột cổng tam quan như đang bay trong mây. Con nghê được tạc bằng đá, bằng đất nung hoặc bằng vôi cát có tô vẽ đủ màu sắc sặc sỡ. Nghê được tạc bằng đá để nói lên rằng, chẳng có gì lay chuyển được chúng và chúng tồn tại mãi mãi. Những con nghê có mặt từ những đời xa xưa. Chúng là những con vật linh thiêng, dũng cảm, tinh khôn. Chúng bênh vực điều thiện, trừng phạt điều ác.

Chúng được gọi là nghê vì chúng có họ với những rồng, sư tử, kỳ lân. Vì vậy, chúng vừa là rồng, vừa là sư tử. Rồng vờn mây, phun mưa cho đồng ruộng, mùa màng. Rồng còn mang lại những điều tốt lành và kỳ diệu đến cho mọi nhà. Sư tử có sức mạnh ghê gớm, uy phong lẫm liệt canh gác cho sự bình yên của xóm làng, bảo vệ người tốt, răn đe kẻ xấu. Nhất là trên đầu nó lại có một cái sừng nhọn như mũi tên và sắc như gươm. Nó bảo vệ cái cổng làng là lối vào làng. Chúng lại còn một tác dụng nữa là trang điểm cho cảnh quan xung quanh.

Cổng làng, sân đình có được những con nghê sẽ trở nên đẹp đẽ, rực rỡ hơn. Con nghê có đôi mắt to và sáng, trán rộng, đầu to có sừng, miệng rộng, nhe cả hai hàm răng, vai rộng, thân hình nhiều vẩy. Nhìn kỹ, con nghê trông rất dữ dội với hai hàm răng. Nhưng nó lại rất hiền lành vì nó cười. Bước qua mấy bậc cổng làng là trông thấy ngay hai con nghê. Người tốt thấy nghê cười với mình, người không tốt, thấy sợ sệt. Những con nghê canh gác, bảo vệ làng xóm, kiên nhẫn và nghiêm túc như những con vật sống. Chúng kiểm tra người ra, kẻ vào. Chúng nhìn xa đến tận những cánh đồng bát ngát, chúng lắng nghe những tiếng hót của bầy chim trên các cành cây, tiếng cười của các cô gái giã gạo, tiếng đập lúa tiếng trẻ con nô đùa v.v…

Chúng biết tất cả mọi chuyện vui, buồn của người dân trong làng. Chúng chứng kiến những đám cưới đi vào làng, đám ma đi khỏi làng, những đám rước, đội kèn trống nhộn nhịp trong những ngày hội. Người đi khỏi làng, nhìn con nghê một lần như để chào từ biệt nó. Người đi xa về cũng chào hỏi nó như thể báo cho nó biết rằng mình đã về làng. Con nghê thân thiết với tất cả mọi người. Chẳng bao giờ chúng ta quên được hình ảnh thân yêu của con nghê đầu làng. Hình ảnh con nghê đá là một trong những hình ảnh thân yêu của xóm làng Việt nam.

MIẾU ĐỒNG CỔ

Miếu Đồng cổ được xây dựng từ đời Lý, trong lịch sử đã được trùng tu nhiều lần, lần trung tu cuối cùng là vào đời Nguyễn. Qua nhiều năm tháng và chiến tranh liên miên, mảnh đất của miếu là nơi đã từng chịu đựng nhiều bom đạn. Miếu đã bị phá hỏng gần như hoàn toàn, chỉ còn lại những mảnh tường, gạch, đá, kèo, cột, khám gỗ, nội cung. Hoà bình lập lại, nhân dân vớt được những bộ ngai sơn son thếp vàng và một số đồ cúng, tế, lọ độc bình, chiêng v.v… ở dưới ao lên, tập trung vào trong khám nội cung, dựng một mái ngói tạm thời để che chắn, bảo quản.

Đó là cái cảnh "miếu cổ vàng sơn nhạt" như bất cứ ở nơi đâu đến năm 1960, trong phong trào bài trừ mê tín, sở Văn hoá Hà Nội đã mang đi nhiều đồ thờ bằng đồng, đá… rồi để thất lạc. Đến năm 1990, nhân dân làng Đông cùng với nhân dân các làng quanh khu vực Bưởi tích cực đi quyên tiền, xây dựng lại miếu ở ngay mảnh đất cũ. May thay, trong phường thờ có hơn 10 người là những người có truyền thống xây cất đình, chùa. Đó là phường thợ Thạch Thất nổi tiếng. Ông trùm phường thợ đã có tuổi, từng được nghe cha ông mình nói chuyện trước đây đã tham gia sửa chữa miếu Đồng Cổ. Ông quyết tâm xây dựng lại miếu Đồng Cổ với dáng dấp xưa kia của nó. Miếu được xây lên như một cái lầu 8 mái, hai tầng. Tất cả các bộ phận bằng gỗ đều là gỗ tứ thiết. Những đường nét, hoa văn đều giữ được vẻ tài hoa truyền thống. Khách hành hương, từ Hà Nội tới theo đường Thuỵ Khuê, qua làng Hồ Khẩu là đến làng Đông. Tới đây, qua cầu sông Tô Lịch rồi vào sâu chừng 200 mét nữa là đến cổng miếu. Miếu có tam quan, vườn hoa, có hòn non bộ. Hai bên phải, trái có tả vu và hữu vu. Chính giữa miếu gồm gian nhất bái, nhị bái rồi đến hậu cung. Gian nhị bái có bàn thờ và ba chiếc ngai loại vừa để bài vị. Hậu cung có ba cỗ ngai sơn son thếp vàng loại lớn, có cách đây khoảng 200 năm. Trên ngai có áo bạch long và mũ của thần Đồng Cổ. Mũ màu đỏ, có nhiều chi tiết trang trí nổi bằng kim loại dát rất mỏng. Cảnh quan của miếu rất đẹp. Tiếc rằng, một đơn vị quân đội đã đóng quân trên diện tích khoảng 300 m2 đằng sau hậu cung, làm cho miếu bị méo mó. Không gian thiêng liêng của miếu bị phá vỡ…

Trước đây, hàng năm, cứ đến ngày mồng bốn tháng tư âm lịch, nhà vua (hoặc các quan nhất triều được vua chỉ định) dẫn các quan cao trong triều đến miếu Đồng cô lễ tạ thần. Lúc mặt trời mọc, họ làm lễ uống máu ăn thề để có sự chứng giám của thần. Tất cả đều tuốt gươm trần (các quan võ), giơ cao lên thề:

"Làm tôi bất trung

Làm con bất hiếu

Thần minh chu diệt…"

Sau đó các quan, quân lại nườm nượp ngựa xe, kéo về thành Cửa Đông. Đến chiều, các dòng họ, các đại biểu những làng xung quanh, rồi đến khách hành hương khắp mọi nơi làm lễ cầu thần phù hộ cho nhân dân được an khang, thịnh vượng. Lễ hội kéo dài hai ngày với các trò chơi như: đánh đu, bắt vịt, chọi gà, cờ tướng v.v… Riêng sân khấu chèo và tuồng được kéo dài đến nửa tháng. Trai gái trong vùng Bưởi thường mượn buổi chiều tối của miếu, mượn trăng của miếu, dắt nhau, thấp thoáng bên tường miếu rêu phong mà thề thốt:

"Một duyên, hai nợ, ba tình

Chúng con gắn bó, xin thần chứng minh".

Năm 1995, một đoàn đại biểu thôn Châu Nê, xã An Định, huyện An Thọ tỉnh Thanh Hoá ra dự lễ tế thần Đồng Cổ ở làng Đông Xã, quận Ba Đình. Họ đã tham khảo kiến trúc miếu để về quê hương xây dựng lại miếu ở dưới chân núi Đồng Cổ, Thanh Hoá đã bị san phẳng từ lâu. Sự tích thần Đồng cổ đã được ghi nhiều trong sử sách, nhất là trong Việt Điện U Linh và cả trong lòng dân. Sau khi Lý Thái Tổ rời đô về Thăng Long, hoàng tử Lý Phật Mã đi dẹp loạn phương Nam (1020), đến chân núi Khả Thanh (còn gọi là núi Đồng Cổ), thái tử đóng quân ở bên cạnh ngôi miếu có. Đêm đến, Lý Phật Mã nằm mơ thấy vị thần trong miếu xưng là thần miếu núi Đồng Cổ đến chúc tụng thái tử và xin góp sức giúp thái tử dẹp loạn. Trận đánh sau đó đã thắng to Lúc về, Lý Phật Mã rước thần về kinh đô để nhờ thần trấn giữ kinh thành. Thái tử chưa biết nên lập miếu thờ cho thần ở đâu thì được thần báo mộng xin cho đặt miếu thờ ở sau cung Thánh Thọ (làng Hồ Khẩu) trước mặt là sông Tô Lịch, phía sau dựa vào thành Đại La. Khi Lý Thái Tổ mất, thái tử lên ngôi (Lý Nhân Tông), thần lại báo mộng mách bảo cho nhà vua biết ba vị vương muốn kéo quân về kinh thành làm phản. Kết quả, vua dẹp được loạn Tam Vương. Vua tạ ơn thần và phong cho thần là minh chủ gia tướng đại vương Đồng Cổ.



CHỢ GIỜI HÀ NỘI

Chợ Giời của Hà Nội có từ rất sớm. Nó chẳng giống như các chợ khác như chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Bưởi… Nó vội vàng thay đổi nơi chốn, tụ họp vào một nơi rồi mở rộng một cách rất "thời sự". Thoạt đầu là sau ngày Nhật đảo chính Pháp (1945). Rồi đến khi ta tiếp quản Thủ đô, hiệp định Geneve được ký kết, đến phong trào Nam tiến của hàng triệu người… cứ mỗi đợt lại thêm người bán và kẻ mua. Hàng hoá mọi mặt lại phong phú hơn.

Chợ được họp ở góc phố Thiền Quang, phố Quang Trung, mở rộng ra quanh hồ, chạy sang phố Hồ Xuân Hương. Có chợ ở gần nhà máy Trần Hưng Đạo rồi bị “đuổi” vào bãi than gần trường Đoàn Kết. Nó còn giữ được cái tên chợ Đuổi cho đến giờ.

Nơi họp chợ tập trung tại bãi than rộng rãi, hoang vu không hợp với đặc trưng của một cái chợ. Thế là mọi người tràn ra phía chùa Vua Đế Thích, lấy dân làm trung tâm rồi toả ra mọi phía như là những chiếc nan hoa của một chiếc bánh xe đạp khổng lồ. Nơi đây kề cạnh với những trục đường cái quan, đường chính. Có thể tiến được mà cũng có thể thoái được theo nhiều ngả.

Chợ họp từ sáng sớm đến khi thành phố lên đèn, thậm chí đến cả đêm. Suốt ngày nhộn nhịp, mua nhanh, bán nhanh theo tình hình trong nước có những biến chuyển và cả tình trạng kẻ ở người đi… Lúc này chợ Giời còn gọi là chợ Trời ơi đất hỡi. Có những cô gái ở phương trời nào không biết cũng xô đến, làm quen, bắt mối hoặc buôn bán với khách mày râu, lãng tử làm cái trò nửa thương nghiệp nửa ái tình. Lại có những người có duyên, kiếm được tiền mời nhau đi nhậu nhẹt, mời các cô ả đi đập phá. Trời cho ấy mà. Chẳng ai từ chối.

Đến năm 1955, chợ Giời mới được thành lập một cách chính thức. Chợ Giời có đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ cám", khách có thể mua phụ tùng để lắp chừng 10 cái xe đạp, nhưng nếu cần, khách có thể mua 1 chiếc nan hoa, một ốc tanh, con vít… Cũng xin có ngay với giá  "mềm". Ở đây, bạn có thể mua từ chiếc kim hoạn lợn đến các máy móc tinh vi, đắt tiền. Người ta có thể “chạy” cho bạn những mặt hàng "chua" nhất mà không đâu có. Từ năm 1955 trở đi, chợ Giời đã là một cái chợ quy củ mà tầm cỡ của nó làm cho cả nước biết đến. Nó có nhiều ưu điểm mà các chợ khác không thể có. Nhưng thực ra đến năm 1980, nó mới thực sự trưởng thành. chợ được mở rộng ra nhiều. Ngoài khu trung tâm, nó còn kéo theo ra đường lớn trong khu tập thể Nguyễn Công Trứ với hai dãy dài gồm gần 500 hộ, kéo ra phố 235 và cạnh trường Đoàn Kết, hai dãy các đồ phụ tùng ô tô xe máy, ti vi, điện tử, đầu máy ti vi, cát sét và lúc nào cũng có chừng 500 chiếc xe đạp bán… Kể cả dãy Phố Thịnh Yên và toàn bộ chợ Giời nay gồm ngót 2000 hộ. Các lều lán đều bằng cột thép lợp mái tôn ngay ngắn. Nó đã được ổn định. Tử gần chục năm lại đây những hộ buôn bán ở chợ Giời đã có đời sống ổn định thậm chí còn khá thầm là khác. Họ buôn bán rất hiện đại. Có nhiều người đã rút khỏi chợ Giời hoặc vẫn giữ chỗ nhưng mua bán lại thực hiện ở nơi khác… Họ thực hiện những hợp đồng lớn với hầu hết các tỉnh trong cả nước. Họ buôn bán qua điện thoại. Nhiều người đã mở khách sạn, xây biệt thự. 50% số hộ chợ. Giời buôn bán với mức tiêu thụ nhanh, có nhiều mối hàng, có mức sống khá cao nhưng cần kiệm để có thể buôn được càng ngày càng lớn hơn. Số hộ buôn bán còn lại 30% là những hộ cầm cự với cuộc sống hàng ngày. Lưng vốn của họ có chừng từ 5 đến 10 triệu, vừa buôn vừa vay nóng, vay nguội. Tuy vậy, mức sống của họ cũng không đến nỗi. Tất cả các hộ dù giàu dù nghèo đều phải cộng tác gần gũi với những người bỏ vốn và những người cầm cái họ. Đó là những con người rất thạo đời, biết làm cho đồng tiền nảy nở. Họ có chăng đóng góp tích cực vào thị trường. Họ sống rất quần chúng. Luôn nhắc đến câu:

"Ăn mày là ai, ăn mày là ta.

Đói cơm rách áo thì ra ăn mày".

Hoặc câu:

"Tiền có khi làm cho người ta hư hỏng,

nhưng tiền cũng làm cho con người ta trở nên tốt hơn".

Các hàng sách, báo bán được nhiều ở chợ Giời. Nhất là khi có những tin tức đặc biệt, như tin về cúp bóng đá thế giới, tin về vụ cháy ở chợ Đồng Xuân chẳng hạn. Những người cho thuê truyện và bán vé sổ xổ cũng đến tận các quầy hàng để “chào hàng". Đã từ mấy năm nay, do chính sách mở cửa, khuyến khích buôn bán, ở Hà Nội đâu cũng là chợ. Tuy vậy, chợ Giời vẫn có thế mạnh của nó, sự hấp dẫn của nó và nó luôn luôn tồn tại.



CÁI CẦU MÁI NGÓI

Ở các làng quê ta, ruộng đồng bao la. Từ làng này sang làng khác phải qua những cánh đồng bát ngát. Đâu đó, thường hiện lên những cây cầu. Đôi khi từ cánh đồng làng này sang cánh đồng làng bên kia cũng phải đi mất hàng mấy cây số đường sống trâu, ở giữa chặng đường đó, cũng có cái cầu. Nó là hình ảnh thân thương của xóm làng, cầu là ngôi nhà công cộng, được xây dựng lên trên một nền đất cao hơn mặt ruộng. Nó thường được dựng đơn sơ bằng chừng 810 cây cột gỗ. Mái lợp ngói âm dương hoặc ngói mũi hài, có nơi ngói cũng cong lên đôi chút cho giống mái đình. Diện tích cầu chỉ khoảng 20 - 30 mét vuông. Mặt trước cầu có treo chiếc mõ dài bằng gỗ báo canh và chiếc kẻng, chúng sẽ lên tiếng khi có "động” hoặc có chuyện trộm cướp…

Cái cầu là nơi để mọi người nghỉ chân chốc lát, tránh nắng những trưa hè gay gắt. Một, hai bác thợ cầy ăn cơm trưa, nghỉ ngơi một lát nơi đây rồi lại tiếp tục xuống đồng. Ban đêm, cái cầu trở thành cái điếm canh của trương tuần và tuần phu gác và làm công việc trị an. Họ được trang bị mấy tay thước và cái đèn trai. Đêm đông, họ đốt củi để sưởi.

Cầu được xây dựng bên gốc gạo hoặc đa hoặc một bụi duỗi, cúc tần. Trong cầu thường có một bà đứng tuổi mở một quán hàng, vì vậy cái cầu còn được gọi là quán. Quán hàng của chủ quán có đặt một chiếc chõng tre. Mặt chõng được đan bằng những thanh nứa ghép lại thành hai hàng ghế dài và mấy miếng gỗ phẳng để mọi người ngồi khi đông khách. Trên mặt chõng có bày một dãy bát uống nước, mấy gói thuốc lào, thuốc lá; cái ang đông bánh dầy, bách gai; một lọ kẹo bột, chè lam; vài tấm mía; mấy quả bưởi; vài nải chuối…

Chủ quán ngồi đối diện với khách hàng, bên phải bà là chum nước chè tươi, trên có miếng dạ ủ và chiếc gáo dừa, bên trái là chiếc bong bóng lợn phơi khô đựng rượu ngang. Mọi người ăn quà bánh, uống nước, hút thuốc lào sằng sặc, nhả khói. Họ tán với nhau đủ chuyện thời sự trong xóm làng. Hết chuyện này sang chuyện khác. Họ bàn sang cung cách làm ăn, có khi họ xen vào những đoạn tiếu lâm rồi cùng cười phá lên. Chiều tối, bà quán dọn hàng về. Vẫn để nguyên cái chõng và ghế dài. Một, hai người khách bất đắc dĩ, kẻ lỡ độ đường hoặc hành khất" nằm ra nền đất ở một góc cầu để nghỉ qua đêm. Đó là cái kiểu nằm cầu gối đất. Người ta thường nói: “Bơ vơ điếm cỏ, cầu sương” hoặc “nằm cầu gối đất" là cái cảnh này đây. Ông thợ cạo đặt một chiếc ghế cao bên cạnh cái cầu. Tấm gương có khung đỏ của ông được treo lên thân cây gạo. Ông làm nghề vít đầu vít cổ thiên hạ tại đây. Đồ nghề của ông được xếp gọn trong một chiếc hòm gỗ. Cửa hàng của ông thu hút được nhiều người. Ông được nhiều người yêu mến. Ông luôn tươi cười, vui vẻ. Ông thuộc lầu lý lịch của nhiều người, nhiều dòng họ. Chuyện gì ông cũng biết, cũng bàn vào. Ông được “liệt vào hàng sư phụ trong ngón nghề lấy ráy tai. Ai cũng thích nghe ông kể chuyện. Đôi lúc trong quán có chuyện quá chén hoặc gây gổ, ông nói vọng vào một vài lời can ngăn là xong ngay.

Chiều mùa hè, trước mặt cầu là bãi thả diều. Một vài ông già ngồi trong quán, nhìn lên trời xem diều và nghe sáo diều trầm bổng tiếng quê hương. Lúc gần tối, ráng chiều giội lên cánh đồng và cái cầu làm nên một bức tranh hùng tráng mà có chút huyền bí, phong sương.

Cái cầu còn là nơi đưa, đón khách. Với những khách quý khách đặc biệt, nhà chủ phải ra tận cầu đón khách và đưa khách về nhà mình. Khách ở lại một hai hôm rồi lại ra đi, nhà chủ đưa khách ra tận cầu, nâng chén tiễn biệt gọi là chén "Quan Hà". Họ chắp tay lại, vái nhau. Có những đôi trai gái cũng tiễn biệt nhau ở cầu Như vậy cái cầu được coi như là cái "trường đình", "đoản đình" bên trung Quốc xưa. Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đã tiên nhau ở cái trường đình (cầu) này đây. Lại có những cặp nhân tình không đưa nhau ra cầu mà chỉ lấp ló ở đàng sau rặng cúc tần, duỗi ở bên cạnh cầu họ ra đây, nhìn lên mái cầu là giải lời nguyền:

"Xin ai đừng nghĩ kẻo già

Cái cầu mái ngói chia tình đôi ta…"

hoặc:

"Cũng chẳng tại em, chẳng tại mình.

Cái cầu mái đỏ.

Chứng tình hai ta…"

Họ đổ lỗi cho cái cầu mái ngói là xong chuyện.

Trên thế gian này, có rất ít những cuộc chia tay bình thản rộng lượng mà khéo như thế này. Đám cưới đi qua cầu, hai họ cũng chia vài khẩu trầu, mấy điếu thuốc lá biếu bà hàng quán và những người có mặt trong cầu để mọi người mừng cho đôi trẻ. Đám ma đi qua, bà quán cũng được mấy miếng trầu của nhà đám.

Vào khoảng mồng 4, mồng 6 Tết Nguyên Đán, trên đường đi tảo mộ về, mấy thành viên trong một chi họ nào đó rủ nhau vào quán nghỉ chân buổi đầu xuân. Họ phải đi thăm nhiều ngôi mộ nên lúc này đã mỏi. Họ uống nước, hút thuốc và ngả con gà luộc và ăn xô mang theo ra đánh chén. Họ mời mọi người cùng thưởng "thức chút lộc đầu xuân lấy may". Họ cũng mang theo cả rượu mùi để uống và mời mọi người…

Những năm trước và sau cách mạng tháng Tám 1945, những cái cột trong cây cầu đều có dán những khẩu hiệu kêu gọi toàn dân đứng dậy làm cách mạng, những chỉ thị chính sách vv… Cái cầu còn là nơi tập hợp quần chúng. Mặt trước cầu là bãi tập quân sự của dân quân, cũng là nơi tiễn các thanh niên lên đường nhập ngũ. Nơi đây, chỉ cần một cái phông đỏ buông xuống là đã trở thành sân khấu để biểu diễn nghệ thuật: hát chèo, hát tuồng, dân ca…

Có thể nói, cuộc đời nhiều người gắn bó chặt chẽ với cái cầu xưa kia, nhà thơ Quang Dũng, mỗi khi trở về nhà, bao giờ cũng phải nghỉ chân ở cái cầu Phượng Trì (Đan Phượng). Anh phải uống bát nước, hút điếu thuốc, tán gẫu dăm ba câu với mọi người rồi mới về nhà… Anh đã làm một bài thơ lấy tên là "Thôn Phượng Trì" ngay trong cái quán này. Về mặt chứng tích, các làng quê ta còn giữ được nhiều cái cầu mái ngói. Chúng đều nổi tiếng, ít nhất là đối với một vài làng thôn hay một vùng như: Cầu Điều (Cổ Thuê), cầu An Phú, cầu Giàn (Cáo Đỉnh), cầu Canh  (làng Canh), cầu ông Nghè (Quốc Oai), cầu Bún (Phú Đô), cầu xóm Luỹ (Yên Thái Bưởi) vv…và…vv. Trong tâm khảm sâu xa của chúng ta, ai cũng có những mảnh hồn quê, chúng cứ không nguôi, bốc lên những làn sương khói và nhớ nhung. Chúng ta nhớ một dáng núi, một đám mây trước cổng làng, một con đường nhỏ có vầng trăng khuyết. Chúng ta cũng nhớ đến cái cầu mái ngói…



NINH HIỆP

Xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội gồm 9 xóm với trên một vạn người. Đất nông nghiệp chỉ ngót nghét 3000 m2 một đầu người. Dân ở đây đã phải làm bất cứ nghề gì để tồn tại. Đó là một cái làng đặc biệt mà mấy năm gần đây đã làm giàu nhanh chóng. Tiếng tăm của nó lừng lẫy, ai cũng biết. Người dân Ninh Hiệp năng động. Các cô gái cần cù, tất bật bán vải, may quần áo theo dây chuyền: Họ mặc quần ống thấp ống cao mà phóng xe "cúp". Họ đã khá giầu có nhưng không khoe của và lố lăng. Cô dâu không mặc váy ba tầng. Đám cưới đều tổ chức ở uỷ ban nhân dân xã, tốn kém chừng hai chục nghìn. Họ dồn tiền để mở rộng vốn sản xuất, buôn bán và dịch vụ.

Chợ Ninh Hiệp to mà phong phú. Có bốn mặt hàng mà Ninh Hiệp đóng vai trò điều chỉnh giá cả thị trường Hà Nội và các vùng xung quanh là vải, pin đèn, mì chính và phân đạm. Ninh Hiệp có nhiều tổ và nhiều người làm đại lý có tín nhiệm với các hãng buôn bán trong và ngoài nước. Họ làm dịch vụ, giải quyết rất nhanh, gọn những yêu cầu về mặt hàng và các hợp đồng buôn bán lớn. Nhiều hợp đồng tính từ vài trăm triệu trở lên. Lưới buôn bán của Ninh Hiệp đã tạo thành một tam giác: Ninh Hiệp, Hà Nội và Hải Phòng. Họ giữ chữ tín công khai, công bằng, đôi khi pha màu "hiệp sĩ".

Ủy ban nhân dân xã đã phát đồng phục cho học sinh trường phổ thông cơ sở. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy chừng ba chục toà nhà ba tầng dựa theo kiểu hiện đại và đã vào năm, bảy, tám toà nhà trong đó. Nói chung, nhà khép kín, lát gạch men trắng, nhà tắm hương sen, giường lò so, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh máy giặt, ti vi màu, đầu video v.v…

Một số bạn nước ngoài ao ước được thuê một hai gian phòng như vậy tuy nhiên, nhiều nhà sắm sập gụ, tủ chè, khảm trai có cánh cong, tràng kỷ chạm trổ phong cảnh bốn mùa. Nghĩa là có cả mới cả cũ đối lập nhau nhưng cùng tồn tại hoà bình. Người ta yêu cả mới lẫn cũ và duy trì các cuộc đối thoại âm thầm này.

Ninh Hiệp rất tự hào về vốn văn hoá của mình và vinh dự hơn nữa được nằm trong hình tam giác văn hoá của đất Kinh Bắc, gọi là tam giác thiêng. Đó là vùng chùa Phật tích, vùng chùa Dâu, đền Gióng, Thô Hà, làng quan họ. Con sông Cầu nước chảy lơ thơ, "Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh" v.v… Đều sát ngay cạnh Ninh Hiệp. Ở cái tam giác thiêng này, xưa đã có một nền nông nghiệp phát triển nổi tiếng với gốm Bát Tràng, tơ lụa Phù Lưu, nồi đồng Quế Dương v v… Buôn bán giữa đàng trong đàng ngoài, là nơi tụ tập những trai tài gái sắc, lại có cảnh quan cổ kính nên thơ, đây cũng là nơi tuyển được nhiều mỹ nữ cung tần cho các vương triều cũ.

Vừa rồi, Ninh Hiệp mở hội truyền thống ở chung quanh chùa Pháp Vân. Có triển lãm hơn 100 bức tranh của hoạ sĩ Đỗ Đức, là con em làng Ninh Hiệp. Cũng có triển lãm về nghệ thuật cây cảnh phong phú của câu lạc bộ cây cảnh của xã. Khách dự hội ca ngợi kỹ thuật ghép cây, nắn cây, tạo thế cây, dựng hòn non bộ. Đặc biệt có cây si chín tầng, cây si 200 tuổi, các thế cây thạch thùng vồ mồi, cây trúc đợi chờ hoặc còn gọi là "tình sử" v.v… Mỗi chậu cây, cành cây, một hòn non bộ là một tác phẩm nghệ thuật. Ngoài nhà văn hoá xã ra, Ninh Hiệp còn có các câu lạc bộ thể dục, thể thao, có bãi bóng, sân vận động nhỏ. Trong mấy ngày hội, Ninh Hiệp mời chuyên gia vật của Liên Xô về tham dự, mời đoàn quan họ gốc có dây mơ rễ ma  nội ngoại với mình sang giúp vui. Họ lại còn mời cả đoàn chèo Thái Bình đến để thưởng thức và học hỏi tinh hoa của một "lò" chèo đích thực.

Đám nghi trượng rước Phật từ nhà Thạch Sàng (giường đá) tám mái cong vút đến chùa Pháp Vân được tiến hành trang trọng mà giản dị. Chùa Pháp Vân còn giữ được nhiều cổ vật cũng có 18 vị La Hán như ở chùa Tây Phương. Có điều lại còn thêm ba pho tượng "Tam thế" tượng trưng cho quá khứ, hiện đại, tương lai mà cũng diễn tả quá trình hoá thân của những kiếp người. Trông lên ta thấy "nghìn năm khuôn mặt vẫn lung linh”. Đây lại còn là chùa độc nhất có bốn pho tượng tứ trấn: Đông, Tây, Nam, Bắc với tầm nhìn vũ trụ. Mọi người còn có thể thăm  “Từ Vũ” với ngôi đền ngổn ngang những phiến đá lớn, tượng và một số đồ thờ bằng đá được chạm bằng những nét khái quát, thô sơ mà thi vị. Nguyên đây là một bộ phận lăng tẩm của một vị hoạn quan quận Công triều Lê Trung Hưng.

Cách Từ Vũ không xa có đền thờ bà phi Nguyễn Thị Huyền và con gái là Ngọc Hân công chúa. Cũng không xa đó là bãi "gốc gạo" với hai ngôi mộ của mẹ con bà Phi. Thạch Sàng ghi dấu ấn của thượng sư Khâu Đà La "Ấn Độ” sang truyền giáo. Ninh Hiệp còn giữ được gần như nguyên vẹn một nhà thuỷ đình để biểu diễn múa rối nước… Mảnh đất Ninh Hiệp do đó đầy ắp những dã sử và huyền thoại. Ninh Hiệp rất hiện đại mà cũng rất cổ kính, là niềm say sưa với khách du lịch, điều hấp dẫn với nhà văn hoá và folklore học, có lợi cho các nhà kinh tế và kinh doanh, thú vị với nhà làm sử… Ninh Hiệp không chỉ là một làng văn hoá mà còn là một làng du lịch. Nếu được quan tâm và đầu tư hợp lý, làng du lịch Ninh Hiệp có thể sánh ngang với các làng du lịch ở Chiềng Mai hoặc Băng Cốc về mặt phương tiện và hình thức. Còn về nội dung, Ninh Hiệp có một bề dày lịch sử đáng kể, phong phú về cả ba mặt: xã hội, văn hoá và kinh tế hy vọng. trong tương lai, Ninh Hiệp sẽ phát huy được hết sức mạnh và tiềm năng vốn có của nó, trở thành một làng văn hoá của Việt nam và làm giàu cho đất nước.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


Từ ngày 23 tháng chạp ngày ông Táo lên chầu giời người ta đã tưng bừng sắm sữa, chuẩn bị đón Tết cổ truyền. Bàn thờ Táo quân đặt bên cạnh bàn thờ chính thờ tổ tiên cha mẹ, có đặt hai cái mũ Táo quân ông. và một mũ Táo bà. Thêm vào đó có ba chiếc áo (không có quần), tất cả đều bằng giấy nhiều màu sắc Lại có một con cá chép sống trong một chậu nước. Đó là phương tiện để các vua bếp bay lên thiên đường báo cáo với Ngọc Hoàng về cuộc sống trần gian.
Chiều ngày 28 tháng chạp, nhiều gia đình đi thăm những ngôi mộ của thân nhân để tỏ lòng biết ơn và quyến luyến: "Nắm xương cô quạnh còn ân ái". Họ mời vong linh những người đã khuất về ăn Tết với gia đình trong ba ngày Tết, kể từ ngày mồng một tháng giêng. Ở các nghĩa trang, cánh đồng, người ta đốt vàng thoi, vàng lá và hàng mã, thắp hương nghi ngút. Lúc đó, khắp nơi thấp thoáng những làn hương khói, những tan vàng lá bay lơ lửng, không khí đượm màu hoài tưởng, quạnh hiu: "Vàng bay mấy lá năm hồ hết…" Ở ngoài đình hoặc nơi công cộng, người ta trồng một cây nêu cao vút có một vòng tròn mắc nhằng nhịt các con vật bằng giấy xanh, đỏ với những chiếc khánh nhỏ gây ra tiếng lanh canh vui tai khi gió thổi. Cây nêu được dựng lên để cho các ma quỷ và những hồn người hung ác biết rằng đây là đất của nhà Phật, không được đụng tới. Nhiều gia đình còn cẩn thận hơn nữa, vẽ mũi tên trên cánh cung giương ra ở trước cửa bằng vôi trắng để đe doạ kẻ xấu. Hai cánh cửa của các nhà được dán lên hai bức tranh có hai ông tiến tài tiến Lộc hoặc hai ông tướng canh cửa gọi là ông Thiện và ông ác.
Nói chung, Tết những năm xưa được gói gọn trong đồi câu đối: "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"
Hoặc "dữ dội" hơn:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Rượu nồng, dê béo, gái xuân xanh".Chiều 30 Tết, mọi việc như dọn dẹp bàn thờ, quét tước nhà cửa, bàn thờ có cành đào, cành mai, mâm ngũ quả; Cột nhà có đôi câu đối giấy đỏ chữ đen, dán tranh Tết v.v… Những công việc này phải làm xong cùng với việc có đủ các món ăn truyền thống như bánh trưng, dưa hành, giò, chả, thịt đông, thịt bò om gừng, các loại bánh các thứ hoa quả. Nhưng không được thêm mấy khóm cúc, hoa mẫu đơn, hoa trà, sửa sang lại vườn hoa cây cảnh, hòn non bộ. Người ta tắm một buổi tất niên bằng nước ấm có hương thơm của cành mùi hoặc hương nhu. Đồng thời giết một con gà giò để làm lễ cúng giao thừa ngoài trời.
Ngày mồng một, mồng hai, người ta kiêng sát sinh, không động thổ, quét tước gì để giữ cho màu sắc Tết không bị mất đi quá sớm. Nhất là giữ lại những đám xác pháo màu đỏ hồng đầy sân. Chiều 30 Tết, cả nhà quây quần sum họp. Những thành viên đi xa cũng cố gắng trở về họp mặt. Họ ăn với nhau một bữa tất niên rồi ai nấy chuẩn bị những bộ quần áo và các đồ trang sức đẹp nhất. Với trẻ con các nhà trung lưu thường là quần đào xẻ đũng, áo hàng lam. Họ chuẩn bị gói những đồng xu, tờ giấy bạc mới tinh vào những miếng giấy hồng điệu để ngày mồng một mở hàng cho mọi người trong gia đình và trong họ.
Trong những lúc này, họ nói chuyện với nhau về đủ mọi chuyện trên đời, trong cuộc sống và rút kinh nghiệm, đặt quyết tâm cho năm sau sẽ đến trong vài tiếng đồng hồ nữa.
Đúng 12 giờ đêm là giờ Tý, mọi nhà đều đốt pháo giã tử năm cũ, đón mừng năm mới, thắp đèn hương cúng ông bà ông vải, người thân đã khuất ở ngoài sân cũng có bàn thờ cúng trời đất với hương hoa, và xôi trắng, con gà mỏ cắm đoá hoa hồng. Người ta đi dạo giữa thiên nhiên, cảnh vật đất trời để tận hưởng không khí xuân tươi mát gọi là đi “xuất hành". Người ta ngắt lấy một cành lá, một nhánh lộc nhỏ, cành cây non mang về gọi là "hái lộc xuân". Gia chủ đã hẹn sẵn một người bạn thân của gia đình đến “xông đất”, nghĩa là người đó là người đầu tiên bước vào gia đình trong năm mới. Người đến xông đất phải là nam giới, có con cái, làm ăn khá giả, tính tình cởi mở gọi là người "nhẹ vía". Người đến xông đất chúc tết gia chủ và có "mở hàng" cho gia chủ. Những người có tang gọi là "có bụi" không đến nhà ai trong những ngày Tết. Sáng mồng một, lúc 5 giờ, các chủ gia đình đến lễ tổ tại nhà thờ họ, "mừng tuổi" cho người trông nom nhà thờ họ rồi mới về nhà. Tại các gia đình, người bố phong bao cho các con.
Sau đó, các thành viên trong gia đình mới đi chơi, chúc tết các gia đình khác và các bạn bè. Các bà, các chị có thể đi lễ ở đình, ở chùa. Đôi khi họ xóc thẻ, miệng cầu khấn rì rầm, tay lắc ống thẻ sao cho có một chiếc thẻ rơi ra ngoài. Chiếc thẻ đó tương ứng với một lời giải về tương lai ghi trên giấy. Đàn ông có thể đánh tổ tôm, đánh chắn. Các cô gái đánh tam cúc. Các cô nhắm mắt lại, rút một quân bài đầu năm trong số 32 quân bài. Nếu quân rút được là quân đỏ thì năm mới, người rút được nó sẽ có điều may mắn về đường tình duyên, gọi là bói "tam cúc".
Chiều ngày mồng ba Tết, gia đình làm lễ tiễn tổ tiên trở về âm phủ và hẹn gặp lại trong những ngày lễ tết trong năm và Tết năm sau. Người ta đốt vàng, những quần áo và các đồ dùng bằng giấy để tổ tiên mang theo. Trong những ngày Tết, mọi người kiêng nói những điều không hay. Người ta sống rất “thiện”, lịch sự, lễ phép, tôn trọng trên dưới, vì tổ tiên, ông bà cũng cùng về dự Tết với con cháu. Đó là cuộc sống vừa "tâm linh" vừa "thực tại". Trong những ngày Tết, người ta không đánh nhau, cãi nhau, xoá bỏ mọi hận thù, xích mích. Những người nghèo được bà con anh em xung quanh giúp đỡ để cũng có Tết. Những người hành khất chỉ cần đứng gần cửa một gia đình rồi nói vài lời chúc Tết may mắn là đã được mọi người trong gia đình mang ra cho bánh chưng, xôi, thịt v.v…
Mọi người thường nói:
"Khó đói chẳng lo ba ngày Tết
Giàu sang rộng mở tấm lòng thương…"

Ngày 7 tháng giêng là ngày hạ cây nêu, mọi người tụ tập gặp nhau ở các nơi như đền, chùa, đình, miếu, các bãi rộng là những nơi thường tổchức những cuộc vui xuân, tế lễ, rước xách, hát tuồng, hát chèo v v… Nhưng những nơi đây còn là nơi để trai gái hẹn hò, trao duyên trong những ngày xuân tươi đẹp và lẳng lơ rất mực. Mọi người rủ nhau đi chơi xuân, sang làng nọ làng kia, mở rộng sự quen biết và kết bạn. Gia đình người con trai sang chúc tết gia đình người con gái và ngược lại. Đến ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong cả năm, là ngày có trăng tròn đầu tiên của một năm. lại là ngày những người ở dưới âm phủ được “tháo khoán” nên tranh thủ về dương gian với những người thân ngày nay, các vị thần thánh mở rộng lòng từ bi. Ngay cả ma quỷ cũng không trừng phạt, hành hạ con người kể cả người sống lẫn người chết.
Trong những ngày Tết, người ta sống với bốn từ: thiện, khiết, hoà và vọng; có nghĩa là: lương thiện, trong sạch đẹp hoà hợp và hy vọng.

MÂM NGŨ QUẢ
Mỗi năm, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ mỗi gia đình đều có mâm ngũ quả. Gọi là mâm là nói chung. Xưa kia, người ta dùng cái mâm bồng để xếp ngũ quả. Mâm bồng là một chiếc đĩa gỗ sơn son thếp vàng, có đường kính chừng 30 cm. Mâm có chân dài tiện tròn, cao chừng 15 cm. Dưới có đế tròn, trên mặt đĩa có vẽ hình rồng, phượng. Mâm ngũ quả được đặt lên mặt mâm bồng hoặc được đệm bằng một chiếc đĩa bằng sành hoặc sứ. Sau này, ngũ quả thường được đặt trên một chiếc đĩa tròn hoặc bầu dục. Cũng có khi trên một chiếc mâm con.
Trước hết, mâm ngũ quả là để cúng trời phật, tổ tiên. Sau là tô điểm cho màu sắc Tết được thêm phần trang trọng, rực rỡ) không khí ngày Tết được ấm cúng. Nó làm cho người ta liên tưởng đến sự được mùa, sự dồi dào, no đủ, đến hoa thơm quả mọng…
Với tâm thức của người Việt nam, mâm hoa quả trước tiên là để dâng mẫu Thượng Ngàn. Sau đó, nó tiếp thu tinh thần của Phật giáo và Đạo lão mà trở thành mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả gồm năm loại quả. Con số 5 là con số cân bằng, con số của trật tự, thành ý và may mắn: Ngũ hành, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ giác, ngũ quan, ngũ phúc… mâm ngũ quả gồm các loại quả có hạt, múi và hình dáng lạ, nói lên sự tái sinh và sinh sôi bất tử. Nó gồm: quả Phật thủ có hình tượng bàn tay Phật, là sự tập trung tinh thần, sự chế ngự thiêng liêng; nải chuối tượng trưng cho sự mong manh vừa không ổn định của cuộc đời phù du; quả bưởi là hình quả đất, là sự tròn đầy; quả hồng là sự toả sáng, cân bằng tinh thần; quả cam tượng trưng cho sự phồn sinh thực. Để tăng thêm tính thẩm mỹ, các loại quả thường còn giữ trên mình một cành nhỏ có chừng 1 hoặc 2cánh lá. Sau này, người ta bày thêm vào mâm ngũ quả những loại quả khác sẵn có ở các địa phương như: cành táo, cành sung, vả, khế, ổi, quệt, dưa hấu v. v… Mâm ngũ quả trở nên đầy đặn, phong phú mà nhiều màu sắc hơn. Lại tuỳ nơi mà mâm ngũ quả được bày thêm vào bằng những sản phẩm có ở những địa phương khác nhau. Mâm ngũ quả miền Nam lớn hơn ở miền Bắc. Miền Nam có bày thêm mãng cầu, na, dứa, xoài… Mỗi loại quả đều có dáng vẻ và màu sắc riêng. Tất cả hợp lại thành một bức tranh vui mắt. Tất cả đều tươi sáng, tròn đầy, mang lại niềm vui và làm cho mọi người nảy ra những suy tư triết học. Chúng còn mang lại những hoài niệm tuổi thơ cho những người lớn tuổi. Trong khói hương ngào ngạt ngày Tết, những quả hồng chín mọng, cam đỏ ối, bưởi xanh mịn… của mâm ngũ quả đã đi vào lòng người một cách lặng lẽ và trang nghiêm. Mâm ngũ quả tạo nên một ấn rừng êm đềm, hạnh phúc. Đó là một phần của hình ảnh gia đình được lặp đi lặp lại nhiều lần và gắn liền vào tiềm thức ta. Ngũ quả là cây đời cây thiện, cây mỹ… là tâm hồn của quê hương.

TRANH TẾT
"Vui từ trong ngõ vui ra
Vui từ ngã bảy, ngã ba vui về"

Tết Nguyên Đán của chúng ta là vậy. Những ngày 1 Tết, mọi người ngập tràn hạnh phúc ít nhất phải có bánh chưng xanh, dưa hành, thịt mỡ, rượu, mứt, bánh v.v… Nhưng cũng phải có vui chơi, ca hát, thăm hỏi, tìm hiểu nhau…và cũng không thể không có tranh Tết. Tranh lết là điều khiến cả nam, phụ, lão, ấu đều bồi hồi, bâng khuâng, thao thức chờ đợi, phải đi mua tranh và ngắm tranh. Nó là một vị trong đĩa mứt ngũ vị của Tết. Xưa kia, cứ mỗi lần Tết đến, nhà thơ Quang Dũng nhất thiết phải đi lùng cho kỳ được một ông phỗng bằng giấy bồi, rồi mới yên trí là mình có Tết. Tết là bông hoa của mùa xuân, tượng trưng cho sự phồn vinh. Vinh là vinh quang cho cộng đồng. Phồn là phồn của cải, phồn âm dương, phồn nam nữ. Khuôn mặt Tết thật muôn vẻ, hội tụ, tập trung tất cả những điều tất yếu nhất trong cuộc sống: ẩm thực, thời trang, thư giãn, thú vui, tâm linh, thưởng thức, du ngoạn… để động viên con người cố gắng sống sao cho tốt đẹp trong cuộc đời phù du đầy sóng gió. Cây dừa trong bức tranh “Hứng dừa” tượng trưng cho cây vũ trụ. Hai nhân vật chính là chàng và nàng gợi nhắc đến âm và dương. Chàng ở trần, đóng khố. Nàng chỉ mặc chiếc yếm phong phanh và chiếc váy ngắn. Chàng ném dừa xuống, nàng tốc váy lên hăm hở hứng lấy quả dừa nên hớ hênh và ngứa mắt, khiến cho một anh chàng đứng cạnh nhìn trộm sự xuất hiện kỳ diệu. Hai quả dừa còn có ẩn ý là hai núm vú. Ngày xưa, ở làng quê thường chế giễu:
"Con gái chơi với con giai
Ngày sau đôi vú bằng hai sọ dừa”

Bức tranh lại còn có thêm những dòng chú thích:
"Trai làng đã ở trên cao
Nào đâu các ả ra đây hứng dừa
Này anh đồ tinh, anh đồ say
Đang cơn gió cả, leo cây hái dừa
Có nàng sao khéo hững hở
Bỏ dừa dưới đất, hứng dừa trên cao".

Tranh "ngũ hổ". Hổ là con vật thần linh, được thờ ở các đền, đình, miếu và ở nhiều gia đình. Người ta kính con hổ nên còn gọi hổ là ông Ba mươi, ngài cọp. Hổ canh giữ những chốn linh thiêng. Hổ trấn tà ma. Bức tranh thờ có vẽ ngũ hổ rất oai nghiêm, le lói những đường nét màu vàng kim. Bốn hổ đại diện cho 4 phương. Năm hổ đại diện cho kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Nghĩa xa xôi, hổ thuộc nam tính, là dũng cảm là quyết đấu, là sức mạnh và sự nhanh nhẹn tháo vát, là chàng lực điền, chàng trai lý tưởng của các cô thôn nữ. Ngoài ra, hổ yêu rất mãnh liệt. Đến mùa giao phối, hổ đực và hổ cái lúc nào cũng ở bên nhau, chạy thi với nhau, trêu đùa, tròng ghẹo, vật nhau, vờn, rỡn… nhau làm náo động cả một góc rừng. Nhưng hổ ghen cũng ghê gớm, không kém phần dữ dội. Người đàn bà cả ghen được gọi là con hổ cái. Tinh hoàn của hổ dùng để chế thuốc kích dương, đắt hơn vàng nhiều lần và rất có hiệu quả.
Tranh "Gà đàn và gà thư hùng" nói lên sự mầu mỡ và thịnh vượng. Ở bức tranh tả "gà đàn" mẹ gà còn trẻ, ngậm mồi. Nàng gà béo ra cả ngoài lông, lườn sệ xuống, múp míp, tốt nái, no đủ thóc gạo và tình yêu nàng rất vui, nhìn đàn con đang đùa nghịch bức tranh gà "thư hùng" có chú thích ở dưới: "Đông con nhiêu cháu Giống cánh, giống lông No dủ vợ chồng Có đầu có mỏ…
Tranh "Táo quân" vẽ hai ông, một bà. Họ ngồi với nhau tràn đầy hạnh phúc. Vua bếp tượng trưng cho sự no đủ. Phía dưới có ba bàn thờ. Mâm giữa có ba chén rượu. Mâm phải có con cá chép. Mâm trái có ngũ quả hai bên là mấy tiểu đồng đứng hầu. Ta hãy xem bức tranh "Lợn đàn". Con lợn cái tròn đầy. Chỉ cần có cái dấu âm dương vào con lợn là có được ngay sự “phồn”. Có đực, có cái là đẻ ra con đàn cháu đống, đời nọ đời kia và trở nên một hình tượng vĩnh cửu, phồn vinh.
Ở tranh "Trạng chuột vinh quy", chú rể đã đạt được cả hai niềm mơ ước giống với con người là đạt được “tiểu đăng khoa”: lấy vợ và cả "đại đăng khoa” là đỗ trạng nguyên. Như vậy là chàng trai có đủ cả tình yêu lẫn sự nghiệp là điều ai cũng cầu mong.
Tranh "Đánh vật” miêu tả ba đôi vật và hai đô vật ngồi nghỉ, đợi dịp ra tay. Các đô vật người nào người nấy đều xương đồng, giò sắt, lừng lững, vú sệ, rốn để thỗn thện. Họ là những "người hùng", nhanh trí và có những miếng "tuyệt chiêu" khi cần thiết. Trên mình họ chỉ có một manh khố. Đây gần như bức tranh “nuy” của nam phái. Vì vậy, nó được yêu mến một cách âm thầm, lâu dài và âm ỉ.
Tranh "Cá chép bên sen" cũng rất đặc biệt. Cá chép tượng trưng cho sự chúc mừng, tuổi thọ và sự thăng hoa biến thành rồng. Nó bơi dưới nước, lại có những chuyến đi lên trời rồi lại xuống đất. Đó là sự vận chuyển vũ trụ. Cá chép tượng trưng cho sự phồn thực sự giao hợp của cá chép đực với cá chép cái diễn ra thường xuyên như cơm ăn, nước uống. Còn bông sen bên cạnh cá chép tượng trưng cho nước, đất, mặt trăng của nền văn minh lúa nước, cũng là sự phồn sinh nở hoa.
Ta lại xem tranh "Đánh ghen ”. Ở đây người vợ cả giơ cao chiếc kéo, định tấn công cô vợ lẽ. Người vợ lẽ mặc chiếc váy và hoàn toàn để chống phần trên của cơ thể ả lại được chồng bênh. Anh chồng này cũng quá quắt bảo vệ người vợ lẽ và giữ lấy bầu vú trái của ả một cách lỗ mãng và trần tục. Bức tranh lại chú thích:
 "Măng non nấu với gà đồng
Thử chơi một trận xem chồng về ai?".

Còn nhiều những bức tranh Tết nữa. Những bức tranh Tết của ta không chỉ đẹp về màu sắc, đằm thắm về nội dung mà chúng còn nói lên nhiều điều sâu kín có tính triết học, được gạn lọc qua nhiều thế hệ. Chúng nhấn mạnh đến sự hoà hợp âm dương, trung thực mà nhiều hàm ý. Chúng nói ít mà đầy tính hàm súc. Chúng nói đến thiên tính và nhân tính. Chúng là những bài quan họ, những bài thơ của Hồ Xuân Hương, những lời hát ru lắng đọng chất chứa trong tâm hồn và tâm linh con người Việt nam. Chính vì vậy, tranh Tết Việt nam đã và sẽ luôn luôn là những nét đẹp và nét thẩm mĩ lung linh trong kho tàng văn hoá Việt nam và góp phần tô điểm cho vườn hoa văn hoá của thế giới.

CÁNH ĐU MÙA XUÂN
Trong những ngày Tết, xuân của Việt nam, ngoài việc phải chôn một cây nêu cao vút, cắm những lá cờ lưỡi hổ ngũ sắc ra, bao giờ người ta cũng dành một khoảnh đất có cỏ ở bên sân đình hoặc sân chùa, miếu làm bãi đu.
Cây đu ngày xuân gắn liền với sự phồn thực (fécondité), sự giao hoan. Nó tượng trưng cho sự bắt đầu mới mẻ, sự nảy nở ra cái mới, tình yêu. Dựng cây đu trên bãi đu là cả một công trình của các chàng trai. Họ phải đi chọn tre, đẵn tre, đào hố, chôn cột đu v.v… bắc qua hai cột đu vững chắc là một cây tre đực, thẳng. Cả một hệ thống ròng rọc bằng gỗ, những con sỏ, những dây tre cuốn sẵn buộc chặt lấy bộ phận khớp đu. Từ đây, buông dài xuống gần mặt đất là hai thanh tre dài, dẻo mà rắn chắc, ngay thẳng. Hai tay tre đặc biệt này được gọi là tay đu. Phía dưới của hai tay đu được nối liền với nhau qua một chiếc bàn gỗ gọi là bàn đu, là nơi để người đánh đu đứng lên.
Khi đánh đu, nếu là một người thì chỉ việc đứng lên bàn, hai tay nắm lấy hai tay đu rồi nhún cho đu bay. Nếu đánh đu kiểu một nam một nữ thì 4 bàn chân của hai người đều đứng lên bàn đu kiểu so le. Hai tay của cô gái nắm chặt vào hai tay đu. Hai tay người con trai cũng bám vào tay đu nhưng ở vị trí cao hơn hoặc thấp hơn một chút. Hai người giáp mặt nhau. Tư thế này là tư thế vòng tay xiết. Khi bắt đầu đu, họ thường đu là là trước rồi mới lấy đà bay cao lên dần dần để cây đu đưa người lên trời. Đu bay lên rồi lại hạ xuống, rồi lại bay vútlên không ngừng, tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ, của trời đất, âm dương. Người trên đu làm ra gió và gió giao hoà với mặt đất màu mỡ. Đu là chiếc thuyền vũ trụ. Trai thôn trên, gái xóm dưới và các bạn bè ở xã khác đến, rủ nhau ra bãi đu. Đu để trống thì cứ đứng vào mà nhún. Nếu đã có người đu rồi, người đến sau phải đỡ đu, nghĩa là lựa lúc đu gần xuống mặt đất mà giữ đu đứng lại. Người trên đu sẽ nhường cho người đến sau thay phiên. Có khi không giữ lại được thì phải chờ: người thì lên đánh, kẻ ngồi trông… Dù thế nào, mọi người đều vui vẻ. Người đứng đu, muốn thôi đu sẽ giảm tốc độ lại, đu thấp xuống, quặp chân vào dây đu ra hiệu để cho người khác ra giữ đu lại mà "lên ngôi".
Những đôi nam, nữ yêu nhau vào đu. Cũng có những đôi mới được mọi người ghép vào thành cặp. Họ trình diễn những màn đu đôi thật đẹp mà đặc sắc. Họ đứng chắc chân lên bàn đu, trai gái nhìn vào nhau, cùng cầm chắc tay đu. Trước hết, họ đưa cánh đu là là để chào mọi người xung quanh như kiểu múa tế tổ trước khi vào keo vật của hai đấu thủ trên sởi vật. Sau đó, họ mới đu lên cao, bay bổng. Rồi mỗi lúc một cao hơn. Chàng trai vươn người lên đu bổng. Cô gá ưỡn hẳn mình ra, nhún đu. Họ bay lên, bay xuống nhịp nhàng rồi thỉnh thoảng lại vút lên thật cao. Đó là những lúc thăng hoa. Thăng hoa lòng người. Thăng hoa cả đất trời. Họ say sưa, đưa tất cả sức lực ra mà nhún đu. Họ chẳng nói gì với nhau. Nhưng họ tươi cười nhìn nhau, ngầm chúc nhau những điều tốt lành đầu xuân. Chàng trai cứ đăm đắm nhìn, dịu dàng mà say đắm như cố để nắm bắt chút ít bí mật sâu thẳm nơi người con gái. Cô gái mỉm cười, hơi có một chút e ấp Họ nghe thấy nhịp thở của nhau có mùi thơm hoà hợp với mùi thơm của mùa xuân. Họ ngửi thấy hơi nhau. Họ gần như thuộc về nhau. Những giờ phút này bằng một trăm năm. Và cứ thế:
"Trai đừ gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòn"…

Đánh đu đôi là cả một bức tranh siêu tuyệt. Bối cảnh là mùa xuân hoa lá. Những con người ở bãi đu có những bộ mặt sáng ngời. Họ ăn mặc đẹp. Chàng trai đánh đu thì mặt vuông chữ điền, chít khăn nhiễu, áo xa đen, quần trúc bâu trắng. Cô gái có tà áo đỏ, xanh, giải thắt lưng hồng đào phơ phất. Áo cánh trắng bên trong làm nổi chiếc yếm thắm, quần lĩnh đen bóng… đó là cái cảnh mà Hồ Xuân Hương tả rất khéo: "Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song"… Họ vẫn còn cố gắng nhún, nhún nữa, rất táo bạo. Những động tác nhún đu lúc này là những cái nhún của mùa xuân. Mùa xuân là bàn đạp cho cả năm cất cánh. Những trai gái đánh đu ở vào trạng thái hưng phấn cao thì đã đành. Những người xem, thưởng thức ở bãi đu cũng reo lên ầm ĩ, trầm trồ, cười, nói, bình luận trong âm thanh. những tiếng trống liên hồi. Nơi đây, những chàng trai được coi là những người hùng, những cô gái được coi như những hoa hậu.
Trong mấy ngày Tết, bãi đu là không thể thiếu được. Đánh đu hoặc chơi đu còn là một trò chơi thượng võ, trò chơi "mạnh". Trẻ, già, trai, gái đều bị cuốn hút vào bãi đu một cách mãnh liệt. Nhưng chủ yếu là với những nam, nữ còn trẻ. Người ta nói khẽ với nhau: "Chơi xuân đã biết mùi xuân chửa"… Có nơi còn tổ chức thi đu. Các bậc đàn anh thành thạo về nghệ thuật đu căn cứ vào trình độ đu đẹp, nhún nhịp nhàng, đánh bổng v.v… của các cặp đu mà so sánh rồi trao giải thưởng. Người ta còn đánh giá dáng vóc, cách ăn mặc của cặp đu. Khi đu, phải giữ được nét mặt tươi tỉnh, ăn ý với nhau, tự nhiên. Động tác phải nhịp nhàng. Nụ cười phải đằm thắm, duyên dáng. Tức là phải nam thanh nữ tú. Phần thưởng là danh dự, nhưng cũng có vài vuông vải điều, mấy gói chè thơm và một chút tiền. Những giây phút đu lên tận trời sẽ không bao giờ có thể quên được. Chúng làm cho nhiều người còn nhớ mãi. Có những người đi xa, khi trở về quê nhà thường tìm thăm lại bãi đu xưa để bâng khuâng, bồi hồi nhớ lại những cánh đu chơi vơi, những hoài niệm…

NGÀY RẰM THÁNG GIÊNG
Ở thời mẫu hệ, mặt trăng được coi trọng hơn mặt trời. Mặt trăng là mẹ dịu hiền, là tất cả. Đến thời phụ hệ thì mặt trăng xuống hàng thứ hai. Hàng đầu là mặt trời tượng trưng cho người cha, cho vương quyền. Nhưng người ta vẫn gắn bó nhiều với mặt trăng. Ban ngày nóng nực, phải kiếm ăn quá vất vả, người ta chỉ có ít thì giờ nghỉ ngơi, họp mặt nhau, vui vẻ với nhau để sáng tạo ra những chuyện kể, những trò chơi, hát hò… Người ta sáng tạo ra chị Hằng, chú Cuội Nhưng, những điều ấy thường chỉ thực hiện được trong những đêm trăng sáng, nhất là trong những ngày rằm, có vành trăng tròn đầy. Gọi là trăng buổi dậy thì. Những đêm rằm, trăng sáng vằng vặc đối với mọi người là cả một hạnh phúc lớn. Người ta ca ngợi đêm rằm, vui buồn cùng ngắm trăng, tâm sự với trăng… do đó, trăng nhuốm mầu thiêng liêng.
Ngày rằm tháng giêng là ngày rằm đầu tiên của một năm. Sau này, ngày rằm được gắn vào với các ý niệm tôn giáo người ta cho ngày rằm là ngày hệ trọng. Đó là ngày Ngọc Hoàng thượng đế cho triệu tập tất cả các thế lực quyền uy bất tử ở trên trời và ở dưới đất lại để xét duyệt các đơn từ (sớ tấu) nguyện vọng cầu xin của người trần mắt thịt trong cả một năm. Đạo giáo cho ngày rằm là ngày thiêng liêng cho sự tu luyện trở thành siêu nhân. Trong đêm rằm có diễn ra hội quần tiên, hội bàn đào… Phật giáo cho ngày rằm là ngày tốt đẹp ngày cầu bình an, ngày của tấm lòng và sự hài hoà, của điều thiện. Người ta coi ngày rằm là ngày của Bụt, của Thánh. Từ đó, dân gian có câu: "Trăng rằm còn đó trơ trơ”? Hoặc như:
"Hôm nay mười bốn mai rằm.
Ai ai muốn ăn oản thì năng lên chùa"

Thị Mầu trong vở "Quan âm Thị Kính" muốn cho một tháng có "đôi rằm”. Anh chàng quan họ đã tự mình chẻ tre đan nón cho người yêu xem hội đêm rằm. Ở nước ta, đã từ rất lâu, người ta cứ đinh ninh rằng ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong một năm. Ai cũng bảo: “Lễ quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng". Đó là ngày rằm có ý nghĩa thiêng liêng hơn tất cả những ngày rằm trong năm. Nó là tuần trăng đầu tiên trong năm, ở vào lúc mà không khí ngày tết Nguyên đán cổ truyền vẫn còn đằm thắm trong lòng mọi người. Lại đúng vào lúc nông nhàn, trời trong sáng, không rét buốt như những ngày trong năm cũ.
Trong ngày 14 và rằm tháng giêng, tất cả các đình, chùa, đền, miếu đều thắp đèn nến sáng trưng, khói hương mù mịt. Các sư, sãi, ông từ, bà đền đều ăn mặc theo tôn giáo làm lễ, tụng kinh, chạy đàn, rước xách, múa "lục cúng" có kèm âm nhạc và những động tác múa từ xa xưa giàu chất nghệ thuật và biểu diễn. Các con công đệ tử chen lấn nhau đến lễ, mang theo các lễ vật Người khấn vái đứng, kẻ khấn ngồi. Cái quan trọng nhất là người nào cũng phải dâng một lá sớ tâu lên Ngọc Hoàng thượng đế và các bậc siêu nhân để “ xin được che chở, giúp đỡ. Lá sớ là do các ông thầy cúng hay chữ viết cho. Người ta đón ngày rằm từ trước đó mấy ngày.
Ngày 14 tháng giêng là tưng bừng nhất. Ngày 14, người ta tắm rửa sạch sẽ gọi là rũ bụi, mặc các bộ quần áo mới hoặc sạch sẽ nhất. Đặc biệt là ở Hà Bắc, các bà các chị ăn mặc cầu kỳ và đủ lệ bộ. Ngoài bộ quần áo mớ ba, mớ bảy nhiều mầu sắc ra, còn đeo dây lưng có xà tích, ống vôi quả đào…Nhiều nhà không ăn mặn mà ăn chay. Nhiều người kiêng khem cả chuyện chăn gối. Đêm 14 náo nức tựa như đêm réveilion của đạo Thiên chúa. Họ đi lễ tại các đình, chùa, miếu trong hai đêm 14 và 15. Họ đệ sớ lên xin với Ngọc Hoàng thượng đế, đức Phật, vua Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu, các Mẫu, các vị Thánh v.v…
Các lá sớ được viết từ hôm trước. Người đi lễ dâng sớ trình bày nguyện vọng, mong muốn của mình trong suốt một năm. Thường chỉ xin một, hai điều chính yếu, ví dụ như xin được buôn may bán đắt được làm nhà, có con trai v.v… Đồng thời trong sớ cũng kèm theo một và điều sám hối của mình. Những điều này được giữ bí mật tuyệt đối. Nghĩa là chỉ có đương sự và ông thầy cúng viết sớ biết mà thôi. Chẳng hạn như đương sự đã phạm phải một vài hành động độc ác hoặc không công bằng gì đó như đương sự đuổi nàng dâu ra khỏi nhà đối xử tàn tệ với bạn… những điều này, ngay cả chồng hoặc con đương sự cũng không được biết. Lại có một số điều bí mật ở mức cao hơn nữa. Chẳng hạn như đương sự đã từng có hành động ngoại tình thì đương sự chỉ khấn sám hối không ra tiếng khi ngồi lễ. Những chuyện như vậy thật là bí mật mà cũng rất là con người. Đương sự đã dám sám hối khi tin vào một sức mạnh truyền kiếp và suy tưởng. Thà là tin vào một cái gì đó dù là mơ hồ, còn hơn là chẳng tin vào cái gì cả. Họ còn tin tưởng và suy nghĩ là đã có được sự chế ngự bản năng, hạn chế được sự gây tác hại cho cộng đồng. Đó là sự khuyến thiện, trừng ác cao cả.
Trong những ngày 14 và rằm, mọi người có được một không gian thiêng và thời gian thiêng. Mọi người đều có tấm lòng rộng mở, hướng về các bậc bề trên linh thiêng, những con người siêu phàm. Trong đó có cả các vị anh hùng có công với đất nước. Không gian thì hoành tráng, nguy nga những đền, đài, chùa, đình tráng lệ, có tiếng chuông tiếng mõ, hương khói ngạt ngào. Mọi người thấy như thế giới đang khôi phục lại sự tươi mát thủa ban sơ. Tất cả mọi sự vật diễn ra hàng ngày bị mờ nhạt. Bỗng có những giây phút được sáng ngời lên như buổi mới được sinh ra. Người ta kính mến bà Trưng, bà Triệu, lại thương Thị Kính, coi vết thương của Thị Kính như thể là vết thương của người đàn bà có thật bị hành hạ. Người ta thêu dệt sự khổ đau và cao cả của một người đàn bà, cầu mong cho người ấy bất tử. Người ta không bất tử, nhưng người ta mong muốn được phục vụ cho cái bất tử. Người ta đi lễ, xem rước, nghe nhạc lễ, xem múa lễ… sẽ thấy thanh thản, sung sướng. Họ thấy đứa trẻtrong họ được sống lại như có phép cải tử hoàn sinh… Không phải ngẫu nhiên, tập tục coi ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong một năm, coi lễ quanh năm không bằng rằm tháng giêng lại vẫn giữ được nét trang trọng truyền thống lâu dài trong văn hoá Việt nam như vậy. Nó tồn tại với tinh thần cao cả và với vẻ đẹp đến thiêng liêng ăn sâu vào lòng mỗi người dân Việt nam.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


MÙA CỐM, MÙA HỒNG
Bông lúa nặng trĩu xuống vì những giọt sữa nặng tình bên trong đã đông lại như thể trái cây vừa chín, chuẩn bị cho sự sinh nở. Đến giờ phút thích hợp nhất người ta gặt lúa về, tẽ hạt rang, giã, hồ rồi tãi cốm lên những tầu lá sen thơm ngào ngạt… Cả quá trình từ lúc tẽ hạt đến thành phầm chỉ gói gọn trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ khẩn trương và hồi hộp, không thể ngắn hơn, cũng không thể kéo dài. Để đạt được kết quả mong muốn thì một loạt thủ thuật cổ truyền phải được nâng niu đến mức nghệ thuật.
Chẳng thế mà chỉ có làng Vòng (Mai Dịch) (cách Hà Nội 5 cây sô) là có cốm ngon và đặc sắc nhất. Cốm Vòng đã từng là quà quý tiến vua ở các triều đại xưa. Quả thật, chưa có loại cốm nào địch được nó, ít nhất là trong vòng 100 năm trở lại đây.
Cốm Lủ, cốm Mễ Trì còn kém xa cốm Vòng. Cốm thượng đẳng là cốm sáng nhạt, mềm, ngọt mát, thơm, đều hạt, màu cẩm thạch, có dư vị khôn nguôi. Loại hai là "Cốm dót"có thuỷ phần cao hơn, nhẽo hơn. Cốm Vòng là món quà vương giả, sang trọng mà cũng rất bình dân như hoa cỏ. Cốm phải được đặt lên trên tàu lá sen gợn phấn, có mùi vị hương đồng gió nội chứ không để vào đĩa Giang Tây hoặc Bát Tràng. Hương thơm và màu sắc của cốm và lá sen ăn ý với nhau. Người thưởng thức sành không ăn kèm với bất cứ một thứ gì khác. Vì như thế là thực bất tri kỳ vị, là phụ lòng cốm.
Tuy vậy, cũng có nhiều người ăn cốm Vòng với những quả hồng chín đỏ có màu hổ phách hoặc ăn với chuối tiêu trứng cuốc. Cốm Vòng còn làm nguyên liệu chính cho một loạt món ăn ngon trong danh mục ẩm thực nổi tiếng của Việt nam: Cốm xào, bánh cốm, chè cốm, chả cốm, cốm nén, vịt hầm cốm với hạt sen và nấm hương, cốm với thịt và mộc nhĩ nhồi chim ngói, kem cốm v.v… Chè cốm là một loại chè ngọt trong muốt, hạt cốm nở ra xanh biếc như những đoá hoa. Chúng lơ lửng trong cái khối nước ngọt sóng sánh, ở dạng huyền phù chứ không lắng xuống đáy bát. Chè cốm ngọt mát, thơm, đòi hỏi một chút nước hoa bưởi. Nó đủ sức để đánh đổ tất cả các loại chè khác. Người ta gọi chè cốm là chè "giai nhân". Cốm Vòng được đưa ra phố phường bán không cần phải rao. Đó là những cô gái làng Vòng quẩy hai thúng cốm. Trên cái mẹt có vài xếp lá sen. Trước quang gánh có buộc một ít lạt rơm xanh sáng để buộc các gói cốm. Chiếc đòn gánh trên vai cô gái có một đầu cong vút lên như ở các mái đình chùa… Các cô đi nhẹ nhàng, tung tẩy khắp nơi. Ai muốn mua, chỉ việc gọi: "Cô hàng cốm Vòng ơi…!"
Cốm ra đời vào lúc thu vàng, khi ngọn gió se lại. Nó đi đôi với những quả hồng có màu đỏ nao nao. Màu xanh của cốm cùng với màu đỏ của hồng đã tạo ra một bức tranh hài hoà. Cũng như hương sắc và các vị của chúng đã tạo ra những vần thơ. Hoặc chí ít, nó cũng mang lại cho nhiều người suy tư man mác đầy hưng phấn nghệ thuật. Cùng với mùa thu xao xuyến, cốm và hồng mang lại nỗi phấp phỏng cho biết bao chàng trai. Họ tính đến việc mang cốm và hồng đến nhà cô gái để được gắn bó với nhau một đời:
"Người ơi! Biết có được không?
Để mẹ mua cốm, mua hồng sang xin"…
 
Người ta nói chanh cốm để chỉ quả chanh vừa đúng lúc nó bắt đầu cho ta cái vị chua, tươi mát, ngon lành nhưng hơi "gắt" một cách kiêu kỳ. Cũng có cái ẩn dụ chỉ người con gái đang ở thì "ngon" như cốm.
Cốm là nét đẹp văn hoá đời đời. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang đến nhà gái một khay khảm có chân quỳ trên khay là hai gói cốm bọc lá sen và 12 quả hồng đỏ. Tiếp đó là 100 chiếc bánh cốm vuông vắn có buộc lạt đỏ. Chú rể tương lai đội khăn đóng, mặc áo trong đoạn (đoạn là một loại vải mịn, đẹp, bóng), cô dâu tương lai mặc áo dài, chít khăn vành dây… Sau những lời nói tất đẹp, thà gái biếu tất cả những người có mặt trong buổi vui, mỗi người một chiếc bánh cốm. Một người nước ngoài, sau khi dự lễ ăn hỏi đã xúc động nói: “Cốm là một vật thiêng liêng, vừa có sức mạnh vật chất, vừa có sức mạnh tinh thần. Cốm cũng là tình yêu"…

CÚNG CHÁO Ở XÓM AO NGANG
Năm ấy, dân làng cảm thấy nao núng. Làng Giấy có nhiều nhà sản xuất đóng cửa. Những người tứ chiếng đến làm thuê, ít việc cứ nhởn nhơ, lúc xóm này, lúc xóm khác. Tiếng chày giã bột giấy thưa thớt. Chỉ những người làm thuê thuộc loại giỏi mới tạm đủ việc làm. Trời lại sắp vào hè, ôn dịch hoành hành… Nhưng ở xóm Ao Ngang, mấy ngày hôm nay nhộn nhịp hẳn lên. Dường như người ta bỏ qua tất cả mọi việc sắp xảy đến mà chỉ nghe ngóng theo dõi ngày rằm tháng năm sẽ có lễ “cầu mát” mà nội dung chính của nó là "cúng cháo lá đa”.
Trước ngày lễ một ngày, ông đĩ Yên, một chân ngắn một chân dài lễ mễ xách cái thúng đi khuyên giáo. Ông đi khắp mọi xóm quyên tiền, các thứ quà bánh và khoai, gạo, ngô, giấy bản, hương, nến. Nhiều gia đình tỏ ra kính trọng đặc biệt, mời ông ở lại uống nước và hỏi han mọi chuyện. Chuyện gì ông cũng biết. Trước đây ông thuộc lớp người phong lưu mã thượng, nhà ngói cây mít, nhưng vì bệnh tật và ăn chơi quá trớn nên giờ phải ra ở túp lều bên cạnh cầu Ao Ngang. Nhân thể, ông trông nom cầu và thắp đèn nhang.
Cầu là một gian nhà khá rộng, có mái cong. Chính giữa có một bệ nhỏ cao chon von đặt bài vị thần, bát hương, bộ đỉnh nến bằng gỗ sơn son thếp vàng. Dưới là một bệ rộng đủ cho chừng hai, ba chục người ngồi nghỉ ngơi, tán chuyện ngẫu. Họ bàn luận say sưa về kẻ hay người dở, những sự việc rắc rối hoặc tốt lành rất thời sự Giữa bệ, ông đĩ Yên đặt một cái chõng tre, vài cái ghế dài bằng một thân cây nhỏ trên hai khúc gỗ bắt chéo. Mấy cái bát đàn để uống nước, một gói kẹo bột, mấy tấm mía, vài gói thuốc lào, bánh chưng, hoa quả… Hễ ai nhắc đến cái thân phận xưa kia của ông đĩ Yên để so sánh với hoàn cảnh hiện giờ ông phải ở cầu ở quán, ông chỉ cười và nói: "Ở cầu gió bông lau càng mát. Miệng à ơi, tay sát ghé tàu…"
Trưa ngày mười lăm, lúc gần 12 giờ, rất nhiều người tụ tập ở cầu lớn có bé có, người lớn đứng hơi xa một chút. Mọi người im lặng lúc bác khán Mão và ông hương chàng mặc áo the, chít khăn xếp, thắt lưng bó que ngồi lên bệ. Nhạc cụ trước mặt gồm: mõ, chuông, song loan. Bên trái và bên phải các ông là hai chiếc nia lớn rải đầy những đồ cúng đủ thứ: khoai lang, bánh đa, bỏng gạo, bánh mật, oản, bánh khảo, xôi nắm, chuối, ổi, kẹo vừng, kẹo bột… Giữa mỗi nia có một khúc thân chuối để cắm hương. Bác khán Mão tung vào mỗi nia một nắm lá đa xanh làm cho nia quà trở nên mát mẻ. Thằng cu Thư rỗ đưa đến cho ông một chiếc đàn nguyệt cổ lỗ sĩ và gói vải đỏ bọc tiu, cảnh… Người được công chúng để ý nhất là bác khán Mão có giọng lên bổng xuống trầm, vừa hát vừa điều khiển nhạc gõ. Có lúc bác chỉ dùng chiếc đũa gõ lên miệng bát chiết yêu đệm cho hát mà cũng rất hay, sôi nổi đến nỗi ai nghe một lần sẽ nhớ mãi.
Ông hương chàng cao tuổi là người cầm chích mọi thủ tục, lễ tiết. Ông luôn đeo mục kỉnh giở tập sách chữ Hán dầy cộm rồi lầm rầm những điều gì không ai biết. Thỉnh thoảng ông dạo vài nét đàn nguyệt nghe như tiếng mưa rơi. Hai con người quan trọng này thay nhau, bổ sung cho nhau hát cúng cháo. Họ hát lên gần đủ 184 câu bi hùng trong bài văn tế thập loại chúng sinh. Bác khán Mão say sưa: "Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt" Toát hơi mây, lạnh ngắt xương khô Ngàn lau khóm bạc, lá ngô dòng vàng"… Thế là những tiếng hát với cái giọng đùng đục, vừa như kể lể, vừa như mong mỏi khẩn cầu mà lại như kêu gọi ấy lấy lại ngay được sự im lặng và trật tự của đám đông nhốn nháo la hét. Thật vậy, ngay cả bọn trẻ con tinh nghịch, hiếu động là vậy mà cũng im thin thít, há mồm nghe… Bài hát cất lên, ê a… dịu ngọt, tha thiết, thương cảm đã dựng lên cả một thế giới bi thảm của kiếp người.
"Thở than dưới đất, ăn nằm trong sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn.
Lặn mặt trời, lân thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ, dắt già
…"
Cái thế giới cô hồn ấy là hình ảnh của sự bất trắc, những oan uổng chồng chất trong cuộc đời thực. Có hàng chục loại cô hồn, là chúng sinh đáng thương. Như những người đi lính ngày xưa: Trong chiến trận, coi người như rác. Bãi sa tràng, thịt nát xương tan". Những người đàn bà xấu số, những trẻ con chết oan:
"Liều tuổi xanh, buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già…
Kia những đứa hài nhi tấm bé
Lỗi giở sinh, lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng…
"
Bác khán Mão gần như run lên khi kể về những mảnh đời đói rách vật lộn với miếng ăn manh áo mà không xong.
"Sống đã chịu một bề thảm thiết.
Ruột héo khô, da rét căm căm.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chai rạn đôi vai…
Cũng có kẻ nằm cầu, gối đất
Rọi tháng ngày, hành khất ngược xuôi…"

Công chúng bùi ngùi trước những cảnh ngộ do những câu hát và những tiếng tiu cảnh, đàn vẽ ra. Vì đó là những cảnh ngộ của chính họ, của những người thân thiết như ông bà, cô, cậu, anh em của họ. Đám đông nhốn nháo hẳn lên khi bác khán Mão đọc đến câu:
"Ai đến đây, dưới trên ngôi lại
Của làm duyên, chờ ngại ít nhiều…"

Ai cũng biết là lúc này mọi thủ tục cúng lễ đã xong, đến giờ tháo khoán. Bọn trẻ con xô vào cướp bánh kẹo. Có đứa đút hai ba thứ vào túi rồi lại xông ra cướp thêm. Nồi cháo đã được hai người khiêng ra, đặt ngang cạnh chiếc cột gạch. Cậu Tân cầm cái gáo dừa, khoắng nồi cháo rồi đong thật nhanh vào mấy chục chiếc bát sành. Cậu cũng cố tình vung vãi ra những chiếc lá đa để xung quanh những chồng bát xếp ngổn ngang, không hàng lối gì cả. Bọn trẻ con bưng lấy những bát cháo. Chúng húp từ từ khi cháo còn nóng. Đến khi cháo bớt nóng chúng húp soạn soạt, trông thật ngon lành. Có cả những bà già, cô gái… ra xem cảnh tưng bừng nhộn nhịp, nghe đọc văn cúng cháo, cũng "cướp" một chút ít quà để lấy “khước” cho vui. Tất cả mọi người vừa hò reo, vừa ăn, vừa nói chuyện hể hả. Cho đến khi hai chia quà và nồi cháo đã sạch không, mọi người mới dần dà kéo nhau về trong tiếng reo hò, chuyện trò, cười nói râm ran. Thu dọn chiến trường" là ông đĩ Yên người giữ cầu Ao Ngang. Người ta cảm phục cái tài năng của bác khán Mão. Có những đoạn bác hát “bốc” như đang trong cơn say rượu, đây ngẫu hứng dào dạt. Đó là những tiếng hát tạo nên những ấn tượng đi vào kỷ niệm của nhiều đời người, nhiều năm tháng. Đó là những câu thơ thế sự. Những người.được dự những buổi lễ cúng cháo như thế này luôn luôn nhớ mãi một nghi lễ vừa sâu xa, vừa rất đời thực. Chất “Liêu trai" bất chấp thời gian vẫn tồn tại trong bài "Văn tế thập loại chúng sinh qua hiệu quả biểu diễn đã được thăng hoa lên thành tình thần đồng loại khiến mỗi người xích lại gần nhau, thương yêu nhau. Chúng ta hãy cùng nhau cứu lấy cuộc đời, không tham lam, không chạy theo danh vọng, không tranh giành, không chiến tranh… Đó là một bài ca bất tử.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


TẾT TRUNG THU Ở HÀ NỘI

Từ rất xa xưa đã có tục lệ, mùa xuân tế mặt trời, mùa thu tế mặt trăng. Tế xong, mọi người cùng thưởng thức bánh dưới trăng. Phong tục này cứ kéo dài. Ngày 15 là ngày giữa tháng tám, cũng là giữa mùa thu. Đó là ngày trăng tròn nhất trong cả năm. Trăng tròn tượng trưng cho hạnh phúc tròn đầy, sự vuông tròn của ước mong. Là sự đoàn viên của các thành viên trong gia đình cũng như họ hàng và cộng đồng. Với trẻ em, được tung tăng chơi và ăn bánh, hoa quả dưới bầu trời có trăng sáng là một điều thú vị và say sưa lắm. Chúng thường nghêu ngao:
"Ánh trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có chú cuội già
Ôm một mối mơ…"

Với người lớn, người ta nhìn lên mặt trăng sang mát cảm thấy thanh thản như mình trẻ lại. Có khi họ nghĩ đến những kỷ niệm xưa, người xưa: trăng thề nhớ buổi hoa viên; vầng trăng ai xẻ làm đôi, ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ quê hương, trông trăng lại nhớ đến người đêm trăng, nhìn trăng đang hát điệu vong tình; Thái Bạch ôm trăng lạnh; thuyền trăng Phạm Lãi luyến Tây Thi… Trăng là đề tài muôn thuở và chứa đựng biết bao nhiêu huyền thoại… Dần dà, người ta không tế trăng nữa mà bày cỗ và chơi dưới trăng. Xung quanh mâm cỗ, chủ yếu là trẻ con rồi đến các thành viên khác trong gia đình và khách. Các trẻ em đi rước đèn ngoài phố quê xóm ngõ, cánh đồng ven đô. Chúng tụ tập chừng 10 đến 20 cm, mỗi em mang một chiếc đèn thắp bằng nến. Đèn con thỏ, đèn ông sao, đèn xếp, đèn nổi, đèn lồng, đèn con cóc các em lớn hơn một chút đi đầu múa sư tử. Chúng vừa đi vừa hát, có khi đứng vòng lại với nhau rồi múa. Sau khi trước đèn, chúng về nhà phá cỗ. Chúng cùng ăn bánh dẻo, bánh nướng với mọi người và còn được chia thêm các hoa quả như hồng, na, chuối, bưởi, cam, ổi và các loại bánh bằng bột nướng hoặc rán mang hình các con vật thân thuộc như tôm, cá, thỏ, lợn, hươu… Mâm Cỗ được thắp sáng bằng nến, ở giữa có bày tượng một ông tiến sĩ giấy ngồi bảnh choẹ, có cờ có biển. Hình ảnh này tượng trưng cho sự hiếu học, lòng ham mê khoa cử. Bên cạnh còn được bày những con vật nhỏ xíu được nặn bằng bột và quét màu xanh, đỏ, vàng trông rất xinh và ngộ nghĩnh. Trong mỗi nhà, thường treo ở gian giữa một chiếc đèn kéo quân tạo nên những hình ảnh hoạt động của các nhân vật trong truyện như: ông già úp cá, Thị Mầu lên chùa, Thạch Sanh đốn củi, Lã Bố hí Điêu Thuyền… Những hình ảnh đó cứ diễu quanh nhiều vòng, in bóng vào mặt giấy của đèn, nhanh hay chậm là do ngọn nến ở giữa cháy to hay cháy nhỏ tạo nên gió chuyển nhiều hay ít. Bọn trẻ còn bận bịu và hồi hộp với những đồ chơi Trung thu như: quả đào úp mở theo bánh xe phía dưới chuyển động, tàu thuỷ chạy dưới nước, con thỏ đánh trống, con gà thổi kèn… bằng, sắt tây mấy hôm trước ngày rằm, một số em thiếu nhi hiếu động rủ nhau đi trồng đèn và kể vè. Chúng nắm tay nhau, xếp thành vòng tròn có tầng trên và tầng dưới. Những đứa ở tầng trên đứng lên vai những đứa ở tầng dưới. Một đứa tốt giọng kể vè, những đứa khác xen vào câu "Dô ta" để hưởng ứng. Ví dụ, chúng kể về việc làm ăn: “Tháng tám, bánh đúc ôm chua. Làng ta làm giấy, thua tài làng Đông". Hoặc để chế nhạo: “Con ngựa bạch đeo cái cương sừng Một cô con gái ôm lưng ông già…"
Mỗi năm, cứ đến Tết Trung thu, nơi nào cũng náo nhiệt. Nhưng đặc biệt náo nhiệt là ở mấy phố chính như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Thiếc, Hàng Mã, chợ Đồng xuân và xung quanh hồ  Hoàn Kiếm. Cũng có những đoàn múa sư tử, múa rồng của những người lớn thích chơi, những người mãi võ biểu diễn hoặc múa tranh giải do các nhà từ thiện hoặc các cửa hàng trao uý lạo cho đoàn nào múa đẹp và sôi nổi. Có năm lại xuất hiện một vài đoàn múa sư tử gồm toàn con gái mặc võ phục gọn gàng và dũng mãnh làm nức lòng mọi người. Ở vùng Bưởi, các em còn chơi trồng hoa trồng nụ, bịt mắt bắt dê, nhảy cừu, rồng rắn lên mây… trong những ngày trước và sau rằm tháng tám. Tết Trung thu là Tết truyền thống của nước ta, là Tết của các em thiếu nhi, nhưng người lớn cũng có phần. Nó làm sống lại quãng đời trẻ thơ không bao giờ trở lại của họ.

ĐÈN ĐÊM TRUNG THU
Nói đến rằm tháng tám, người ta nghĩ ngay đến múa sư tứ, phá cỗ, trông trăng. Người ta cũng nghĩ ngay đến những đêm rước đèn, đến những chiếc đèn Trung thu. Trước ngày rằm tháng tám, chuang nửa tháng, ở các chợ lớn, chợ nhỏ đã có bày bán đầu sư tử và những chiếc đèn Trung thu. Những cái đèn được treo từng dây dài, nhiều loại đèn, nhiều màu sắc cứ loá cả mắt. Nhưng tưng bừng nhất là những ngày 12, 13, 14 tháng 8, là những ngày họp mặt đông vui nhất của kẻ bán người mua.
Điểm đông vui nhất là ở phố Hàng Mã, cống chéo Hàng Lược và phố Hàng Thiếc. Có thể nói ở những nơi này, trên là trời dưới là đèn. Những dòng đèn thắp nến lấp lánh cứ chuyển động từ đầu phố đến cuối phố. Rồi ngược lại, dòng đèn cứ vòng vèo, nhấp nháy như những dòng sông trong biển người. Có đủ mọi loại đèn. Loại nào cũng đẹp, phải có những người khéo tay lắm mới làm nên được. Đèn con thuyền thừ (con cóc) thật cồng kềnh, có hai cánh tay dài và cái mồm ngoác ra, trông rất ngộ nghĩnh. Đèn cá chép đốt nến ở đàng đuôi, có bộ râu dài, mở mắt trừng trừng. Lại có đèn con cá đen, đàng sau của nó có thêm mấy con cá con cũng đen… Tại sao vậy? Người làm đèn muốn nhấn mạnh đó là cá chuối. Nó rất mực yêu các con, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh vì đàn con, cá chuối đắm đuối vì con mà…Có em lại thích đèn quả đào đèn thỏ. Đèn thỏ đốt nến ở bụng, con thỏ được gắn liền với một cái khung có bánh xe. Đẩy thỏ đi, hai tay thỏ đập vào chiếc trống trên khung cứ kêu long bong. Nhiều nhất là đèn ông sao có cán dài, có sao 5 cánh và sao 6 cánh. Các em giơ cao đèn ông sao lên hát: "Cái đèn ông sao… 5 cánh tươi màu"? Đèn xếp có thể co giãn được do nhiều lớp giấy xếp lại. Còn có đèn quả dưa, đèn con cò…Đèn lồng trông chững chạc cứ đỏ rực lên cùng với những cánh bướm, cánh phượng bằng giấy trang kim dán xung quanh. Nhưng đẹp nhất, thú vị nhất là cái anh đèn kéo quân, còn gọi là đèn tướng hoặc đèn cù. Đèn có tám cạnh, có loại to, loại nhỏ, nhưng điều đặc biệt là bên trong đèn có đĩa đốt nến. Có một que dọc xuyên từ trên cao, đặt đầu nhọn lên đĩa. Dưới cái que dọc đó toả ra những nan nứa, tết lại thành một vòng tròn. Trên vòng tròn này dán những hình thù kỳ lạ. Ví dụ như hình một ông tướng đánh trận ngày xưa ngồi trên mình ngựa, cầm long đao, tiếp sau là những ông tướng khác và các quân lính, có khi lại là những hình ông sư gõ mõ, bà vãi tụng kinh, cũng có khi toàn là những con vật đuổi nhau, nào là sư tử, hổ, voi, ngựa… Do người ta đốt nến lên, làm nóng không khí, gây ra gió. Gió đẩy cái vòng có gắn những hình thù kể trên chuyển động vòng tròn. Những hình thù chuyển động trên vòng tròn được in bóng loang loáng lên trên nền giấy trắng mờ như là xem múa rối bóng. Người ta hát về cái đèn cù:
"Đèn ai sáng tỏ cái đêm hôm rằm voi giấy ôi a…
Ngựa giấy, tít mù ôi lại vòng quanh…
Khen ai khéo kết cái đèn cù…"

Đêm rằm tháng tám, các em ăn mặc sang trọng, rủ nhau đi rước đèn. Mỗi em giơ cao một chiếc đèn thắp sáng. Cái em đi thành hàng dài, vừa đi vừa hát theo tiếng trống… Hai bên hàng phố, có những nhà bày mâm cỗ ra ngoài hè, đón mời các em đến phá cỗ… Cái cảnh rước đèn đêm Trung Thu thật rực rỡ, náo nhiệt, hình ảnh mọi người vui vẻ, múa hát sẽ còn in mãi trong trí nhớ tuổi thơ…

ÔNG GIẲNG ÔNG GIĂNG
Không biết tự bao giờ, trăng đã đi vào thơ ca một cách rất tự nhiên, thân thiết và gần gũi với con người. Những cuốn sách, những truyện tình trên đời luôn đầy ánh trăng. Chàng trai Thăng Long xưa nuối tiếc mãi nhà em biết ở đâu đây, hỏi trăng Tô lịch, hỏi mây Tây hồ". Xa xưa nữa, ở nước ta có tục lệ "tế trăng” rồi đổi thành tục lệ thưởng trăng trong đêm rằm tháng tám. Trong cái đêm thiêng liêng ấy, người ta uống rượu ăn bánh dưới vầng trăng. Bọn trẻ thì hát "trống quân", "phường vải", thả diều sáo, múa sư tử. Các em được bày cỗ, phá cỗ, vui chơi thoả thích, nô đùa, nhảy ngựa, chơi bịt mắt bắt dê dưới ánh trăng sáng như gương. Người nông dân nhìn trăng mà biết thời gian và dự báo thời tiết. Họ tính thời gian bằng tuần trăng: “Xa nhau đã mấy tuần trăng lặn”! Nhìn trăng mà sinh tình: Nhìn trăng ta hát điệu vong tình" hoặc: "Nhìn trăng ta hát giọng suông hời…".
Trong thần thoại, đồng dao, ca dao của ta luôn nhắc đến chuyện trên ông trăng có chị Hằng Nga xinh đẹp, con thỏ ngọc và thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Cô thôn nữ tinh nghịch nói nhỏ: “Sáng trăng em nghĩ tối trời, em ngồi em giở sự đời ra coi”: Chúng ta không thể quên được vầng trăng chinh phụ trong câu: “Trông Tràng thành long lay bóng nguyệt" của "Chinh Phụ Ngâm"? Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Kim Trọng thề thốt dưới trăng: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai mặt một lời song song". Trăng của Hàn Mặc Tử dí dỏm và đa tình. Trăng thành Huế bi hùng, trăng sông Hương mơ mộng. Trăng xứ Lạng tắm nàng Tô Thị chờ chồng ngàn năm. Người xa nhà có vầng trăng đất khách, trăng viễn xứ. Đôi trai gái reo lên: "Sáng trăng sáng cả vườn đào sáng sang vườn mận, sáng vào duyên nhau"?… Người con trai khóc và trách người con gái: sao em lại thề với anh trong một đêm trăng khuyết để bây giờ…" Những gì về cái đẹp, về tình yêu, về người con gái thường được gắn với hình ảnh của trăng. Chuyện trăng hoa giăng gió là chuyện giữa nam nữ lúc tình yêu đang chín. Lời thề dưới trăng gọi là trăng thề. Lâu đài đón trăng ở đền Ngọc Sơn gọi là Đãi nguyệt lâu. Các cô gái hay lấy tên là Nguyệt, lông mày cong của cô gái được gọi là nguyệt mỹ. Ở các đình, miếu, chùa thường có những công trình điêu khắc hoặc chạm trổ gọi là lưỡng long chầu nguyệt. Cái tuổi dậy thì của người con gái được gọi là tuổi trăng tròn. Đường trăng là con đường xanh bóng trăng. Người có tấm lòng tốt gọi là người có lòng dạ sáng như trăng sao. Thế rồi, còn thuyền trăng, gạo ba giăng, bánh mặt trăng, đàn mặt trăng hay còn gọi là đàn nguyệt. Cô gái được coi như mặt trăng khi người tình của cô nói với cô: "Yêu trăng thương lấy ngày trăng rụng"? Mấy cô gái đến rủ bạn đi chơi, cô bạn không đi được và trả lời: "Hôm nay trăng ẩm… cho em ở nhà"? Có hàng triệu cách tả mặt trăng: trăng tròn, trăng non, trăng vuông (trăng nhòm cửa sổ mặt trăng vuông) trăng suông, trăng vằng vặc, trăng nằm soài sãi, trăng khuyết, trăng rụng, trăng lên, trăng đứng, trăng treo (đầu súng trăng treo), trăng già, trăng lưỡi liềm, trăng thanh, trăng ngà, trăng bạch, (trăng thu bạch), trăng dựng (thong thả trăng non dựng cuối làng), trăng lạnh (Thái Bạch ôm trăng lạnh), trăng lưỡi liềm, trăng trần truồng (Ơ kìa! bóng nguyệt trần truồng tắm), trăng lặn, trăng lu…vv. và.vv… Người ta nói chuyện với trăng, vui với trăng, buồn cùng trăng, than thở với trăng như với người tri kỷ: Đêm khuya, buồn lắm chị Hằng ơi!…
Trăng là bạn của tất cả mọi người. Trăng biểu hiện gợi ý và nhắn nhủ mọi người nhiều điều. Trăng là nguồn cảm hứng vô tận và chia sẻ nỗi lòng với con người. Trăng là thi, ca, nhạc, hoạ… là vẻ đẹp vĩnh hằng.

ĐÁM CƯỚI NGÀY XƯA
Ngày xưa, trừ những đám cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì hầu hết là các chàng trai nhờ bạn thân hoặc ông chú, ông cậu mách mối rồi trình bày với cha mẹ. Cũng có những chàng trai giả vờ làm người đi mua lợn giống hoặc mua cau để có cớ đến nhà cô gái. Và cũng có những cô gái sắm vai người đi mua lá dâu hoặc mua chè để có cơ hội đến nhà chàng trai để tìm hiểu. Để xây dựng mối quan hệ giữa hai gia đình, nhà trai phải mượn người làm mối sang ướm lời bên nhà gái. Những ông hoặc bà mối này ăn nói rất khéo. Nhiều khi còn nói có vần có điệu rất dễ đi vào lòng người. Nếu nhà gái đồng ý thì bên nhà trai làm lễ chạm ngõ.
Lễ giản đơn nhất là vài chục quả cau, xếp lá trầu, mấy gói chè. Sau đó, nhà trai phải đi lại với bên nhà gái qua vài cái Tết rồi mới được làm lễ ăn hỏi và cưới. Trong giai đoạn này, nếu là tết Nguyên Đán, nhà trai phải mang sang biếu nhà gái mứt, chè, bánh chưng. Việc biếu này gọi là "đi xêu". Tết Đoan Ngọ thì "xiêu" bằng đôi ngỗng. Tết cơm mới thì "xêu" bằng gạo mới và gà.
Ở nông thôn xưa, nhà nghèo thì cô dâu sắm chiếc áo ngắn, thắt lưng hồng hoặc hoa lý và một chiếc nón che mặt để về nhà chồng, rồi sau đó che nắng, che mưa khi lao động. Nhà khá giả thì may cho con gái cánh sen, áo cánh trắng. Ngoài là áo (dài nõn chuối rồi áo màu mỡ gà. Hành trang còn có áo the hoặc áo sa đen, khăn nhiễu tím hoặc nhung đen, thắt lưng hồng đào hoa lý, nhiễu tím ba chiếc, ruột tượng sồi, khuyên vàng, xà tích, ống vôi bằng bạc. Váy trong màu hồng đào Váy ngoài là lĩnh tía. Chân đi dép cong. Lễ rước dâu thường đi bộ. Nàng thì vui, gặp mưa, quần áo, dò đường đi từng bước. Nhà trai khá giả thì có ngựa, có võng. Sáu, bảy con ngựa cho cụ cầm hương, cha cô dâu, cha chú rể và chú rể cùng đôi ba vị chức sắc cô dâu ngồi võng đào…
Đám cưới thường chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt lành nhất cưới vợ xem tuổi đàn bà. Làm nhà xem cách… Đón dâu về nhà trai, cô dâu và chú rể phải làm lễ tơ hồng. Trong lúc đó, có một ông chú hoặc ông bác nào đó tốt giọng nói lên: "Dù trai dù gái cũng xin báo điềm vui cho sớm. Dù giàu, dù nghèo, dù sang dù hèn cũng xin được ăn ở với nhau đến trọn đời, mãn chiều xế bóng…". Sau lễ tơ hồng, cô dâu phải vào lạy cha mẹ chồng, vừa ra mắt vừa nhận nhiệm vụ gia đình gọi là gánh vác giang sơn nhà chồng.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


NGHI THỨC TANG LỄ TRUYỀN THỐNG

Khi một người trong gia đình nằm xuống, người ta xé miếng vải trắng, quấn lại như một hình nộm rồi buộc lên chiếc gậy, đặt trên bàn thờ gọi là "phồn bạch". Hồn người chết nương vào mấy miếng vải trắng này. Người ta đưa vào miệng người chết một nhúm gạo cuốicùng của dương thế gọi là "phẩm hàm". Người chết được mặc áo quần mới và đẹp, được liệm bằng một tấm vải trắng. Người chết đã liệm được đặt vào áo quan đúng giờ "lành". Áo quan đặt giữa nhà, phía dưới bàn thờ và được kê trên hai chiếc mễ gỗ. Trên mặt áo quan có bát cắm hương, nến và một bát cơm đầy có quả trứng luộc. Sau khi người chết được đặt vào áo quan và đóng kín lại, gia đình làm lễ "phát tang". Những người trong gia đình chít khăn sô, mặc áo sô, thắt dây lưng lá chuối hoặc mang khăn tang…

Theo một quy định có từ lâu, chỉ cần nhìn là biết ngay người chít khăn hoặc mặc áo có quan hệ thế nào với người chết. Con trai người chết lại có thêm chiếc gậy để chống (nếu là bố thì con trai có gậy tre, nếu là mẹ thì chống gậy gỗ vông). Các cây cối trong vườn cũng được buộc vào cành một miếng giấy bản trắng hoặc một miếng vải trắng hẹp bản để cây cối cũng nhớ thương, tiễn người ra đi. Sau lễ phát tang, cả gia đình đứng quanh quan tài. Phường bát âm nổi kèn trống, tấu lên bài "Con nhạn lạc đàn" nghe ai oán, rồi rúc lên những hồi kèn pha rất bi ai. Cả nhà oà lên khóc lóc, kể lể tuỳ theo tâm trạng biểu thị tình cảm của người khóc đối với người chết. Họ kể lể những điều buồn thảm, nhớ nhung thật sinh động. Nào nỗi niềm tử biệt sinh ly, nào nỗi cô đơn buồn thương da diết của người sống đối với người chết. Có nơi giữ tục thuê người khóc mướn. Đó là một, hai người đàn bà đứng tuổi, từng trải, có cuộc đời éo le, nặng lòng với cuộc đời, rất tự nguyện đi “thương vay, khóc mướn". Họ có "nghiệp vụ" nên kể lể ra đủ chi tiết làm mủi lòng mọi người. Họ khóc và kể về cuộc đời người đã khuất và sự vắng mặt của người ấy sẽ đem lại những cay đắng và tổn thất đối với người sống. Họ kể lể, lên bổng xuống trầm, gần như hát, có điệu có vần. Chỉ cần thay đổi đi chút ít là có thể thành những dòng văn thơ. Ví dụ như khóc cho người chị khóc cậu em trai độc nhất như sau: “Thế là từ đây xa rồi, mỗi người đi mỗi ngả. Bây giờ không biết làm sao, thương nhớ nhau làm sao ". Người ta sửa lại thành: "xa qua rồi em, người mỗi ngả Bây giờ không biết nhớ thương nhau…"

Trên bàn thờ và trên nắp áo quan, nến thắp sáng, khói hương nghi ngút. Bạn bè, họ hàng lần lượt đến phúng viếng người chết. Họ trao cho tang chủ một số tiền hoặc một chút lễ vật rồi vái người chết ba vái. Mọi người chung ý nghĩ: “nghĩa tử là nghĩa tận" thù hận cũng được bỏ qua. Khách vái xong, vợ và con của người chết túc trực bên linh cữu quỳ xuống tạ lại ba vái tỏ lòng cảm ơn và kính trọng. Nghi trượng đưa người chết đến mộ phần gồm: 1. Bàn để bài vị ghi tên, tuổi người chết; 2. Một bàn minh tinh thể hiện vị trí xã hội của người chết; 3. Một nhà táng bằng giấy nhiều màu sắc che ngoài áo quan và sẽ được đốt đi sau khi đã chôn áo quan xuống đất áo quan đặt trên một cái kiệu có đầu rồng do nhiều người khiêng. Linh cữu được khiêng từ từ, nhịp nhàng theo sự chỉ huy của một ông già cầm hai mảnh tre gõ vào nhau gọi là gõ xinh, cùng với dàn nhạc bồng bềnh, trôi nổi, nỉ non và buồn thảm. Linh cữu qua đình, chùa phải được khiêng hạ thấp xuống để kính chào. Khi ra khỏi làng phải chào cổng làng một lần cuối. Đi sau linh cữu là vợ, con của người chết. Con trai chống gậy tre, lưng còng xuống vì gánh nặng nhớ thương mà cũng là do gánh nặng sắp tới sẽ đến với anh ta. Sau đó là con dâu, con rể, cháu chắt, họ hàng. Cháu chít khăn trắng, chắt chít khăn vàng, chút chít khăn đỏ áo tang lươm bươm, không may lại với nhau mà chỉ có mấy cái dải buộc. Đầu tóc của con cháu đê bù xù, không chải. Ngay sau đàn con, cháu là phường nhạc gồm 8 người rồi đến một đoàn các bà vãi ăn mặc nâu sồng, có đeo tràng hạt có 108 hạt. Tay mỗi người cầm một nén hương. Đầu đội chung một mảnh vải vàng thật dài có in những dòng chữ nhà Phật. Các bà đọc câu “Nam mô A di đà Phật", đọc kinh, kể công ơn cha mẹ, kể cả về những sự gian nan đau khổ của kiếp người. Huyệt để đặt áo quan xuống đã được đào từ trước theo sự chỉ dẫn của thầy địa lý. Sau khi chôn cất xong, bài vị có tên người chết được rước về nhà, đặt lên giường thờ, gần bài vị của tổ tiên. Hồn người chết đã nhập vào bài vị để con cháu thờ cúng. Người ta đánh dấu phía đầu ngôi mộ. Trước lúc đó, có nhà sư lần tràng hạt, tụng kinh, cầu cho linh hồn người chết được thanh thản nơi thế giới bên kia. Sau mấy lần cầu, cuối cùng nhà sư nhúng cành cây nhỏ vào chiếc chén có nước rồi vẩy ra xung quanh làm bắn lên những giọt nước "cành dương, " Nhà sư cố tình đi xa ra chừng vài mét để gia đình khóc những tiếng khóc giã từ lần cuối. Mọi người ra về. Ba ngày sau, gia đình ra thăm mộ, thắp hương, nến, cúng rượu thịt, xôi, hoa quả rồi về nhà cùng ăn một bữa cơm với nhau gọi là làm lễ "ba ngày". Ngày nay, xã hội đã thay đổi về nhiều lĩnh vực, trong nếp sống văn hoá mới, nghi thức tang lễ ở nước ta vừa có sự kế thừa những nét truyền thống của dân tộc vừa có sự tiếp thu ảnh hưởng những tiến bộ của phong tục văn hoá phương Tây.

CHUYỆN ĐỐT VÀNG MÃ
Do sự giao lưu văn hoa lâu đời giữa Việt nam và Trung Quốc, tục chôn cùng với người chết những đồ vật và dụng cụ thân thiết đã có ảnh hưởng đến nước ta. Mọi người tiếp nhận lấy một số chi tiết rồi “bản địa hoá" theo cách sống và trí tưởng tượng của mình… Theo truyền thuyết, vua Văn Vương đời Chu chết đi vài ngày rồi lại sống trở lại do sai sót về sổ sách giữa Nam Tào và Diêm Vương. Vua được tham quan cuộc sống dưới âm. Vì không ăn bát cháo “lú lẫn” nên tỉnh táo mà quan sát được cuộc sống ở đó rồi lại trở lại với dương thế. Vua phổ biến cho mọi người thấy rằng ở dưới âm phủ thiếu thốn mọi bề và đề xướng việc người trên dương thế hãy gửi đồ tiếp tế xuống cho người thân ở dưới âm phủ…

Các tôn giáo lợi dụng chi tiết này mà bày vẽ ra nhiều chuyện huyền hoặc. Thế là hình thành một lớp người chuyên sản xuất các đồ dùng, đồ vật bằng giấy gửi xuống" cho người chết bằng cách đốt đi. Việc làm này là đốt vàng mã. Những người làm vàng mã chế tạo ra đủ mọi thứ như nhà cửa, sập gụ, tủ chè chõng tre, nồi, ấm, mâm, bát đĩa, áo quần, gầy dép, xe ngựa, tàu thuyền, xe đạp, hình nhân, kính bút, tráp ăn trầu, vàng, tiền, vv…có người còn đốt cả ba tong, võng lọng gần đây hàng mã còn có cả xe máy, ô tô, ti vi, tủ lạnh, nhà ba tầng còn có cả mái bằng, tiền đô la mang dáng dấp hiện đại. Cũng theo truyền thuyết, những người chết không có họ hàng thân thích, nghĩa là không được tiếp tế qua việc thờ cúng là những cô hồn phiêu bạt, chỉ biết trông chờ vào việc đi xin hoặc đợi chút quà bánh và mấy hớp cháo lá đa ngày xá tội vong nhân rằm, tháng bẩy. Họ biến thành những ma đói, đi phá phách điều càn dở. Đói ăn vụng, túng làm càn mà. Trước khi đốt vàng mã; gia chủ khấn với các vị thần linh, xin chuyển hộ mọi thứ xuống cho thân nhân của mình theo đúng tên tuổi. Khi đó gia chủ ăn mặc chỉnh tề, đốt lên một hoặc ba nén nhang. Cũng có lúc đốt năm nén, rồi vái ba vái, bày tỏ nguyện vọng của gia chủ. Đốt một nén nhang gọi là tâm nhang để tỏ lòng mình đối với người thân đã khuất, cũng là có sự mong mỏi được người thân giúp đỡ đốt ba nén gọi là "cầu nhang", nhấn mạnh yêu cầu được che chở mọi mặt. Đốt năm nén nhang là gồm cả "tâm nhang" lẫn "cầu nhang".

Từ trước đến nay người ta cứ tưởng rằng cứ đốt càng nhiều càng nhanh càng tốt. Không phải vậy người đốt từng bó nhang lớn, làm khói bay mù mịt. Đó không phải là thắp nhang mà chỉ là làm cho mọi người xung quanh bị ngạt và khó chịu mà thôi. Việc đốt vàng mã cũng tuỳ theo túi tiền của gia chủ. Giàu thì vẽ vời vô kể và đủ điều. Nghèo thì giản đơn hơn nhiều. Bạn có thể đưa ra 5 ngàn đồng và bảo: "Bán cho tôi 5 ngàn đồng vàng mã". Thế là bà hàng hoặc cô hàng hiểu ngay, dưa cho bạn một bó nhang chừng 50 nén, một xấp vàng giấy (vàng lá) ở giữa có quét một số vật ngân nhũ. Trên lớp ngân nhũ là màu vàng hoe, một xếp giấy bạc 5 đồng của ngân hàng âm phủ, một xếp tiền đô la… Hàng năm, mỗi gia đình có chừng 10 lần như vậy cộng với hai lần giỗ nội ngoại và một lễ tảo mộ. Nhưng, ngày 23 tháng chạp là ngày tiễn ông Táo lên chầu trời thì nhà nào cũng phải sắm thêm ba cái mũ và ba cái áo giấy. Ba ngày Tết phải có thêm một nghìn vàng thỏi. Đến ngày Nguyên Tiêu, nhiều nhà mua thêm vài bộ quần áo và một, hai con ngựa. Tết Đoan ngọ và Tết mồng ba tháng ba cũng sắm thêm một chút vàng, mã. Ngày rằm tháng bảy theo tục truyền là ngày xá tội vong nhân. Ngày này dưới âm phủ, mọi người được “giải phóng”. Trên trần mọi người thi nhau đốt vàng mã. Những người làm hàng mã cỡ bậc thầy chỉ cần làm một vụ vào tháng 7 âm lịch là đủ cho cả một năm. Những người làm hàng giỏi thường là những người ở làng Mái (Đông Hồ), nơi ven sông Đuống thuộc Hà Bắc. Làng Mái là quê hương của làng làm vàng mã và tranh Đông Hồ nổi tiếng. Hai phần ba làm vàng mã và một phần ba làm nghề vẽ, in tranh Tết. Nhiều gia đình làm cả hai mặt hàng. Chính họ là những người đầu tiên ra mở cửa hàng bán vàng mã ở phố Hàng Mã gần chợ Đồng Xuân. Họ sản xuất ở làng Mái rồi đem hàng ra bán và nhận đặt hàng ở phố Hàng Mã. Làng Mái và dân Hàng Mã rất tự hào về người cụ của họ là một nghệ nhân bậc cao rất đỗi tài hoa tên là Tô Vượng. Chính cụ đã được đưa vào cung vua để trổ tài. Cụ tuân lệnh phải làm một cái ngai vàng bằng tre và giấy để nhà vua đốt dâng các vị vua đời trước. Ngai vàng này phải giống hệt chiếc ngai vàng sơn son thếp vàng mà vua đương thời thường ngồi. Có thể còn đẹp hơn. Khung, nan bằng tre nhưng vững chãi, có thể ngồi lên dược. Khi hoàn thành tác phẩm, ông Tô Vượng sung sướng quá, ngồi ngay lên chiếc ngai. Quan thái giám trông thấy, về bẩm với vua về tội khi quân ông bị giam vài ngày. Trong nhà giam, ông xin được mấy hạt gạo, ông dùng móng tay mà khắc lên hạt gạo những bông hoa tuyệt đẹp. Vua Minh Mạng là một ông vua nghệ sĩ, vốn mến tài, mến cái đẹp. Ông lại nhận được mấy bông hoa trên vài hạt gạo, liền mời ông ra khỏi nhà giam, phong cho Tô Vượng tước hầu. Về đến làng, rất nhiều người đến xin làm học trò. Sau này, người cháu của học trò ông đã trổ hết tài làm mã mà làm ra một chiếc thuyền Bát Nhã. Thuyền dài 2 mét, ngang 80 cm, có ba, bốn tầng. Phía đầu thuyền có vị thần linh oai phong chỉ huy. Hai bên có đúng một trăm tay chèo. Ngoài ra còn có nhiều quan văn, võ hộ tống "hồn" về "Tây Trúc". Chiếc thuyền có đến vài trăm chi tiết vài trăm hoa văn, lộng lẫy… Chiếc thuyền này được tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu mua với một giá rất cao để bày trong phòng khách hồi năm 1938 - 1939. Đến tận bây giờ, một vài lão nghệ nhân còn sống vẫn còn trầm trồ về vẻ đẹp rực rỡ, hoành tráng mà rất dân tộc của chiếc thuyền Bát Nhã này…

Khi gia đình còn cúng vào hè (tháng 4), ra hè (tháng7) hoặc cúng "dâng sao", "giải hạn", có muốn mua các đồ vàng, mã thì sẽ được các chủ hiệu hẹn chừng vài ngày hoặc một tuần. Lúc đó, các nhà sản xuất tập trung nhau lại, mỗi người làm một phần việc, một công đoạn. Ví dụ như làm một con ngựa thì có người chuyên đan nan, người chuyên vẽ hoặc tỉa các hoa văn, người chuyên lắp ráp… Có người mang đến tận nhà cho khách. Ở khu phố chợ Giời có mấy người sẵn sàng đi chào hàng, chuyển hàng. Trình độ marketing của họ rất cao. Họ nói ngọt như rót mật vào tai. Họ biết rõ những nhóm người hay cúng bái, tế lễ hoặc lên đồng. Họ còn dùng cả điện thoại để thông tin cho nhau hoặc giao hàng. Quả thật, vàng mã đã có nhiều mặt hàng xứng đáng được gọi là những tác phẩm nghệ thuật về nhiều mặt. Chúng trang trí nội ngoại thất cho các miếu, đền, am, đình… bằng những chiếc nón, các nhóm tượng giấy, hình nhân, hòm sắc, voi, ngựa, rồng, phượng, rắn v.v… Đã có nhiều khách nước ngoài tìm đến mua và coi chúng là những đồ mỹ nghệ thủ công lạ mà đẹp… Mấy xóm của làng P.T. (Thanh Trì, Hà Nội) hầu như đều làm vàng cả. Họ làm đủ mọi loại vàng. Phần lớn là vàng thỏi. Khung vàng thỏi bằng nan nứa gập lại Ngoài dán giấy màu. Vàng thoi trắng để rắc theo các đám ma. Vàng có mắt kính tròn là để lễ các vị thần linh. Vàng nhiều màu sắc để cúng các thổ công, hà bá hoặc để cho các linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa. Bà An vừa mới mua được một gian nhà ở chợ Giời với giá hời. Nhà của Nhà nước cấp cho được chia ngay cho hai cậu con trai. Hôm đến nhà mới, bà mời khách khứa đến ăn uống. Bà vui vẻ khoe riêng với nhà báo để thông cảm: “ông nhà tôi vì là loại cán bộ khá cao cấp nên tiếng là về hưu thật, nhưng lại làm chủ tịch cho vô khối hội hè. Ông ta còn làm cố vấn cho mấy cơ quan nên cũng có chút bổng lộc. Các con lại được làm những công việc "yêu tiên"… Thôi thì, người đời của thế ông nhà tôi cũng làm được một ít việc thiện. Nhưng nước đời khó lắm. Thế nào cũng phạm phải chút ít điều không thiện với lương tâm… Tôi mời thầy cúng làm lễ cúng các vị thần linh. Tôi mua thẳng 5 triệu đồng vàng mã. Cũng gọi là sám hối với các bề trên linh thiêng. Tôi chi khoản này rộng rãi thì mọi người cũng kiếm được đôi chút (?!). Thế là tôi thanh thản, vẹn cả đôi đường…". Bà Ngải cũng hay đốt vàng mã nhưng kinh tế nhà bà rất khá thì đã đành. Nhưng bà Túy thì ở hoàn cảnh nợ nần chồng chất mà vẫn đốt rất nhiều vàng mã. Thật đáng trách. Cuối năm Dậu, bà Loan đi thăm mộ chồng, đốt nhiều vàng mã. Lúc tàn mã bay lên, bà khóc: "Anh tha thứ cho em…". Số lượng giấy để cung cấp cho thị trường vàng mã rất lớn. Có điều, không mấy người để ý, nhưng nếu chúng ta làm nhiều con tính nhân lên, chúng ta sẽ thấy. Nó còn tiêu thụ nhiều giấy hơn công nghệ làm pháo Tết. Vì pháo chỉ dùng trong mấy ngày Tết. còn vàng mã cứ đốt rải rác suốt năm. Hơn nữa, làm pháo có thể dùng nhưng giấy báo cũ. Những giấy dùng cho vàng, mã, toàn là những loại giấy tốt và đắt tiền như: Giấy tầu bạch, trang kim, giấy ngoại, giấy bóng kính, giấy nhuộm v.v… Đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ đến một số lượng giấy to lớn dùng vào công việc không có sức thuyết phục, không có lợi cho kinh tế, xã hội và văn hoá của đất nước.

BÓI TUỒNG
Ở Hà Nội, những năm trước đây, vào dịp Tết và cả tháng giêng là bộ mặt sân khấu truyền thống lại rộn ràng hẳn lên. Những rạp lớn như Sân Nhiên Đài, Quảng Lạc, Nhật Tân Ban. v.v… nô nức "vào xuân". Các diễn viên được huy động triệt để. Từ mồng mười tháng chạp đến rằm tháng giêng là giai đoạn bói tuồng, nhưng không nhất thiết là xem tuồng mà cả chèo và cải lương. Trong suốt thời gian này, người ta chỉ diễn ba vở như: Kiều, Phan Trần, Quan âm Thị Kính. Mỗi màn diễn lại chia ra nhiều lớp nhỏ. Ví dụ như ở Kiều, riêng màn thăm mộ Đạm Tiên cũng chia ra nhiều lớp như: Kiều với ngôi mộ, Kiều và Vương Quan, Kiều Kim Trọng, KimKiều thề thết…Họ có thêm vào những đoạn “cương” hoặc “ngẫu hứng” cho những lớp tuồng trở nên tươi tắn hơn. Về vở Phan Trần, chàng thư sinh Phan Tất Chánh tài hoa và đẹp trai đến thăm một ngôi chùa. Chàng say đắm ngay tiểu Trần Thị Kim Liên. Đôi trai gái đó yêu nhau với một mối tình mà mãi tận bây giờ mới gọi tên lên được là "tình yêu sét đánh”. Người cô của Phan và vãi chùa bên khuyên can cháu không nên làm vẩn đục lòng trần của kẻ đã đi nương cửa phật. Phan liền tránh mặt cô. Đến chiều tối, Phan leo tường vào chùa trong, gặp một vãi khác, Phan nhờ bà đưa lá thư tình cho Kim Liên, bà vãi từ chối, Phan doạ tự tử ép nài bà đưa thư. Hôm sau, Phan ập đến đúng lúc Kim Liên quét sân chùa. Phan nắm lấy tay Kim Liên đang cầm chổi, Phan bảo: "không quét hết được tội lỗi ở trần gian đâu”, rồi đưa tiểu vào nhà oản tự tình với nhau. Sau đó, chàng và nàng bị đưa ra cửa quan, ông quan "nghệ sĩ" này liền mách nước bàn cho Phan tặng Kim Liên chiếc quạt và Kim Liên tặng cho Phan chiếc khuy bạc để coi như họ đã được hứa hôn với nhau từ lâu như vậy là đẹp lòng pháp luật mà cũng xuôi đạo từ bi Lớp kịch diễn rất hay, xem mãi không chán. Còn ở vở Quan âm Thị Kính thì khán giả ngày xuân thích những đoạn Thị Mầu lẳng lơ từ dải yếm lẳng đi, nói ra miệng:  "Chàng như táo rụng sân đình Em như gái dở đi rình của chua". Và cái đoạn Thị Mầu trách anh Nô: “Gió xuân tốc dải yếm đào Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương". Ngày xuân người đi xem rất đông, nhiều người mải mê xem từ đầu đến cuối, có người xem vài cảnh rồi ra nhờ người đoán điều hung điều cát. Các ông thầy bói này ngồi trên một chiếc chiếu bên cạnh rạp hát, tựa lên chiếc tráp sơn đen. Khi gặp cảnh diễn ra trên sân khấu, họ thường nói những điều tốt đẹp đại loại như: Năm mới xem gặp tích Phan Trần là tốt lắm, sẽ có hỷ sự. Họ trao đổi với nhau vui vẻ. Cháu bói đúng vào lúc Thị Mầu lên chùa. Thị Mầu thì lẳng lơ thật, nhưng không xấu đâu. Ở đời hoặc ít hoặc nhiều, ai mà không lẳng lơ có gọi là bụt… Bói vào cái đận ấy là hay đấy. Kim Trọng gặp Kiều thì còn gì bằng… Lẽ dĩ nhiên, người được giải bói cũng vui vẻ “Vi thiềng” cho người “giải bói” một chút tiền “mừng tuổi” khá rộng rãi. Và cả hai phía đều hân hoan.

HỘI LÀNG XƯA
Từ ngày mồng 10 đến 20 tháng tư âm lịch hàng năm, nhiều làng trong vùng Bưởi (Ba Đình, Hà Nội) như làng Thủ Lệ, làng Đông, làng Hồ, làng Nghĩa Đô Bái Ân, làng Cả… đều lần lượt vào hội. Hội nào cũng thường có hai phần là lễ và hội. Về phần lễ, các làng đều làm lễ tưởng niệm các vị anh hùng, tiên liệt, những người có kỳ tích hoặc ông tổ các nghề thủ công đã mang lại cuộc sống cho dân làng. Làng Cả (làng Yên Thái) kết hợp việc thờ ông bà bán dầu Vũ Phục đã hy sinh đời mình để cứu vua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo với việc thờ ông tổ nghề làm giấy ông tổ nghề làm giấy không được thờ ở đình nhưng có một nhà thờ riêng với tấm biển sơn son thếp vàng ghi bốn chữ: "Bản nghệ thần từ, ông cũng được gọi là thánh sư, có mũ mão, cân đai. Tế thánh ở đình làng Cả. Một cái đình to đẹp, tiêu biểu cho các đình cổ Việt nam.

Sân đình rộng thoáng. Tam quan rất cao có những nét kiến trúc ngả về Phật giáo nhưng cũng có đôi nét mạnh khoẻ của Ấn Độ giáo. Lúc tế thánh, chủ tế phải là tiên chỉ của làng. Bồi tế, phụ tế, các vị có vai vế cao nhất trong làng không mặc các kiểu áo rồng phượng lòe loẹt mà ai cũng mặc áo gấm thất thể, ngoài là áo thụng xanh lam, quần trắng, đóng khăn, đi hài… Trông họ giản dị mà trang trọng. Màu sắc của gấm được phủ nhẹ bằng lớp áo thụng mỏng dính làm tôn vẻ đẹp của gấm rung rinh kiểu bốc bụi những chữ triện, hoa văn màu sắc ăn ý với phong màu đỏ tía. Các vị chức sắc làm nhiệm vụ khác thì nhất loạt mặc áo sa đen, khăn nhiễu. Lễ hiến thực thánh ông là xôi dẻo, bò béo, với thánh bà là cơm nếp thơm, gà mái ghẹ. Với thánh tổ nghề giấy thì cúng chè kho, chè mộng là mấy món ăn nổi tiếng của vùng Bưởi do những nghệ nhân có tín nhiệm của các phường được cử ra nấu nướng và chế biến. Đám rước của làng cả được bắt đầu từ xóm cầu sau, qua xóm giữa, xóm cổng, ra đường cái quan rồi lại trở về đình. Đám rước kéo dài gồm trống lớn có giá gỗ và bánh xe, trống cái có người khiêng, chiêng, cồng, hàng chục lá cờ có thêu chữ "Hội" đủ màu của bảy sắc cầu vồng, hàng chục lá cờ đuôi nheo, cành phướn, long đình, hai lọng vàng; bàn tam sinh gồm thủ lợn, đầu bò, đầu dê; bàn cỗ chay, tám quạt lông, hai kiệu lớn sơn son thếp vàng do mười sáu nam và mười sáu nữ thay nhau khiêng, tám loại vũ khí cổ do tám ông già cầm; hai choé đựng nước giếng quê hương v.v… Người xem hội đông nghịt. Nhiều trai tráng ăn mặc kiểu võ sĩ, mũ áo nhiều màu sắc rực rỡ, hào nhoáng, trước ngực có kết hoa. Những cô gái khiêng long đình, chít khăn nhung, mặc áo dài màu hoa đào, hoa lý, thắt lưng xanh hoặc vàng, quần lụa, giây cườm, nét vui tươi đầy sức sống thể hiện trên khuôn mặt. Các cụ già râu tóc bạc phơ, tay cầm bát bửu trông quắc thước bước đi oai nghi. Phía trước là hường bát âm liên tục tấu nhạc theo những luật lệ chặt chẽ nhưng lại đầy sức hấp dẫn. Người xưa chú ý nhiều đến đám phường tuồng, phường chèo. Các đào kép trong vai diễn của mình đi theo đám rước nghênh ngang, mũ trụ lấp lánh, cờ cắm sau lưng. Có vai đội mũ cánh chuồn, vẽ mặt, đeo râu, đi ủng cao. Có vai thái sư đội mũ bình thiên, mặt mốc, đi hia. Hoàng hậu đội mũ cửu phụng, mặc áo vàng, đi hài phượng. Võ tướng Tạ ôn Đình có đôi lông mày xếch nhọn, trên mặt có những nét gợn như vằn hổ trông thật dữ dội, đeo râu sàm (liên tu). Các vai chèo thì vừa đi vừa quạt. Cả những vai hề làm cho những trẻ con chạy nhốn nháo để xem tận mắt là hề mồi hay hề gậy. Sau đó là mấy tràng trai đóng giả con gái, khoác trống cơm đi lại ẻo lả, nói năng ỏn ẻn, liếc ngang, chít khăn vuông mỏ quạ. Họ đánh phấn hơi gắt, ngực độn. Người ta gọi là những con đĩ đánh bồng. Họ làm cho mọi người cười ngặt nghẽo. Các cô gái thì đấm nhau thùm thụp, cười khúc khích. Thỉnh thoảng các cô gái "rởm" này lại bập bồng mấy tiếng trống và đưa mấy nét múa “giễu đời”. Suốt ngày diễn ra các trò chơi như chọi gà, chọi chim, múa sư tử, đánh đu. Ở xóm cầu sau có xây một nhà cầu có giống cung cách một cái chùa giản đơn. Ở đây có lễ Phật, làm chay, chạy đàn, phá ngục. Bên cạnh cầu là một bãi rộng dựng lên một rạp hát bằng tre, nứa để tối nào cũng có phường tuồng, phường chèo thay nhau diễn trong mười đêm. Những tích trò được mọi người chờ đón như: Sơn Hậu, Đào Tam Xuân loạn trào, Suý Vân giả dại, Lưu Bình Dương Lễ, Thị Mầu lên chùa… Diễn viên được đón về trong những phường hội ở xa. Hôm sau, ngày hội chính lại có hát ả đào gọi là hết nhà tơ thanh nhã, không ồn ào.

PHÁO TRONG VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Đốt pháo thể hiện niềm vui đã thành tục lệ ở nước ta đã có từ lâu đời. Ở đâu có tiếng pháo, khói pháo, xác pháo thì ở đó có niềm vui nam, phụ, lão, ấu. Đã từ lâu lắm rồi, trong những ngày vui, ăn mừng, chúc tụng hoặc nhất là những ngày Tết Nguyên đán, nhà nào cũng đốt pháo. Riêng vào những ngàyTết, pháo, hương, trà, mứt, rượu được coi là ngũ vị vừa thể hiện tính tinh thần vừa thể hiện tính vật chất của ngày Tết. Pháo có mặt trong những ngày lễ, Tết thật đằm thắm, gắn bó. Nó đã đi vào thơ, văn, ca dao, đồng dao. Có câu đối Tết: "Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh treo". Hoặc như: "Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh". Có nhà thơ đã viết: "Thủa bé em đeo chiếc khánh vàng Quần đào xẻ đũng, áo hàng lam Chân đi hài đỏ, tay thu pháo…" Tiếng pháo Tất niên, tiếng pháo giao thừa, đón mừng năm mới là những âm thanh và hình ảnh để đời Pháo cũng thường được đốt trong những dịp liên hoan, mở cửa hàng, cất nhà mới, đỗ đạt, chúc thọ hoặc tiễn cha mẹ thọ trăm tuổi về thế giới bên kia v.v… Pháo còn là đặc trưng cho những màn múa rối nước. Nếu không có loại pháo của làng Bình Đà phối hợp với quá trình biểu diễn thì hiệu quả nghệ thuật sẽ kém đi rất nhiều. Như vậy sẽ làm mất đi vẻ đẹp của loại hình nghệ thuật rất độc đáo của Việt nam. Trong các cuộc hội hè, vào đám, rước kiệu, múa lân, đánh vật, khảo cờ người, bắt trạch trong chum v.v… đều cần sự có mặt của pháo. Đám cưới Việt nam ghi lại: "Hôm nay xác pháo đầy đường Ngày mai xác pháo còn vương khắp làng…" Cô gái lỡ duyên, than thở với cô em: "Người la pháo đỏ rượu nồng Mà trong hồn chị một vòng khăn tang”. Bằng quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh có mấy câu thơ nổi tiếng về pháo: “Kêu lắm lại càng tan tác lắm Cùng mang một tiếng ở trên đời”. Xưa, tổ tiên ta cho rằng tiếng pháo và việc đốt pháo gây nên một hiện tượng phỏng theo tiếng sấm có kèm các ánh chớp, mang lại vụ mùa bội thu: "Lúa xanh nhờ sâm Em đẹp nhờ anh…" Vì sấm chớp mang lại mưa có acide nitrique trong quá trình phát điện đã tưới bón cho mùa màng được tươi tất các cụ lại tin rằng, tiếng pháo có khả năng xua đuổi tà ma, ám khí…Ở  làng Đồng Ky có cuộc thi pháo đầu xuân. Họ đốt cả những quả pháo khổng lồ dài 8 mét và có đường kính 0, 6 mét. Bên ngoài quả pháo là cả một công trình nghệ thuật rực rỡ và cầu kỳ. Người ta bảo rằng, cứ năm nào pháo nổ tốt, xác pháo rải ra như những cánh hoa đào là năm ấy được mùa, dân khang vật thịnh. Ở nước ta có nhiều loại pháo: pháo tạch, pháo đùng, pháo điện quang, pháo dây, pháo xiết, pháo chuột, pháo vịt, pháo kéo chữ, pháo ném, pháo bèo, pháo bông, pháo hoa, pháo sao chổi… Trước đây, pháo tồn tại và được khuyến khích sản xuất là vì nó có lợi ích về nhiều mặt: xã hội, văn hoá, kinh tế… Có nhiều nơi như Bình Đà, Thanh Oai, Cao Xá Đồng Ky và một số gia đình có truyền thống làm pháo đã nhiều đời. Nhưng người buôn bán pháo cũng không ít. Pháo là một nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc, nhưng do những lợi ích mà pháo đem lại quá lớn nên con người đã lạm dụng nó trong quá trình sản xuất và sử dụng nên pháo đã bộc lộ những tác hại nhất định đến cuộc sống. Ngày nay, pháo không còn có mặt trong những ngày vui, nhưng những hình ảnh và âm thanh của pháo vẫn còn vang vọng mãi trong kí ức người dân Việt nam như một hoài mềm khó phai mờ.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


  Yêu cầu của một bữa cỗ lý tưởng và tưởng tượng nằm trong bia miệng: Sơn Tây đập đá nung vôi Bắc Ninh thì phải thổi xôi nấu chè Nam Định hầu điếu, hầu xe Lô Khê, Hà Nội cho nghe ca trù… Sau khi nhà chủ đã có lời, người ta bảo nhau ngồi vào cho đủ cỗ. Mỗi mâm có năm hoặc sáu người, ít nhất có hai người hoặc hai cặp thân nhau. Cũng có thể ba cặp đều thân nhau thành một cỗ. Chủ nhà tế nhị mời những người ăn ý hoặc cùng lứa tuổi ngồi vào với nhau, những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào với nhau, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với đàn ông. Đàn bà vào cỗ với đàn bà… Cỗ là bữa ăn đặc biệt có tính chất long trọng, thân tình được tổ chức trong gia đình như: Cỗ cưới, cỗ nhà đám, giỗ chạp khao vọng, ăn mừng, chúc thọ cha mẹ, Tết v.v… Riêng cỗ mừng thọ cha mẹ là do con cái đóng góp các con trai làm những món ninh, giò, mọc, nem… Các con dâu và con gái làm các món bánh rồi quây quần ăn cỗ với nhau. Ở những gia đình khá giả hoặc thành phố, cỗ khai trừ hẳn tất cả các món ăn mà thường ngày dùng như dưa, cà, cá kho, rau muống… Có nhiều loại cỗ: Cỗ tứ quý gồm 5 thứ hải sản chế biến thành mâm cỗ, cỗ cưới có xôi gấc đỏ, cỗ nhà đám có xôi trắng, cỗ mặn, cỗ chay… Có mâm cỗ một tầng, hai tầng hoặc năm tầng như ở 49 làng quan họ xưa. Trước đây, ở nông thôn cũng như thành thị đều có những phường nấu cỗ thuê do các nghệ nhân sành, thạo, khéo tay đảm nhiệm. Họ thường có kỹ thuật cao và cha truyền con nối, có được những món ăn truyền thống độc đáo ông Kiếm ở cổ Nhuế biểu diễn giết gà một mình chỉ cần một chiếc tăm tre vót nhọn. Ông Khán Trúc ở Yên Thái giết một con lợn một mình, chỉ cần một vò nước nóng chừng 3 lít. Trong phường có ông trùm là người giỏi nhất phường rất hãnh diện về tay nghề của mình và được đi thi thố tài năng ở nhiều nơi. Chủ yếu là để lấy tiếng chứ không vụ vật chất. Phường trưởng (trùm) góp ý với nhà chủ, ra thực đơn rồi chia nhau mỗi người làm một hoặc nhiều món sở trường. Mâm cỗ một tầng về cơ bản thường gồm 5 bát: Bóng, miến, măng, mọc, chim, súp, gà tần và 5 đĩa: Giò, chả, gà hoặc vịt luộc, nộm, sào. Có khi gia giảm bằng các món rán, nướng, quay hoặc nem Sài Gòn. Xôi, chè được xếp phía ngoài mâm để ăn sau cùng… Bát nước chấm có hồ tiêu, chanh, ớt hoặc cà cuống ở giữa mâm. Khách đặc biệt hoặc khách danh dự được bố trí ngồi mâm giữa ở gian giữa. Mỗi mâm có một người trong gia đình hoặc chủ ngồi ghé cạnh nhưng chỉ gắp qua loa mà chủ yếu là để tiếp khách, gọi thêm món, lấy thêm rượu, nước chấm, nước suýt, rau thơm, gia vị. Có khi người nhà ngồi ghé đó có mặt ở mâm này rồi lại sang mâm khác. Khi ăn, khách nói chuyện rôm rả vui vẻ thực sự. Có khi người mâm này nói chuyện với người ở mâm bên cạnh. Mỗi người một phong cách ăn uống, một phong cách nói năng. Tất thảy đều được tôn trọng, thật thoải mái, không phải e dè, giữ kẽ gì. Có khi rượu ngà ngà, ông nọ kháy ông kia một chén hoặc tỏ thái độ về một sự việc gì đó. Đến mức găng thì mọi người nói chữa cho nhau. Nếu có cuộc tranh cãi chăng nữa, họ cũng dễ tha thứ cho nhau mà đổ lỗi cho rượu ngon đâm ra quá chén. Những lúc này, mâm cỗ Việt nam sẽ thật đầy đủ chất đời, vừa thiêng liêng vừa dân dã. Người uống được rượu thích những món ăn có kèm xương xẩu hoặc như đầu gà, cánh gà hoặc món nộm có đủ chua, ngọt, cay, bùi giòn, mềm. Rau thơm thường gồm húng láng thơm ngát, canh giới thơm thanh cao hoặc rau ngổ có mùi thơm sắc gọn mà dữ dội.

Cỗ ở miền Nam có thêm các món gỏi, chả nướng ăn với rau xanh, khế, chuối xanh, giá đỗ, lạc rang, bánh đa… Mâm cỗ Việt nam thơm ngon, có truyền thống lâu đời không cầu kỳ nhưng có đủ mùi vị, màu sắc. Trên bát bóng có những lát bóng trắng ngọc, điểm mấy lát trứng tráng vàng ruộm, vài con tôm đỏ, vài quả đậu Hà Lan xanh, nấm hương màu nâu. Trên bát miến có gan gà màu vàng đậm, tiết màu đỏ huyết dụ, thịt nạc màu trắng đục, mộc nhĩ đen màu. Ở giữa có một dúm rau màu xanh rờn. Khoanh giò thái ra có màu trắng ngon lành, hành củ trắng ngần, ớt đỏ hoặc vàng sánh trang điểm cho bát nước chấm vàng nâu… Mâm cỗ là một bức tranh. Ăn Cỗ xong, khách còn ăn xôi, chè hoa cau hoặc chè cốm, chè đỗ đãi rồi còn ra bàn bên cạnh uống nước trà, hút thuốc lá. Bàn bên, các bà ăn trầu. Cũng có lúc yên ắng hơn, mọi người thưởng thức tiếng hát của cô đào, tiếng đàn đáy của kép, tiếng trống chầu của người đánh trống biểu diễn các làn điệu ca trù. Họ là những nghệ nhân thần tình với gia chủ hoặc với vài ông khách. Họ có cái thú đi biểu diễn cho bạn bè, làng xóm nghe. "Thế nào cũng phải có bài: "Hồng hồng, tuyệt tuyệt". Lúc ra về, chủ và khách chắp tay trên ngực, nói với nhau vài câu quý hoá rồi cùng vái nhau vài cái. Cái kiểu chào này thật trang trọng, thân mật, giản dị có đượm mùi Phật giáo. Một số khách vừa thân tình vừa có họ với chủ nhà ở lùi lại một chút. Họ nhận phần mang về gồm một nắm hay một mớ xôi có thêm miếng thịt hoặc quả chuối. Đã có câu: "Có xôi có oản mới nên phần".

Cỗ Việt nam là cả một công trình. Nó không phải là tiệc cũng không phải là liên hoan. Nó có cái độc đáo của nó. Có điều, ngày nay các phường nấu cỗ thuê không tồn tại nữa. Kho tàng nghệ thuật ẩm thực của Việt nam cũng mất đi nhiều điều quý báu. Phải chăng, các nhà làm bếp bây giờ cần phải đi tìm lại kỹ thuật làm cỗ của người xưa để bữa cỗ Việt nam vừa dân tộc vừa khoa học và xứng đáng có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Âm thực cũng là điều thiêng liêng, là nghệ thuật, là văn hoá.

NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA PHỞ
Đã từ lâu phở là món ăn quen thuộc với người Hà Nội. Nó đã thành một món "nghiện" như người ta nghiện thuốc lá, thuốc lào, trầu, rượu… Đến nỗi, có thể nói là đã có một vấn đề được đặt ra: văn hoá phở. Thật vậy phở đi đến với tất cả các tầng lớp trong xã hội, có mặt suốt xuân, hạ, thu, đông; sáng, trưa, chiều, tối. Người ta đón những gánh phở, xe phở, hiệu phở ngon nhất của từng thời kỳ. Những gánh phở như phở nhà Thương, chợ Hôm, Cống Vọng, Hàng Long, chợ Đuổi… tồn tại cùng với tên những "hào kiệt" như phở Hợi gù, Thanh, Hói, Đất, Lùn, Hiền, ráng… Nhưng sự nổi tiếng của mỗi hàng cũng chỉ một thời rồi lại nhường cho những cái tên khác mà qua đi không trở lại, giống như sự nổi tiếng của một vở diễn hoặc những ngôi sao. Do đặc điểm ấy, phở luôn luôn mới và đầy bí ẩn.

Từ những năm thoạt kỳ thuỷ cho đến khoảng năm 1936, phở chưa ổn định, vẫn còn trên con đường hoàn thiện với sự ganh đua của các gánh, các hiệu, các xe. Quá trình này có sự đóng góp của những người sành ăn, những người ăn chơi, khách các xóm ăn chơi… Phở luôn được gia giảm, cải tiến để thoả mãn cái "gu" thanh lịch và nghệ thuật ẩm thực của người thành phố. Người ta đã thay đổi nhiều cách như cho vào nước dùng chất ngọt thực vật của su hào rồi thêm tôm he, sạt sùng, húng líu, gừng, xương lợn. Khách kêu lên: không được. Rồi bát phở được thêm chút magi, tương ớt các loại rau thơm vô duyên, lát cà rốt, mì chính. Người sành ăn la toáng: “phở rởm, phở cải lương".

Từ những năm 1937 đến 1952, phở mới bắt đầu định hình, có thể đến mức gọi là "phở cổ điển”. Nghĩa là không thể ngon hơn được nữa, không chê vào đâu được Này nhé, bánh phở dẻo, dai, bột mịn trắng bong. Những lát thịt bò chín được thái to bản mà mỏng, nạm giòn, một vài lá hành hoa, xanh tươi, nhánh hành sống có củ màu ngọc thạch nhúng qua nước dùng, vài sợi gừng vàng như tơ, đôi lát ớt đỏ, ớt vàng, đôi ba lá húng láng, chút hồ tiêu sọ trắng. Nước dùng chỉ thuần xương xẩu bò ninh với nước gừng nướng… Nước dùng được ninh bằng củi đúng 12 tiếng đồng hồ, nhưng không bao giờ để nước sôi sùng sục. Mở nắp thùng nước dùng ra, một làn mây khói mơ hồ, thơm nức đầu phố cuối phố. Bát phở được trình bày đủ màu sắc hài hoà như một bức tranh. Nước dùng vàng nhạt, ngọt đượm, ngọt đậm. Phở là quà nên chỉ một bát vơi, vừa phải, một bát lại muốn ăn bát nữa, dẫu đã hơi no. Thoạt đầu chỉ có phở chín, rồi người ta bắt đầu làm phở tái, cũng được một số người hưởng ứng. Lại một dạo, thuở trước, thứ hai và thứ sáu chợ không có thịt bò. Sự việc này đã làm xôn xao làng "phở". Có người treo đòn gánh. Một số người xoay ra làm phở gà. Nhiều người nhất định không chịu ăn phở gà. Nhưng đa số người nghiện phở, sáng ra không có bát phở, không chịu được, cũng đành ăn phở gà rồi cho rằng: "Thôi cũng được”. Lâu cũng quen, nghĩ kỹ, phở gà tuy không được như phở bò, nhưng cũng có phong vị riêng. Phở gà là bức tranh lụa, nhẹ nhàng. Phở bò là tranh sơn mài hoành tráng.

Sau này, từ những năm 1953 trở đi đến 1970, phở tái vẫn là chủ soái. Nhưng, giai đoạn này, người ta theo ý thích mới, bát phở được đập vào một hai quả trứng, bỏ lòng trắng, một vài chiếc quẩy, thêm rau thơm, mùi tàu và lạm dụng mì chính, bột canh. Bát phở bớt mất phần "hương đồng gió nội”. Nồi nước dùng lò than đốt sôi sùng sục. Xương không ninh lâu như xưa mà chớp nhoáng. Đặc biệt, từ những năm 1975 đến 1993, đất nước thống nhất, đồng bào Nam Bắc chan hoà và nhất là đến thời “mở cửa”, nhiều khách nước ngoài cũng mến món phở thì bát phở đâm ra nặng nề, quá tải. Người ta cho thêm cả mấy viên mọc, mấy quả trứng, thịt thái dày và nhiều. Một thìa mì chính được tống thẳng ngay vào bát phở. Bát phở gà được tăng cường hàng chục miếng thịt gà chặt to gọi là phở "dữ dội" hoặc phở "quân khu". Như vậy, phở đã bắt đầu không phải loại ăn nếm, loại quà sáng quà trưa nữa mà là ăn no thực sự. Phở nhiều chất hơn, "bụi bậm" hơn, "thực dụng" hơn theo với đời sống xã hội. Bây giờ, tìm được một hiệu hoặc hàng phở Bắc, phở Hà Nội ngon, mang được dáng dấp phở “cổ điển” là hơi khó. Người ăn phở phải dặn dò kỹ lưỡng, tẩn mẩn thì may ra người bán phở mới làm "ưu tiên" cho mình được. Vừa rồi, có một bạn Việt kiều kể: đã đi khắp Paris để tìm một hiệu phở Bắc ngon. Anh đã tỏ ra rất sung sướng khi được biết nhiều hiệu phở mang dáng dấp Hà Nội vẫn là những hiệu đắt hàng nhất. Phở còn nhiều chuyện lắm, nhiều bàn cãi lắm. Người ta họp mặt, chia taynhau hoặc hoà giải, làm lành với nhau qua phở. Tỏ tình, nhõng nhẽo, gắn bó với nhau qua phở. Ở bát phở cổ điển bốc khói, người ta thấy cả thơ, ca, nhạc, hoạ. Chứ sao!

BÚN CHẢ
Cụ Hồ Xuân Lan, 74 tuổi mới ở Pháp về. Cụ về nghỉ dưỡng ở quê hương, dừng chân sau cả quãng đời lang bạt kỳ hồ khắp trái đất. Ngay ngày hôm sau, cụ đến thăm chùa Một Cột, đền Ngọc Sơn và rủ mấy người bạn vong niên đi tìm hàng ăn gia truyền để tìm lại cái hương vị đặc biệt gây nên một nỗi nhớ mà cụ hằng ao ước. Đó là hương vị bún chả. Cụ nhắc lại một chi tiết về bài viết xưa của tác giả bài "Hà nội ba mươi sáu phố phường" đề cập đến một người ăn bún chả mà cứ bâng khuâng náo nức cho rằng mình đang được ở vào cái giây phút hạnh phúc được nếm một món ăn cổ truyền mà dường như trên đời này không có món ăn nào sánh được với nó. Người khách vừa ăn vừa có cảm xúc bật lên lời: "Nghìn năm văn vật đất Thăng Long Bún chả là đây có phải không”. Hai câu thơ nôm na vừa là thực mà vừa là mơ để đánh giá một món ăn “phi phàm". Cứ mỗi lần về đến Hà Nội, các chị Dung, chị Quân, chị Thành chủ các khách sạn người Việt nam tại Boóc-đô (Pháp) lại vội vàng gọi nhau đi ăn bún chả. Món bún chả đã đi vào lịch sử văn hoá dân tộc và từ rất lâu đã được nhiều người ưa thích. Nó là một món ăn kiểu cách mà sang trọng. Nói đúng ra, nó là một món quà, người ăn ăn nếm, ăn hương ăn hoa chứ không vụ no. Một mẹt bún chả chỉ có chừng 200 gam bún, vài gắp chả, một ít rau sống và nước chấm đủ để thòm thèm. Món bún chả đã qua thử thách của nhiều đời người. Cho đến giờ, nó đã trở nên một tác phẩm nghệ thuật mà không ai phải có ý kiến thêm bớt gì nữa. Nó đã đạt tới mức hoàn thiện mà nếu ai chưa nếm bún chả là một điều đáng tiếc lớn. Đối với những người ở Việt nam sống xa quê hương thì bún chả cũng "say" tấc dạ kiều bào như một bài hát ru vậy. Xưa, ở làng Phú Đô (Từ Liêm) có những nhà làm bún riêng cho các hàng bún chả. Bún cho hàng bún ốc và bún riêu tạp thô hơn. Bún giao cho hàng bún chả sợi nhỏ hơn và thành phần bột cũng được trộn lẫn với một phần ba là bột gạo tám thơm. Người ta không dùng tất cả là bột gạo tám thơm vì bột này có nhược điểm là tuy có thơm nhưng nhạt nên phải cho thêm một phần ba gạo tám xoan và một phần ba nữa là gạo gié cái vào mới có được vị đậm đà và độ dẻo, dai. Thịt để ướp phải thái miếng vừa, hơi dày và đủ các thành phần cứng, mềm, nạc và mỡ béo, được ướp với nước mắm có hồ tiêu, hành hoa thái nhỏ và đường. Nước mắm thường dùng là "Nước mắm Kẻ Đô, cá rô đầm Sét” như mọi người thường ca ngợi. Nước mắm Kẻ Đô thơm ngon, không có mùi như các loại nước mắm khác nên chiều được cả những người khó tính nhất. Thịt ướp được kẹp vào que tre hoặc đặt lên vỉ. Chả nướng bằng than hoa. Thành phần đường có trong nước tẩm cũng như lượng đường trong bản thân miếng chả được caramen hoá cùng bốc lên một mùi thơm ngào ngạt đến nhức mũi, kích thích dịch vị. Chả nướng phải ở dưới mức cháy sém và ở trên mức chín. Nước chấm đòi hỏi một kỹ thuật pha chế khéo léo phải có liều lượng, có cung bậc, thậm chí một chút tài hoa nữa là khác. Người pha nước chấm phải là người sành, thực nhi trì kỳ vị. Nước chấm gồm nước mắm, thêm dấm, đường, hồ tiêu, ớt, mì chính…

Độ ngọt của nước chấm bằng 1/3 độ mặn vừa phải. Nước chấm phải pha đậm lên một nấc làm sao để phối hợp với những lát su hào, cà rốt trổ hình hoa lá xanh đỏ và rau sống, rau thơm sẵn có chút nước tẩm vào làm nước chấm nhạt đi là vừa đẹp. Nếu pha vừa phải ngay thì sẽ bị nhạt quá". ăn bún chả mà thiếu rau sống thì mất hết cả thi vị. Nhưng rau sống lại có theo mùa. Còn rau thơm thì có quanh năm. Rau thơm thường dùng là húng Láng và kinh giới. Mùa thu, đông và xuân thì dùng rau xà lách. Về mùa hè thì dùng rau muống chẻ vừa giòn, ngọt lại bùi. Chả thơm, ngon, dẻo, mềm. Rau sống tươi mát. Su hào hoặc đu đủ và cà rốt thì giòn và bùi. Bao nhiêu chất liệu thì có bấy nhiêu vị ngọt khác nhau hợp lại cộng với vị chua của dấm chuối, đậm thơm của nước mắm, cay của hồ tiêu và ớt vị chát dễ chịu và hơi hắc của rau thơm cùng vị béo ngậy của mỡ… Người ăn tự gia giảm độ chua, cay sao cho được vừa ý nhất, có thể thêm chút ớt, tía tô để có vị cay và vị chát dữ dội hơn. Bún chả rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày và cũng là cả một nghệ thuật, giàu chất văn hoá, mang màu sắc địa phương rõ rệt. Bún chả gắn liền với các cuộc họp mặt, gặp gỡ hoặc tiễn đưa nhau trong các gia đình. Bún chả luôn nhắn nhủ với chúng ta rằng, cuộc sống có vô vàn những cái đẹp cái ngon, Hà Nội tự hào có chùa Một Cột, Văn Miếu, có con cò bay lả bay la…có mứt ngũ vị. Hà Nội cũng tự hào về món bún chả của mình.

BÚN THANG
Ngoài bún chả, bún nem, bún chấm nước mắm chanh ớt, bún đậu rán mắm tôm, chúng ta còn nhiều loại bún kiểu chan canh như: bún riêu cua, bún măng với chân giò, bún ốc, bún sườn, bún dọc mùng, bún mọc v.v… đều rất phổ biến, rất bình dân chưa bao giờ bị mọi người nhạt tình với chúng. Trong các loại bún canh có một loại bún mà người ta gọi chệch tên đi là bún thang. Bún này cũng là loại bún canh. Dùng chữ "thang" nó văn vẻ hơn chữ “canh”. Làm bún thang cầu kỳ hơn, có nhiều thành phần hơn so với tất cả các loại bún. Bún thang được đơm vào bát sứ sang trọng. Có khi là sứ Giang Tây. Không ai đong bún thang vào bát sành hoặc bát đàn. Dưới bát bún thang còn được lót bằng một cái đĩa. Người ta ăn bún thang theo kiểu ăn chơi, ăn nếm thưởng thức cái phong vị và tài hoa của người làm ra nó. Ăn bún thang không phải là kiểu ăn lấy no. Do đó, bún thang là món bún phong lưu, đài các Làm bún thang để thể hiện cái tinh tế trong nghệ thuật ẩm thực truyền thống và chứng tỏ rằng, món này rất "xứng miệng người phong lưu". Nó không kém bất kỳ các món sơn hào hải vị như long tu, yến sào bào ngư. Những gia đình ăn bữa nay, lo bữa mai không làm bún thang. Chỉ ngần ấy thôi, bún thang đã đáng được tôn phong là Nữ hoàng của các món bún. Do vậy, người ta bảo bún sườn hiền lành, bún nêu dân dã, bún thang kiêu kỳ, thanh sắc. Người ta thường tổ chức những bữa bún thang vào những dịp trước hoặc sau những ngày lễ tết, ngày hoá vàng, khi có dịp vui mừng hoặc tiễn đưa, gặp lại nhau v.v… Bún thang là bún tình cảm. Làm một bữa bún thang thường do một mệnh phụ, một người chị, một cô gái nào đó tinh thạo gia chánh và được sự tín nhiệm của mọi người điều khiển. Dưới tay người đó, có cô em, bạn hoặc cô cháu nhỏ giúp việc và chấp hành những lời sai bảo. Thành phần bún thang phần nào mang tính tập thể. Các thành viên được mời ăn bún thang thường không ăn mặc xuềnh xoàng mà chải chuốt, trang trọng một chút. Dư vị và dư âm của bát bún thang đểlại dai dẳng. Thậm chí cuộc đời gọi là miếng ăn nhớ đời. Ngồi vài mâm bún thang gia đình yêu cầu: ăn ngon, không khí vui, người thảnh thơi. Bún dùng cho bún thang là loại bún đặc sắc với nơi sản xuất. Tốt nhất là làng bún Phố Đô sợi bún nhỏ, có độ mịn, độ hút nước cao. Mọi người kén khoang giò ước Lễ còn thoáng lòng đào. Miếng giò được thái mỏng, hình chữ nhật. Thịt gà chọn loại gà quê, chân chì, xé nhỏ, trắng nõn. Không lấy bì. Ruốc thịt lợn và ruốc tôm he phải bông tơi. Trứng gà được tráng mỏng, không xác quá cũng không nhẽo quá, được thái ra thành những miếng chữ nhật và những sợi dây tơ hồng. Thịt gà, xương gà, cánh gà, xương lợn được ninh lên làm nước dùng. Nước dùng muốn đạt loại cao cấp phải có tôm he cho dậy mùi và có được nét đặc trưng của bún thang. Thời gian gần đây có cho thêm mỳ chính. Nước dùng phải trong vắt, không có váng. Trước khi ăn bún thang, người ta thường nếm chút nước dùng, xuýt xoa, gật gù khen hoặc chê kín đáo, đánh giá. Do vậy nước dùng thay rượu khai vị và quan trọng lắm. Kỹ thuật cho muối vào nước dùng là khó nhất. Ngay người làm bếp cao thủ cũng không dám chủ quan. Họ phải dùng phương pháp chiết trung. Nếu thịt, trứng, tôm, giò, ruốc… mà đậm thì bún mặn. Nếu chúng nhạt, thì bún càng nhạt. Những sợi bún được chần trong nước sôi rồi vẩy cho kiệt nước, đơm vào bát với số lượng vừa đẹp. Nghĩa là nhiều quá sẽ là thô, ít quá sẽ là bạc. Xếp đặt những miếng giò trắng hồng, miếng trứng vàng tươi, mấy lát thịt gà trắng phau, ruốc tôm he đỏ vàng, nhúm sợi tơ hồng vàng xuộm, mấy mũ nấm màu nâu v.v… lên mặt bún…Làm sao cho khi chan nước dùng bức khói vào trông phải động đậy, sóng sánh mà ưa nhìn. Bát bún được thăng hoa qua vài giọt cà cuống. Người ta ăn bún thang với vài lá rau răm, canh giới và bát nước mắm con để bên cạnh, có người thích mùi vị mạnh hơn, có thể tự cho thêm vào một chút mắm tôm. Mọi người gắp trứng, thịt… ăn với bún. Thỉnh thoảng lại húp thìa nước dùng một cách say sưa. Đây là động tác và tâm tình của người cầm trống chầu trong buổi diễn tuồng hoặc người đánh trống thưởng thức giọng hát của đào nương trong ca trù. Mọi người ăn thong thả, nhỏ nhẹ, lịch sự, vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ thân tình. Khi gió heo may về, ăn bún thang thấy ấm. Và cảm thấy mát mẻ khi gió nồm Nam gọi.

Hà Nội là quê hương của bún thang. Nó thường được tổ chức ở các gia đình. Nhưng ở các phố cũng có một số hiệu bún thang. Những năm từ 1940 đến 1944 ở Hà Nội cũng có một số hiệu bán bún. Nhưng hiệu chả rán, bún thang nổi tiếng nhất, lịch sử nhất, ngon nhất là hiệu bún thang Tế Mỹ. Nay ở số nhà 33 Hàng Quạt. Cho đến tận bây giờ, người Hà Nội chưa hề quên cái tên Tế Mỹ mà còn tấm tắc lời khen. Bún thang! Người ta nhắc đến nó một cách cảm động nó có tên xứng đáng trong ẩm thực truyền thống dân tộc Việt nam. Đó là món ăn rất Hà Nội và của Hà Nội ngàn năm văn vật. Nó sẽ còn sống mãi với người Hà Nội sành ăn và tế nhị.

THỊT CẦY, QUÁN THỊT CẦY LÁI CHÓ
Họ có 4 người. Trong bữa chén tại phố chó Nhật Tân vào dịp Tết, họ đã ngà ngà say. Mặt họ đỏ bừng. Tuy vậy, họ vẫn hăng hái “chiến đấu”. Người thì hai chân bắt chéo ra dáng hể hả, người ra dáng tư lự một chút. Người thứ ba ngửa mặt lên trời, ném gọn những miếng dồi chó vào miệng nhai nhồm nhoàm. Ăn thịt chó không như ăn Cỗ. Phải thật thoải mái. Người ta không phải giữ ý tứ trong cử chỉ và lời nói. Cá tính của ai thế nào biểu hiện ra thế đấy. Trên chiếu ăn, ngoài món xào và nhựa mận đựng vào bát, vài món khác đều đặt trên lá sen và lá chuối. Như vậy, bữa ăn có cái mùi vị hoang sơ của dân lục lâm tứ chiếng kiểu Lỗ Trí Thâm hoặc như những ông sư hổ mang trong các chuyện kể dân gian. Ăn thịt chó thì phải đi đôi với rượu. Nhưng chỉ có rượu quốc lủi, rượn trắng hoặc cùng lắm là rượu cẩm mới là những bạn đồng hành thích hợp.
Không ai uống rượu mùi, whisky hoặc Napoleon hoặc bia với thịt chó. Đang ngà ngà hơi men, bỗng một vị khách lục vấn nữ chủ quán một cách xách mé và cợt nhả: Bà chủ chó, tôi thấy bữa hôm nay, mấy món này đâu phải cầy tơ? Thưa ông anh. Tôi tưởng ông anh là người lõi sự đời! Tôi xin có ý kiến là nếu bữa chén chỉ toàn là thịt cầy tơ sẽ nhạt nhẽo. Lớn bùi, bé mềm, ông anh ạ. Phải cả tơ cả cứng, nó mới đủ mùi… Nữ chủ quán đáp lại.
Ông khách ngồi cạnh vỗ đùi đánh đét một cái: Đúng đấy. Khá lắm, trả lời khá. Tôi chẳng gì cũng được quen biết cô chủ từ cái hồi ở Trôi. Đấy ông anh biết đấy. Làng Trôi chúng tôi cung cấp hẳn một nửa thịt chó thành phẩm cho Hà Nội, mổ, thui, luộc, làm lông chỉ một loáng là xong. Đây là nơi liên lạc. Số lớn chó mổ ở Trôi mang ra đây rồi toả đi khắp nội thành. Bây giờ, tôi mở quán làm thịt cầy 7 món. À, mà gần đây không chỉ có 7 món mà có thể 10 món hoặc hơn nữa. Cải tiến mới! Tôi nghĩ được mấy món cổ truyền, giá như Nhà nước hay nước ngoài có liên doanh, tôi cũng không vào. Tôi đã qua cái đận nuôi chó, lái chó rồi mới mở quán. Tôi chỉ liếc qua một cái là biết con chó nặng bao nhiêu, thịt đậm nhạt, đặc xốp khi luộc bị ngót… ra sao. Thế bà còn nhớ ông lái Cảo chứ? Vâng. Nhớ chứ, "Cựu chiến binh" của chợ chó. Dạo ấy, ở lối cái bãi chân đê lên cầu Long Biên sang Gia Lâm là nơi tấp nập buôn bán chó. Đó là chợ chó. Các lái buôn từ nhiều nơi mang chó đến bán. Họ mang trên những chiếc xe đạp trông cà khổ mà vững chắc hai hoặc ba cũi chó. Những tay đáo để mới làm được lái chó. Chẳng ai bắt nạt được họ. Họ ăn mặc nhếch nhác, dáng điệu ngang tàng, ăn to nói lớn, bạo mồm bạo miệng, xê dịch khắp nơi, nhiều mẹo vặt…Đó là những đặc điểm sơ qua của họ. Nhiều khi tỏ ra phóng túng, rộng rãi. Trong đó, thỉnh thoảng có xen vào một hai lái là nữ lại càng đặc biệt. Có thể là do gia cảnh éo le, tình tang lỡ nhịp, giận thân giận đời hoặc thuộc loại nữ tính “dữ dội” mới chịu làm cái việc này.
Nữ chủ quán L.L ở vào những trường hợp đó. Cô đã hơn 30 tuổi. Chưa chồng con nhưng bồ bịch thì nhiều. Một hôm đi mua chó ở Bát Tràng, chủ nhà đặt giá 50 ngàn đồng. Cô biết rằng đó là giá mềm. Tuy vậy, Cô vẫn ép giá và trả 30 ngàn đồng. Chủ nhà ý không muốn bán. Cô đưa đẩy vài câu, nắm tai chó và đúng cái khác làm chó không nhúc nhích được rồi giơ cao thẳng lên. Cô bảo: "Chỉ 30 ngàn thôi". Thoáng thấy chủ nhà vẫn chưa đồng ý, cô liền thả con chó đánh “ bịch” một cái xuống đất đủ để chó choáng váng và đi khập khiễng, sủa lên đau đớn. Thế là chó lành thành chó què. Chủ nhà đành chép miệng đồng ý bán. Thế là khêu mua đã được hời. Cô có cảm tình với bác lái Cảo. Bác là loại kỳ cựu. Trước khi trở thành lái chó, bác đã bươn chải qua hàng chục nghề khác nhau. Nhưng bác bảo số bác không giàu chỉ nhàn nhã phong lưu lại có thì giờ đi du ngoạn lang thang. Nghề này thích hợp với bác. Bác tự liệt mình vào hạng người đã thông hiểu cái "nước đời”. Một hôm L.L muốn mua lại con chó “Vện" của bác ngay tại chợ chó cho một người bà con. Con chó được cả mã lẫn thịt. Chó Hải Dương mà. Chó ngon nổi tiếng là ở vùng này. Hải Dương có nhiều gia đình chuyên môn nuôi hàng đàn chó thịt, mọi nơi mà cả Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nội, Hà Bắc đều phải về đây mua chó thịt. Con chó Vện được L đoán nặng chừng 20kg trên dưới một chút. Nhưng bác lái Cảo bảo: "Cô L ạ. Con Vện này 25kg. Tiền thì không thành vấn đề, chỉ trách cô mà còn nhìn nó có 20kg thôi". "Em nhìn là không sai". "Có chắc không" "Chắc". Cuộc nào. Thì cuộc, 5 xập. Không cuộc tiền. Em không thể nào thua cuộc. Bác lái Cảo nháy nháy bộ ria mép kiểu Nhật Bản, mắt hấp háy nói: "Tôi mà thua thì cô cứ nhổ vào mặt tôi, cô cứ cho tôi một trận như hôm qua người ta xử lý tên kẻ cắp…" "Em mà thua, em trả bác 5 xập". "Đã bảo không đố tiền mà" "Thế em thua thì sao?" "Cô thua ấy à?…Tôi chỉ cần… "đánh” một cái". Cô L đỏ mặt xấu hổ, biết mình bị "hố". Cô đi vê  phía bờ đê. Chẳng nói gì. Bác lái Cảo gọi lại, cô vẫn đi thẳng. Không đáp lại. Tuy vậy, từ đó cô có cảm tình nhiều với bác lái Cảo và hai người thường buôn chung với nhau, và bây giờ cô trở nên một chủ quán thịt chó tương đối có tiếng ngay giữa Hà Nội. Quán luôn luôn có những làn gió thơm cuồn cuộn, ồ ạt, quyến rũ, thổi vào toả ra khắp xung quanh. Việc quạt chả chó để bốc lên một mùi vị quen thuộc, cũng là một việc quảng cáo sắc sảo chẳng cần chữ nghĩa văn chương gì cả. Đó vừa là vỡ lòng, vừa là đỉnh cao của nghệ thuật quảng cáo. Cô L biết rõ hoạt động của một số quán hàng thịt chó được mọi người trầm trồ. Cô có tham khảo ý kiến của các vị sư phụ mà có được những nhận định xác đáng không chê vào đâu được. Nhật Tân thì giỏi về các món nạm, ninh gáy và đùi, lại nổi tiếng về xụn và "bốc mả". Thịt chó Hàng Lược giỏi về thịt luộc. Họ không luộc mà hấp khéo lắm. Ô Quan Chưởng thì được món nhựa mận mầu hổ phách chưa cửa hàng nào theo kịp. Đó là loại nhựa mận 4 lứa, ra nhiều nhựa, đậm đà đủ năm mùi. Món xào lăn thịt nạc và xào đùi có cẳng chẻ ra, xương còn dính chút thịt, thoáng vị ngọt của đu đủ xanh, mấy cánh hành trôi nổi trên váng nước dùng lao sao mỡ… thì Nhật Tân đạt đến trình độ điêu nghệ. Món dồi chó gồm mấy loại thịt, mỡ chó, đậu xanh, lạc, tiết… Đảo qua mỡ chó thật nhanh, qua luộc rồi lại đảo qua mỡ để nó gần giống như nướng, thì Hoả Lò và Bát Đàn là hai nơi đáng kính nể. Người ta bảo: “Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó, thác xuống âm phủ biên có hay không". Nhưng phải là dồi chó Hoả Lò hay dồi chó Bát Đàn, chợ âm Phủ và gần chùa Bà (đền Hai Bà) nổi tiếng về món chó luộc và bán chó cả con để người mua về chế biến. Chợ Bưởi và gầm cầu cứ động bán thịt chó gói. Người mua mang đi chỗ khác ăn, không cần nói năng, dặn dò nhà hàng gì cả. Nhà hàng thái một ít thịt, tuỳ chỗ thịt mà thái đậm hoặc thái mỏng dính, một vài miếng dồi kèm theo húng chó, riềng, muối, ớt, mơ lông tam thể rồi gói vào lá sen hoặc lá dong riềng. Ngoài cùng là mảnh giấy báo rồi đưa cho khách mang về. Nhà hàng chẳng bao giờ bị khách hàng chê trách. Đi ăn thịt chó, người ta chọn món ngon, chọn quán, chọn cả chủ quán. Hàng chục năm trở lại đây, những vị chủ quán như các ông T, Cầu Guộc, S. Nhật Tân, Q. phố Thuốc Bắc, N. Hàng Kênh, ông Ban Cống cấm v.v… được liệt vào hàng sư phụ. Cô L được liệt vào hàng chuyên gia số 1. Nhất là cô lại là nữ. Cô có thể nói chuyện về chó và các món ăn về chó hàng tuần không hết chuyện. Cô có đủ tư liệu để viết nên quyển giáo khoa thư về chó và thịt chó. Thực ra, từ trước đến nay thịt chó có 7 món cơ bản: nhựa mận, luộc, xào, xáo, dồi, chả, nạm. Có khi theo yêu cầu của khách mà có cả giò chó. Món này như kiểu gỏi giò thủ. Có điều nguyên liệu còn có thêm mộc nhĩ, riềng. Gần đây, người ta đưa vào 7 món cơ bản mà tạo ra thêm nhiều món dẫn xuất. Muốn làm thế nào thì làm, người ta phải tuân theo những điều nhập môn sơ đẳng, nhất là thịt cầy non không bao giờ tham gia vào nhựa mận hoặc xào vì thịt sẽ ngót đi nhanh chóng. Thịt chó ngon nhất, đắt nhất là con chó ở thời kỳ chuẩn bị đi tơ. Chó thui cũng cần "mông má". Phải quật mỡ khắp mình chó trong quá trình thui. Phải thui cho da có những vết nở nhỏ sùi vệt trắng rồi "mông má" tiếp tục cho chó thêm phần hấp dẫn. Việc "mông má" là cả một kỹ thuật. Mẻ để nấu nhựa mận phải là thứ mẻ ngâu.
Người ta chẳng bao giờ ăn thịt chó một mình. Bao giờ cũng phải có bạn, có tri kỷ để tâm sự, để khóc cười và say sưa với nhau. Họ thường ăn lai rai. Bữa ăn có kèm theo bún và bánh đa. Thịt chó bổ, nhiều đạm. Đó là loại thịt độc nhất ăn đến no mà không chán. Đã có nhiều người gọi tâng bốc nó lên là "thịt rồng", thịt "hổ đồng bằng”. Những tỉnh phía Nam Trung Quốc gọi thịt chó là "thịt thơm" (hương nhục). Món thịt chó của Việt nam cũng được nhiều khách nước ngoài ưa thích. Đã có nhiều nước đến mời chuyên gia Việt nam về dạy chế biến các món thịt chó. Nó đã ra ngoài biên giới Việt nam và giữ một vai trò độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực truyền thống của Việt nam.

CHẢ CÁ
Phố Chả Cá là một phố nhỏ. Vào thế kỷ 19, đây là nơi bán các loại sơn ta. Đến đầu thế kỷ 20, có một gia đình mở hàng chả cá. Nhưng ở thế kỷ 18, cả quãng này nằm giữa dòng sông Tô lịch, cả một vùng sông nước mênh mông. Người ta đi lại bằng đò. Hai bên bờ sông là chợ bán cá đủ loại, ăn cá luộc mãi cũng chán, người ta nghĩ đến món cá nướng. Quả là có ngon thật. Dần dà, một số lái buôn đưa món cá nướng vào trong những lều chứa cá ở giữa sông cho kín và tiện mặc cả, lại giữ được bí mật. Một số thanh niên sang trọng, có học hành đôi chút cho miếng ăn là miếng xấu. Hơn nữa, ăn đường ăn chợ lại bị coi như là đồ "tiện dân" nên cũng ăn cá nướng trong các lều. Như vậy mình ăn lai rai không ai biết mà có say rượu thì cũng không sao. Thứ đến, các khách văn chương và các cô gái vào loại giai nhân cũng ra các lều, nướng chả cá và ăn trong lều. Chính họ là những người nâng món cá nướng lên một cấp đẳng cao hơn đó là "Chả cá".

Phong cảnh ở đây thật tuyệt vời sông nước, lau lách, bèo mây, trên bến dưới thuyền. Năm 1983, một đoàn khách nước ngoài vào thưởng thức món chả cá của ta và đề nghị được trả thêm một số tiền cao hơn tiền ăn phải trả. Vì họ được ăn chả cá với một không khí đặc biệt. Này nhé, trên một căn gác ọp ẹp tôi tối trần thấp… nhìn thấy dưới chân mình là mặt nước dập dềnh có tiếng sóng vỗ ì ọp. Với không khí này, người ta có cảm tưởng như đang ở trong một cái lều lụp xụp của những thế kỷ đã qua. Người ăn chả cá lại có cái thú tự chuẩn bị cho mình các loại gia vị mà mình thích, ngồi xuống nhấp chén rượu khai vị với mấy củ lạc rang, hành hoa sống, bánh đa vừng, điã bún để đợi chả cá và nước mỡ nóng thơm phức được mang tới. Mỗi vị khách có trước mặt mình một chiếc bát to đựng rau thìa là và hành. Một bát nhỏ để ngay cạnh đựng mắm tôm đặc biệt. Không phải là loại mắm tôm chợ. Khách đánh mắm tôm với chanh cho đến khi những vệt bóng mắt cua nổi lên. Nhà hàng bưng chả lên, rưới mỡ nóng lên bát thìa là Khách gỡ chả, chấm mắm tôm và ăn cùng bún, thìa là lạc. Mọi động tác được tiến hành hối hả, hăm hở để đạt được cái khoái cảm tổng hợp. Có khách lại yêu cầu được để một cái lò con ngay bên cạnh để khách tự tay mình lật chả rồi gỡ vào bát ăn.

Uống rượu, ăn chả cá lại phải chuyện trò rôm rả thoải mái mới lên hương. Không ai đi ăn chả cá một mình bao giờ mà theo cái kiểu "trà ngon phải có bạn hiền". Chả cá đóng vai trò kích thích tửu lượng. Phái uống đến cái mức "ngà ngà" mới hết nhẽ. Nghĩa là hơi "sửa" một chút để thấy mình tồn tại một cách tài hoa và hạnh phúc, thưởng thức những miếng chả cá vàng ươm thơm tho, béo ngậy, cọng hành tươi mát, củ lạc bùi đậm đà, thưởng thức chén rượu ngon, say sưa tình bạn, say sưa cái không khí ngào ngạt đầy chất đời, say sưa cái chợ cá bên sông nước xưa kia của cha ông, mờ mờ nhân ảnh. Cái bí quyết của chả cá nằm trong việc lựa chọn các con cá lăng, cá chiên, cá anh vũ và việc ướp cá với chút muối và nước nghệ trong veo. Lẽ dĩ nhiên, quạt chả cũng rất khó. Làm sao cho cá nát mà cũng không khô xác. Miếng chả phải "khuôn mặt". Nhiều người ở các tỉnh xa về, những đoàn Việt kiều về quê không thể bỏ qua món chả cá Hà Nội mà nổi tiếng nhất vẫn là chả cá Lã Vọng. Thủ đô ta có chùa Một Cột, có hồ Hoàn Kiếm, có nghệ sĩ Quách Thị Hồ hát ả đào nổi tiếng trong và ngoài nước, thủ đô Hà Nội còn có món chả cá…

BÀN VỀ GIA VỊ
Gia vị là những cái thêm vào, định vị cho món ăn để đạt được hiệu quả cao nhất, có nghĩa là phải thêm vào những gì và như thế nào một cách thích hợp để làm cho món ăn trở nên thật hấp dẫn. Nếu có gia vị hợp lý, ta có thể có được nhiều món canh cá. Nhưng nếu không có gia vị thì chỉ có một món cá luộc. Có gia vị các món ăn sẽ được thay đổi cung bậc và sắc thái, nâng giá trị món ăn lên, hoặc cũng có thể làm giảm chất lượng món ăn đi nếu dùng gia vị không khéo. Gia vị phải thích hợp với tập quán, sở thích, khí hậu, sản phẩm của từng địa phương. Nó phải chịu được thử thách và được sự công nhận rộng rãi với một thời gian lâu dài và qua nhiều thế hệ. Vì nếu không như vậy, gia vị không ăn ý được thay thế ngay. Ở phương Tây, người ta gọi gia vị là cái để “làm vui miệng". Thịt bò xào, hoặc thịt bò dùng cho phở tái không thể thiếu được gừng. Nước dùng phở bò không thể thiếu được những củ gừng được nướng cháy bên ngoài và được đập dập ra. Gừng làm át đi vị gây, hôi của thịt bò. Nhưng chúng chỉ bị át đi chứ không bị tiêu diệt. Điều rất tế nhị là ở chỗ này. Trong thùng nước dùng phở có xương bò, thịt bò, sá sùng, tôm he, chất ngọt thực vật v v… là những chất định lượng. Gừng nướng trong nước dùng là chất tán hương. Nó bay lên, thơm ngào ngạt từ đầu phố đến cuối phố.
Cà tím, xào thịt ba chỉ phải có tía tô thái mỏng. Bánh đúc cua phải có ngay bên cạnh đĩa gia vị gồm rau ngổ, thân cây chuối thái mỏng và một chút kinh giới. Một chút thôi.
Rau muống xào có tỏi ăn với kinh giới. Rau muống luộc chấm với nước mắn chanh ớt. Nước rau luộc có lá me hoặc sấu. Thịt chó luộc phải ăn với húng chó (húng giối), vài lát giềng. Thịt chó vốn nóng, húng làm cho dịu lại. Húng chó vừa thơm vừa điều chỉnh vị thịt chó. Có khi dùng cả củ sả, mơ tam thể. Nhựa mận phải có mẻ ăn các loại trai, sò, hến phải có rau răm, xương sông, lá lốt. Ba ba, ốc nấu với chuối xanh, dọc mùng và đậu rán, phải có chút mỡ và nước nghệ làm cho những miếng đậu và những miếng dọc mùng có mầu hổ phách. Mầu hổ phách đậm nơi đậu và nhạt nơi dọc mùng. Có nơi dùng kèm những sợi tía tô là hợp lý. Thịt lợn luộc phải có cả bì lẫn mỡ, ăn với giá sống, ngổ, chấm nước mắm chanh ớt.

Bánh cuốn Thanh Trì ăn với ruốc bông chả quế cùng mấy nhánh mùi chấm nước mắm cà cuống. Bún thang nên ăn với chút cà cuống hoặc mắm tôm nhẹ. Nhưng chỉ được dùng một trong hai thứ đó. Trên đĩa thịt gà luộc nên có vài sợi lá chanh. Con gà cục tác lá chanh là vậy. Trên mặt đĩa tiết canh phải có chút lạc giã nhỏ, vài miếng gan, rắc hồ tiêu cùng với mấy cánh húng quế ăn gỏi phải có mấy quả sung hoặc lá sung non. Thịt băm được bọc bằng lá xương sông. Nem chua bọc bằng lá ổi. Cá luộc phải có vài củ hành để lá dài. Cháo gà phải được rắc hồ tiêu, hành hoa và rau răm thái nhỏ. Bún chả và nem rán (chả giò) ăn với rau muống chẻ nhỏ, rau xà lách, canh giới, tía tô, chấm với nước mắm dấm ớt. Thịt bồ câu hầm với hạt sen, nấm hương, thịt lợn băm, cho có đủ mùi vị của trời, nước, rừng, đồng. Thịt cừu dê, bò tái chấm với tương gừng. Dấm cá, dấm ốc phải có thìa là. Chả cá ăn với mắm tôm vắt chanh mới dậy mùi. Món ếch có thể là nấu với măng hoặc tẩm, rán. Gia vị của món ếch là nụ mướp hoa, lá sung. ếch đặc biệt bổ đối với phụ nữ. Dân gian ta đã có câu: nam lươn nữ ếch. Món lươn có thể om hoặc xào. Gia vị của nó là nghệ, hành củ, lá ổi, ớt. Lươn là một vị thuốc tráng dương bổ thận. Ngay cả bánh dẻo và bánh nướng Trung Thu, nhân bánh đều phải được chọn với gia vị. Đó là những sợi lá chanh thái rất nhỏ (lá non) nhưng thính những sợi lá chanh nhỏ đó làm cho bánh trở nên đặc sắc hơn lên. Thợ làm bánh cỡ sư phụ mới được pha chế sợi lá chanh vào nhân bánh. Rau canh giới vừa là gia vị, vừa là một vị thuốc. Nó thơm vừa phải, không bốc mà cũng không bị chìm đi ngay nó có vị ngọt nhẹ hơi cay nơi đầu lười. Nhưng cái cay này lại rất thú vị. Nó vuốt ve vị giác. Quả cà vừa là thức ăn, vừa là một thứ gia vị. Trong bữa ăn có rau muống, canh khoai, canh cải cúc mà không có mấy quả cà là kém ngon. Dư vị của quả cà gây ra một cảm giác lạ trong khi ăn. Nghệ thuật ẩm thực là rất quan trọng. "Thực nhi trí kỳ vị" là một điều hạnh phúc. Tinh tường về nghệ thuật ẩm thực và chế biến ra được nhiều món ăn ngon phải có đầu óc nhạy bén, sành điệu, tưởng tượng, lãng mạn và có tâm hồn nghệ sĩ. Gia vị là những chất thêm vào cho một món ăn. Bàn tới văn hoá ẩm thực là chuyện lớn. Khi ấy không thể không nhắc tới gia vị trong bữa tiệc, bữa cơm gia đình.

NƯỚC LỌ CƠM NIÊU
Một thời, nước lọ cơm niêu đã trở thành mốt. Sau này, nhạt dần nhưng nó vẫn là một nét đẹp trong lịch sử văn hoá ẩm thực. Đó là vào quãng những năm 1939 -1940, xã hội có những đợt sóng báo động mạnh. Nước Pháp bị Đức thôn tính, chiến tranh Thái Pháp. Thực dân Pháp đàn áp khốc liệt các cơ sở cách mạng. Bộ máy cai trị của Pháp trở nên lỏng lẻo. Các cơ sở cách mạng của ta hoạt động mạnh. Đâu đây cũng có những lớp học của Hội truyền bá quốc ngữ và các cơ sở tổ chức lực lượng cách mạng. Nhiều người có tâm huyết, đi tìm cách mạng. Nhiều người rủ nhau lên chiến khụ. Nhiều người ngơ ngác, trông chờ vào một điều gì đó sắp xảy ra không cụ thể. Cũng có những người nghĩ đến chuyện: “Ra đi không hẹn có ngày mai"? Có những người sống tiêu cực. Lại thêm, kinh tế gặp khó khăn… Đó đây vang lên vài lời thơ của Thế Lữ: "Non nước đang chờ gót lãng du Đâu dây nghe tiếng vọng chinh phu Lòng em phơi phới quên thương tiếc Đưa tiễn anh đi chốn hải hồ". Đúng vào bối cảnh ấy, nước lọ cơm niêu ra đời.

Ở Hà Nội có ba cơ sở bán nước lọ cơm niêu. Một ở ngõ Hàng Dầu, một ở Hàng Giấy, nhưng đáng kể nhất là ở phố Đinh Liệt, nay ở vào khoảng gần phía sau Nhà hát kịch Hà Nội. Đó là một cái nhà kho rộng bỏ không. Trong nhà ánh sáng lờ mờ. Cửa hàng luôn thuộm, chẳng có biển đề, cũng chẳng đề cũng chẳng có quảng cáo. Khách ra vào lầm lỳ chẳng nói năng gì. Khách ăn chỉ việc đưa 7 hào rồi lấy ra một suất nước lọ cơm niêu được đặt trên một cái mẹt tre, rộng chừng 20 cm. Khách cầm cái mẹt, tự tìm lấy một manh chiếu nhỏ hoặc một cái đòn ngồi rồi ra ngồi một mình ở một góc tuỳ ý. Suất ăn trên mẹt gồm có: một niêu cơm nhỏ, một chiếc đũa cả ngắn, một đôi đũa nhỏ và ngắn kiểu đũa ăn rượu nếp và bốn cái chai nhỏ có sức chứa chừng 20 ml và được đậy kín bằng chiếc nút bấc… Trong niêu nhỏ có chừng hai bát cơm đã được thổi sẵn trong một nồi to. Cơm được đong vào niêu, ở giữa là các thức ăn gồm: một miếng thịt bò om, một miếng thịt gà mái có da vàng, một miếng thịt lợn rán có đủ cả bì, mỡ và nạc, một miếng gan xào, một dúm trứng cáy hoặc tôm nõn, hai cánh nấm, một cánh một nhĩ… Tất cả được rưới lên một chút nước đậm có hạt tiêu. Cơm được thổi bằng gạo tám thơm và tám xoan. Mỗi loại gạo chiếm một nửa. Vì gạo tám thơm có vị thơm đậm đà. Nhưng gạo tám xoan lại có vị thơm sắc sảo. Cơm gói các món ăn ở giữa. Chiếc niêu được đệm một tờ giấy rồi được nắp vung đậy lên cho kín hơi và được hâm nóng cách thuỷ 4 chiếc chai nhỏ đặt trên mẹt đựng 4 phụ gia cho bữa ăn. Chúng gồm một chai nhỏ nước canh như kiểu nước suýt, một chai nhỏ có nước mắm cà cuống, một chai nhỏ đựng rượu ngang và một chai nhỏ có chừng hai ba ngụm nước trà. Như vậy là đủ mùi vị cho một bữa ăn đối với một kẻ giang hồ, kẻ độc thân, kẻ đang có điều gì phiền muộn hoặc cho một kẻ lãng mạn, muốn cái điều: “Một mình làm cả cuộc chia ly". Lại đáp ứng được cái thưởng thức mùi vị cô đơn, buồn vu vơ, muốn được thoả mãn trí tò mò, lập dị…

Khách ăn cầm lấy chiếc đũa cả ngắn đập vào cái niêu Thổ Hà đỏ au mới toanh lên một tiếng "bốp". Chiếc niêu vỡ ra, bữa ăn được bắt đầu. Khách ăn thật thoải mái, sung sướng được có cái thú tự tay mình đập phá một cái gì đó làm vui. Cũng như cái cách thức ở bên phương Tây mở chai sâm banh, đập tan một cái cốc trong bữa tiệc lấy may. Hoặc như khi một con tàu hạ thuỷ: người thuyền trưởng được cái quyền ưu tiên là đập vỡ một chai sâm banh…

Ăn uống xong, khách ăn chỉ lẳng lặng ra đi, phủi ống quần, mục thi vô nhận, ra ngoài đường, nhập vào phố xá bụi bậm và ồn ào… Thực ra, gọi là nước lọ cơm niêu cho có vẻ "thương cảm" một chút. Khách trả cho bữa cơm này mất 7 hào trong khì một đĩa cơm rang thập cẩm gọi là cơm Hoa Kỳ ăn no được ở quán ăn Mỹ Kinh hoặc Đông Hưng Viên tại Hàng Buồm chỉ phải trả có 3 hào. Trong một thời gian ngắn, nước lọ cơm niêu đã trở thành một cái mốt. Người đánh tiếng cho nhau, mách nhau, đưa nhau đi ăn… Một số nhà văn, nhà báo vẫn rủ nhau đi thưởng thức mỗi khi lĩnh được chút tiền “văn chương”. Đã là mốt mà nhất là lại là mốt ẩm thực thì nó luôn luôn thay đối và nhõng nhẽo. Đến gần cuối năm 1940, cái mốt này cũng bị nhạt dần rồi bị lãng quên. Tuy vậy, "nước lọ cơm niêu" cũng khá đặc sắc. Nó cũng ghi được vài dòng khiêm tốn trong văn hoá ẩm thực của Việt nam.

RƯỢU
Người ta bàn tán về rượu cũng như bàn tán về tình yêu thật không bao giờ cạn. Cổ, kim, Đông, Tây đều vậy Trên thế giới, chẳng có dân tộc nào không dùng rượu. Nghĩa là rượu có mặt trong sự tồn tại của con người. Mỗi dân tộc cất rượu theo kiểu cách của mình. Nhưng họ vừa uống rượu bản địa, lại vừa uống rượu nhập từ nước ngoài. Có vô vàn loại rượu nặng, nhẹ khác nhau, đắt rẻ khác nhau. Việc thưởng thức cũng khác nhau tuỳ theo khẩu vị, sức khoẻ và tập quán dân tộc. Ở nước ta cũng có nhiều loại rượu, có những loại được để ý nhiều như: Rượu làng Mơ, rượu làng Vân, rượu tăm, rượu cần, rượu đế, rượu Lúa Mới, Thanh Mai, Mơ Hương Tích, Cà phê v.v…

Vào khoảng những năm 1930 có rượu Phôngten 40 độ, rượu Văn Điển 35 độ. Những loại rượi sản xuất thủ công và không có giấy phép, thường được gọi là rượu lậu, rượu quốc lủi, rượu ngang lúc nào cũng có và được dùng đại trà. Đáng kể hơn cả là rượu làng Mơ có chiều dày lịch sứ chừng 6, 7 trăm năm. Quê hương nó ở phía Nam quận Hai Bà Trưng, vào khoảng Bạch Mai Hoàng Mai Hoàng Văn Thụ Trương Định ngày nay. Xưa kia, những nơi này là cả một rừng mơ bát ngát. Dân nơi đây chuyền nghề nấu rượu mơ, bán đi khắp nơi.

Rượu làng Mơ đã trở nên rất nổi tiếng. Nghề nấu rượu ở đây được giữ bí mật, cha truyền con nối. Không đâu có rượu ngon hơn. Rượu Mơ được gọi là "Công chúa của các loại rượu. Nó thanh cao, tinh khiết, tươi mát, thanh bạch, say dịu… Uống loại rượu này mà có kèm đồ nhắm là hỏng bét, là "ẩm bất chi kỳ vị". Uống rượu mơ chỉ uống với mấy quả mơ xanh, tươi, giòn mà thôi. Trong "Luận anh hùng" ở Tam Quốc, Tào Tháo và Lưu Bị uống rượu mơ với mơ xanh. Họ lấy đũa gắp mơ rồi cầm lấy ăn nhấm nháp. Trong màn kịch "Chung Vô Diệm phó hội kỳ bàn", Ma Tấn đấu cờ với Chung Vô Diệm cũng uống rượu mơ và ăn mơ xanh. Họ uống một hớp nhỏ rồi một lát sau mới ăn mơ, chứ không ăn ngay vì còn muốn kéo dài cái dư vị thơm của rượu mơ dâng lên, đánh võng trong Cổ họng. Rượu tăm đã nổi tiếng với những lời ca dao thắm thiết: "Đố ai đánh võng không đưa Ru em không hát anh chừa rượu tăm…" Nghĩa là không bao giờ anh chừa uống rượu tăm cả. Hoặc như: "Tặng em một thúng xôi dền Hai con gà béo với vò rượu tăm…" Trong mấy món quà tặng này, vò rượu tăm là đáng giá nhất. Rượu tăm là rượu cất nước thứ nhất. Nếu cất 10 lít rượu thường thì chỉ được có một lít rượu tăm mà thôi. Nó ngon hạng nhất, nhưng sao lại gọi là rượu tăm. Người ta cho rượu tăm vào một cái chai. Rượu không được rót đầy và phải bịt kín miệng. Người ta lắc mạnh chai cho rượu sủi tăm lên. Tăm rượu bốc mạnh như reo. Khi để chai đứng yên, các tăm rượu lặn ngay lập tức. Đó là dấu hiệu loại rượu tăm chính cống.

Ngày xưa, không ai dám nấu rượu trong nhà vì nếu nhà chức trách bắt được các đồ nghề nấu rượu trong nhà thì chủ nhà lập tức phải đi tù. Người ta nấu rượu ở nơi bí mật kín đáo. Nếu chẳng may bị lộ, họ liền bỏ của chạy lấy ngưòi . Thủ phạm sẽ không bị bắt. Loại rượu này đặc biệt ngon, có độ nặng nhẹ khác nhau theo sở thích người uống. Có điều nó có phong vị riêng biệt đủ đánh bại các loại rượu để trở nên có tiếng một cách lâu dài và vững chắc. Rượu cẩm phổ biến ở các miền rừng núi. Rượu chỉ có chừng 12 độ nhưng khi uống phải hít mạnh, uống nhiều cũng dễ "đổ”.

Uống rượu cần, nhiều người cùng uống một lúc qua chiếc cản hút của mình. Người uống rượu cần uống đến say mới đúng kiểu. Lúc đó, họ mới có được những lời nói xuất thần. Lúc đó, người ta yêu đời, yêu mọi người trong cộng đồng. Niềm vui được nhân lên và sự say sưa cũng được bốc lên với những tiếng cồng, tiếng chiêng. Chính những tiếng vang trầm hùng ấy thúc giục người tacàng say sưa, uống thêm nhiều nữa. Nơi nào tổ chức uống rượu cần mà không bố trí có tiếng cồng tiếng chiêng xen vào là mất đi một nửa cái đẹp truyền thống. Người uống rượn cần thả hồn vào men say của rượu và vào tiếng cồng tiếng chiêng ngàn xưa vọng về. Rượu vò là rượu ngon để trong vò sành, chôn xuống đất một thời gian mới mang lên uống, được gọi là rượu hạ thổ. Rượu làng Vân là loại "rượu mộc" không cần gia công (hồ) cũng có tiếng một thời. Nhưng loại rượu ngang được các cô gái làng rượu xưa kia mang đi bán rong khắp nơi. Họ phải lánh mặt những người thực hành pháp luật. Cô gái bán rượu buộc chiếc bong bóng trâu vào bụng mình. Trong chiếc bong bóng to ấy còn có một chiếc nhỏ hơn. Cả hai đều chứa rượu. Một loại rượu thường và một loại đặc biệt hơn. Cả hai đầu bong bóng được nối với hai vòi hút bằng ống sậy chĩa ra phía ngoài. Ngày xưa, cô gái Hà Nội đi bán rượu mặc chiếc áo màu gụ để che lên, thắt lưng bao xanh vắt vẻo để nguỵ trang, ra cái điều cô gái có mang. Cô bán rượu theo hai phương thức. Trong tay cô có chiếc chén, cô rót một chén cho người uống ngay tại chỗ. Phương thức thứ hai dân dã hơn và cũng nhuốm màu sắc phong tình, cô kéo tà áo lên chìa cái vòi hút ra ngoài. Khách ngậm miệng vào vòi hút, tu từng hơi một. Mỗi một hơi là một ực, ba ực là một cút, ba cút là nửa chai, sáu cút là một chai. Cứ thế mà tính tiền. Cô có thể cho khách uống từng ực một ở ngay bên cạnh đường, bên bụi tre hoặc bất cứ nơi đâu. Ở trường hợp này, khi khách đã uống độ một hoặc hai ực và tiếp nữa sẽ ngà ngà say. Khách có thể cợt nhả, chòng ghẹo đôi lời. Thậm chí có “chấm mút” tý chút, cô hàng rượu cũng mỉm cười ý nhị, rộng rãi và cho qua. Có điều cô sẽ tính tiền rượu cao lên vì những lời nói và hành động lẳng lơ đó. “Cửa hàng, bán và uống rượu độc đáo này có lẽ chỉ có ở Việt nam, Hà Nội trước đây ba, bốn thập kỷ.

NGƯỜI HÀ NỘI UỐNG RƯỢU
Người sành rượu, trước hết cầm lấy chai rượu, ngắm một lát, như say đắm, như vuốt ve chai rượu, thận trọng mà âu yếm nồng nàn như kiểu ngắm một cô gái đẹp. Anh ta lại đặt chai rượu xuống. Tay nắm chặt chiếc chén trong tay, ươm ướm. Chén uống rượu không có tai, có thể là chiếc chén Bát Tràng, chén ở lò ông Thiếu hoặc chén cổ có men sáng, dưới đít chén có chữ Nội phủ. Quanh chén có vẽ chút thuỷ mặc và hai câu thơ: Vị thuỷ đầu can nhật Kỳ Sơn nhập mộng thân. Ta rút cái nút chai cuộn bằng lá chuối khô ra, ngửi ngấn rồi rót rượu ra chén. Thế là rượu hiện ra, dìu dịu, trong suốt, sạch bong, tươi mát.
Rượu có khuôn mặt sống động, xao xuyến, bao la như một bản tình ca. Có thể là độc ẩm uống một mình hoặc là đa ẩm uống với nhiều người. Trong mấy người uống rượu với nhau, người ít tuổi hơn phải giữ ý. Khi nâng chén, không để chén của mình cao hơn chén của người nhiều tuổi hơn mình. Tay nâng chén rượu, người ta tợp một hớp thật nhỏ, khi chép miệng rồi mới uống tớp đầu tiên, tớp thứ hai. Người ta thấy tinh thần phấn khởi. Nỗi mệt nhọc được giảm đi nhẹ tênh. Người ta quên đi mọi buồn phiền, mọi sự trong cuộc sống. Tự biến mình từ nô lệ của cuộc sống vật chất sang tự do. Người ta chuyển thực tế vào mộng một cách dễ dàng và êm ả. Khi uống với bạn bè, người ta cùng uống, cùng say để tỏ tình thật với nhau, uống cho sự giao ước, hứa hẹn được bền vững. Con quỷ tinh nghịch trong rượu trở về những ngày vàng son xưa. Họ trở nên dịu dàng, chan hoà, vui tươi… Người sành rượu phải tri kỳ vị (biết vị của rượu); tri kỳ hương (biết hương thơm của rượu); tri kỳ ảo (biết sự huyền ảo); tri kỳ linh (biết cái linh hồn của rượu)… Người ta uống nếm, uống thưởng thức, uống lấy say, uống kiểu chén thù chén tạc: là uống kiểu hai người: chủ và khách. Bên chủ là bên "tạch", có nghĩa là chúc mừng. Bên khách là bên "thù" có nghĩa là uống đáp lại. Người ta uống đứng, uống ngồi, uống ngồi xổm, vừa đi vừa uống…

Người đàn ông lý tưởng một thời xưa kia phải là người tài hoa, phải biết cầm (đàn hát), kỳ (đánh cờ), thi (làm thơ), hoạ (vẽ)… Nhưng lại phải biết cả tửu (uống rượu) mới là trọn vẹn. Tửu cũng chiếm một địa vị quan trọng. Những người cầu kỳ hoặc tao nhân mặc khách yêu cầu khi uống rượu phải có một không khí xung quanh "ngon"" người uống với mình phải "ngon", rượu phải ngon, thức nhắm phải ngon. Người giàu có uống loại rượu đắt tiền hơn và có kẻ hầu người hạ làm các món nhắm. Người có chữ nghĩa, vừa uống rượu vừa làm thơ phú, đọc cho nhau nghe những áng văn hay. Có khi họ vừa uống vừa thưởng thức giọng hát ca trù của các đào nương. Họ đưa sáng tác của họ để các đào nương trình bày…Cảnh nghèo thì uống "xếch". Cũng có khi với quả sung, quả ổi hoặc quả ớt cũng xong, gọi là rượu nhạt, rượu uống. Trong những bữa rượu, người ta xếp những người ngang lứa tuổi vào với nhau, những người có chức sắc hoặc bình dân vào với nhau. Nhưng khi uống rượu kiểu "chén chú chén anh" thì thật thoải mái, bình đẳng. Chẳng phải giữ kẽ gì có khi họ tìm thấy một vài chút xương xẩu, sụn gì đó… thì tha hồ mà mồm nhai, tai nghe đó là cái thú dân dã và đặc biệt. Cũng có nhiều kiểu say: Say tàng tàng, say khướt, say khướt cò bợ, say tít cung mây, say tuý luý càn khôn, say mềm, say mê mẩn đời, say ngà ngà, say không biết trời đất là gì v.v… Lẽ dĩ nhiên cũng thường có chuyện: "Rượu vào lời ra" hoặc quá chén mà xảy ra những điều đáng tiếc. Ở thời xa xưa, những người dân ở vùng cao đều uống rượu cần. Mọi người uống tập thể từ một vò rượu. Nhưng rồi có một số di dân xuống vùng đồng bằng, họ có khung cảnh sống mới, tiếp xúc với nhiều cải tiến mà không uống rượu cần nữa. Họ quên kiểu uống rượu này đi. Nhưng những người anh em của họ ở lại miền cao vẫn còn giữ được cái nếp uống rượu cần. Tính cộng đồng của việc uống rượu cần rất cao. Họ cũng vui với nhau, sống cùng nhau và cũng chết cùng nhau.

BÁNH BÈO
Đó là từ đời nhà Lê, cứ xuân thu nhị kỳ, nhà vua và một số quan đại thần đến đền Thừa Lương (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà) để chuẩn bị làm lễ tế trời đất nơi đàn Nam Giao (nay là khu nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo). Nhà Vua thường cho gọi một số quan cận thần đến dự tiệc. Ở xung quanh khu vực này có nhiều hàng quán sang trọng, có phường làm rượu nổi tiếng làng Mơ và phường Kim Liên là nơi tập trung bán những món ăn ngon. Nơi đây, có nhiều người nấu cỗ và làm bếp Vân Hồ ở mức đại sư nổi tiếng khắp kinh thành. Tuy vậy, nhà Vua và các quan đại thần vẫn cảm thấy không ngon miệng trong các bữa yến tiệc tưng bừng, thừa thãi và cao sang. Điều này làm cho quan ngự thiện rất đau đầu. Ông lo lắng, vội vàng đi tìm những tay đầu bếp giỏi quanh vùng. Sau cùng, ông hỏi thăm vào một căn nhà nhỏ của ông già họ Trịnh ngay ở Ô Cầu Dền. Ông già này nổi tiếng là một người làm bánh bèo ngon. Ông không phải mang bánh đi bán như nhữngngười khác mà khách mua cứ lũ lượt kéo đến nhà để mua bánh của ông. Nghề làm bánh bèo của ông đã qua. Bánh bèo gói 3 lá chuối. Lá bên trong cùng, nhất thiết phải là lá chuối tây để nó làm cho bột bánh khi chín có được màu ngọc thạch. Lá bọc được bẻ hơi khum khum lại trong một chiếc khuôn tre để bánh mang dáng hình chiếc thuyền bồng bềnh. Cũng có thể gọi nó là một cánh bèo lớn nên gọi là bánh bèo. Tên chữ của nó là Bình cao (Bình là bèo). Bột làm bánh gồm hai loại tẻ: tám thơm và tám xoan giã thật nhỏ, mịn. Hạt gạo phải nhỏ, đều và khôn mặt. Bột bánh bèo không xử lý sang dạng bột lọc để nó giữ được một màu trắng da thịt. Bột lọc trong suốt, gần như hết mùi trần tục và bị chắt lọc nhiều lần nên nó mất đi nhiều chất quý giá của hạt gạo. Cũng tức là mất đi cái hương đồng gió nội của nó. Còn bột bánh bèo sau khi được giã mịn, được giữ nguyên tất cả để thành bánh. Do đó, nó giữ được tất cả những gam màu chân chất của gạo nên có mùi vị đậm đà. Bột bánh bèo là cô gái chân quê mơn mởn, dũng cảm, tự tin, không cần son phấn. Nó sống hết mình, hết cả đời gạo để hiến cho cuộc đời tất cả những tinh hoa, tinh khiết và ngay cả những gì còn non kém, ngây thơ mà chân chất của nó. Bột bánh bèo được cho vào một tỷ lệ muối, nước và hàn the hợp lý. Thần tình là ở chỗ người chế biến biết điều chỉnh hợp lý được cái hình tam giác nước, muối và hàn the này. Nếu ba cạnh của hình tam giác không hài hoà được với nhau, tỷ lệ này quá một chút hoặc kém một chút, đều không thể có bánh ngon. Trên mặt bột được rắc lên những cánh nhỏ hành hoa xanh ngắt xào qua mỡ và chừng 9, 10 miếng tóp mỡ màu vàng đậm. Như vậy là những cánh hành hoa nổi như những cánh bèo hoa dâu nổi lên trên mặt hồ màu ngọc. Tóp mở phải được xử lý riêng từ một mảng mỡ hoa để có những lát dày, mỏng như nhau, không cháy quá, cũng không non, chỉ hơi giòn sần sật và có toát ra chút mỡ nước. Đây là cả một pa lét pha màu của một hoạ sĩ tài hoa. Quá trình hấp bánh cũng rất công phu. Nồi cách thuỷ ở dưới, trên là cái chõ được xếp những chiếc bánh. Giữa hai nồi này được bịt kín bằng giấy bản để khỏi phì hơi. Trên nắp chõ là một chiếc vung đậy lớn, phải đậy thật kín nhưng cũng phải có một lỗ nhỏ thông ra ngoài, lỗ nhỏ này thường cũng được bịt kín, thỉnh thoảng mới được mở ra một lát. Từ lúc hấp bánh đến lấy bánh thành phẩm ra khỏi chõ, chỉ được mở ra có một lần. Do đó, thông qua cái lỗ nhỏ trên vung mà người làm bánh ngửi thấy mủi thơm của bánh. Từ cái mùi thơm ấy mà người làm bánh lão luyện phải biết được trạng thái chín dậy mùi của bánh là chín vừa đẹp gọi là chín "đừ” mới mở nắp ra. Bánh bèo đạt những tiêu chuẩn: bùi, béo, thơm, ngọt, đậm, mát, hấp dẫn vị giác. Người ta bảo bánh bèo vừa có mùi vị "chay", lại vừa có mùi vị "mặn". Bánh bèo là một nét duyên thầm. Mỗi lá bánh bèo đều được trang bị một con dao bằng tre vót nhẵn, phía lưỡi thật mỏng. Hình con dao này hơi giống chiếc bơi chèo. Người ta dùng con dao này mà cắt bánh, cắm lưỡi dao vào miếng bánh, đưa lên miệng một cách trang nghiêm, hớn hở mà cảm động. Trong một bữa yến tiệc vua ban chất đầy những cao lương mỹ vị, người ta thấy vắng mặt quan ngự thiện. Một lát sau, quan ngự thiện về cùng ông già làm bánh bèo. Họ quỳ xuống rồi thả vào bàn tiệc lớn những lá bánh bèo thơm ngon có hình dáng những chiếc thuyền con. Quan ngự y trình bày về chiếc bánh bèo vừa dân dã, vừa cao sang cùng cách sử dụng con dao tre then thuộc. Bữa tiệc náo nức hẳn lên. Vua và các quan ăn hết tất cả những chiếc bánh bèo và khen ngon, tưởng chừng như chưa bao giờ được thưởng thức một món ngon như vậy. Mọi người nâng chiếc que dao mà nao nao như họ đang sử dụng bơi chèo…Hình như có người từ một cội nguồn xa xăm nào đó vẫy gọi: “Về đây với con sông, chiếc thuyền…" ăn một miếng ngon, người ta lại có một cái gì để thương nhớ… Trước những năm 1940 và còn cho đến những năm 1960, ở vùng chùa Vua và Bạch Mai có mấy nhà làm và bán bánh bèo. Bánh bèo chùa Vua được đánh giá cao. Những gia đình này là hậu duệ của ông già họ Trịnh khi xưa. Bánh của họ cung cấp cho mọi người khắp Hà Nội. Đến nay, món bánh bèo chỉ có mặt ở một số chợ quê mà thôi. Thật đáng tiếc cho món quà bình dân đã gây được tiếng tăm một thùa. Bánh bèo chùa Vua không chỉ là một món quà đơn giản được mọi người ưa thích. Nó là một món quà có hồn, gợi nhớ đến tình cảm truyền thống. Nó có giá trị trong nghệ thuật ẩm thực Việt nam và mang màu sắc triết học.

BÁNH TRUNG THU
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kỳ diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên đán. Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có "nghệ" đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lý mứt bí khẩu, mức sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân… Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến tới nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là "em" của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1980 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường… gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen… Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 78cm, chiều dày 2, 53cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc. có in nhãn hiệu với số nhà, tên phố. Hiệu càng lớn, càng in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc Đặc biệt là các hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng… Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt nam cũng chiếm 70, 90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, ông Long Đồng Kỵ, hoặc ông Lý Bắc Ninh…Sự thật đã có một thời vẻ vang. Các hiệu bánh Tùng Hiên, Tràng Thái, Ngọc Anh, Cự Hương, Việt Hương… Đã nổi danh xa gần ai cũng biết tiếng. Bánh của họ đủ sức cạnh tranh với các hiệu người Hoa như Tây Nam, Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh. Từ kẻ chợ đến vùng quê nhân dân các tỉnh khác không bao giờ quên. Sản phẩm của họ với cái "tạng", cái "gút, Việt nam. Có điều các hiệu của người Hoa chú ý nhiều đến bao bì, quảng cáo hơn. Họ tiếp khách niềm nở với đủ những chi tiết tế nhị và tỉ mỉ. Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng Cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân… bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo ròn, gợi hình mặt trăng, sự tròn đầy. Vào những năm 1989, 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các Hội chợ quốc tế ở Đức và Bungari, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hoá của Việt nam. Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa thu Hà Nội.
TRÀ ĐẠO
Ở Việt nam, chè được trồng từ rất lâu đời. Việt nam cũng là một trong những quê hương của cây chè. Ở những vùng Tuyên Quang, Lạng Sơn, chúng ta đã phát hiện được trên 40.000 cây chè hoang. Có cây bằng cây đa, tán rộng tới 14 mét và gốc cây đến 80cm đường kính. Có cây hai, ba người ôm không xuể. Có những cây chè cổ sống trên 800 năm được tìm thấy ở Suối Giàng. Những cây chè này đã sinh ra bao đời cháu chắt và vẫn thanh xuân. Chè Suối Giàng rất được nước. Màu nước xanh trong trông rất đẹp. Không phải chỉ ở nước thứ nhất mà cả ở nước thứ hai, thứ ba vẫn còn thơm ngon.

Trong lá chè có nhiều hoạt chất khác nhau và còn những chất chưa được biết tới. Kỹ thuật chế biến chè là một nghệ thuật có trường phái mang tính thời đại, chịu ảnh hưởng phong tục tập quán của từng nơi. Chất lượng chè mà chúng ta quen dùng trước hết là do nguyên liệu quyết định. Muốn được chè ngon, chè phải được hái đúng một tôm hai lá. Có khi ba lá. Lá càng già giá trị càng thấp. Từ một loại búp, ta có thể có 4 loại chè: chè đen, chè xanh, chè đỏ, chè vàng. Chè xanh hương thơm ngát, chè vàng vị thoảng qua, chè xanh giữ được mầu xanh trong nước hãm. Nước chè và vị chè cũng nói được tấm lòng bao la của chè. Việt nam ta chỉ sản xuất chủ yếu hai loại chè: Chè xanh và chè đen. Chè xanh hợp khẩu vị nhân dân cả nước. Chè đen để xuất khẩu. Hương chè xanh tự nhiên, rất ngát, tinh tế. nửa mùi rơm khô, nửa mùi hoa hồng và cam, chanh. Khó tả như tình yêu vậy. Riêng chè xanh, có chè xanh để mộc hoặc ướp chè hương sen, nhài, ngâu, sói, bưởi, hương liệu, dược liệu v. v… làm cho hương chè đa dạng. Chè Hồng Đào có hương thơm mạnh, Chè Thanh Tâm hương thơm mát dễ chịu. Thế nào là chè ngon là câu hỏi từ mấy ngàn năm nay mà vẫn chưa có lời đáp thoả đáng. Mà thơm ngon cũng chỉ là những từ rất chung chung, chưa cụ thể. Mặc dầu, nhiều chuyên gia nếm chè quốc tế và những người sành chè khắp nơi cũng đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn ước lệ màu sắc, độ đậm đặc và hương vị chè. Trà có thể uống được ở nhiều nơi: trà vỉa hè ở các quán bên đường, có khi chỉ giản đơn vài chiếc ghế con. Khách uống tính tiền từng chén. Trà góc phố thường ở một gian nhỏ ở góc phố. Gian phòng bày biện một số tranh ảnh cho vui mắt. Chủ nhà biết tính từng loại khách mà mời trà. Có thể là chè Phú Thọ, Thái Nguyên, Tân Cương mốc cau (loại chè ngon trông như có những đốm nhỏ trắng trắng như hoa cau). Trà quán hơi sang trọng gồm vài bàn trà. Khách quen có thể gọi một lượng chè đủ pha một ấm. Chủ quán đưa ra những gói chè để khách chọn rồi mới pha uống. Trà ướp Tĩnh Tâm là loại chè ướp hương sen của những người sống ở Huế, cứ chập tối, ra hồ Tĩnh Tâm thả đầy sen, họ cho một ít chè hảo hạng vào những bông hoa sen nở rồi buộc chặt lại. Đến tang tảng sáng ngày hôm sau, người ta lấy chè, mang về pha uống. Đây là kiểu ướp sen quá cầu kỳ. Lúc pha trà và uống trà còn cầu kỳ hơn. Trà cạp quần là loại chè chọn lọc được xử lý đặc biệt do một số ít người mang từ “đất chè" về bán cho các khách sành "chịu chơi". Loại chè này kén người trao và kén cả người nhận. "Cậy người tài bắc gai ra Kinh kỳ" mà. Trở lại những năm 1930, 1940, ở Hà Nội có các loại chè xanh phối trộn giữa các loại chè có hàm lượng dầu dẻo và hương thơm khác nhau lại để chúng bổ sung cho nhau rồi ướp bằng hương thơm có các vị thuốc bắc tán thật nhỏ. Người ta đựng chè vào những lọ sành, sứ hoặc thiếc… là tốt nhất. Nước để pha trà phải đạt tiêu chuẩn bốn không: không vẩn đục, không màu, không mùi, không vị. Nước ở độ PH5 là tốt nhất. Nước pha trà phải sôi già vừa phải, không được quá sôi. Không nên là nước sôi hai lần. Sôi non lại càng không tốt. Bộ đô trà gồm một ấm pha trà, một chén "tướng" (tống) và vài chiếc chén con hạt mít gọi là chén "quân". Tất cả đều đặt trên những chiếc đĩa nhỏ vẽ rồng, phượng và bày trên chiếc khay bằng gỗ quý chạm trổ tỉ mỉ hoặc khảm trai. Có loại ấm độc ẩm, song ầm và đa ẩm. Trà được đưa vào ấm, róc nước sôi vào thật nhanh rồi đậy kín nắp lại. Nước sôi được giội lên nắp ấm và xung quanh để bên ngoài ấm cũng nóng. Đợi cho trà ngấm, róc tất cả nước cốt ra chén tống rồi pha ngay nước hai. Từ chén tống được chuyển sang các quân sao cho mỗi chén quân có được một nửa là nước cốt và một nửa là nước hai. Uống lúc nước trà còn bốc khói nhẹ. Khách uống từng ngụm nhỏ một để thưởng thức vị và hương trà. Uống trà phải có bạn để còn "huyện tâm tình và thế sự mới gọi là " ảm nhi trí kỳ vị ". Một bò đồ tống trà đẹp thường được bàn tán và được truyền từ đời nọ đến đời kia. Có khi gia đình túng quẫn cũng không chịu bán đi. Như vậy, khi uống trà lại nghĩ đến người xưa, bàn đến chuyện cũ. Người sành trà trước hết là biết chọn chè, giữ chè được ngon lâu, không già trước tuổi, kén bộ đồ trà, kén nước pha trà, dùng lượng trà vừa phải và cách pha trà có bài bản không ai chê được. Nghĩa là rất nghệ thuật. Người uống trà sành, có nhiều bạn trà thanh lịch ở Việt nam đâu cũng có. Họ cũng được đánh giá cao như những nghệ sĩ có tên tuổi vậy. Bạn trà là những người kết bạn lâu đời, vui cũng gọi nhau, buồn cũng gọi nhau. Thú uống trà là cái thú thanh tao đến thiêng liêng. Nó cũng là một cử chỉ văn hoá lâu đời. Quanh bàn trà là hương khói, là tình bạn, là những mảnh tâm sự, là những chuyện đạo, chuyện đời… Người ta uống trà trong những ngày lễ, tết, hội hè, giô  ky, họp mặt; trong những trường hợp như tiễn đưa, kết bạn, làm quen, suy tính, lo toan, quyết định một điều gì hoặc thấy thân phận mình lâm vào những hoàn cảnh biến đổi khác nhau v.v… Biết cách uống trà và thưởng thức trà cũng là một nghệ thuật.

CHUYỆN BẾP NÚC
Tôi đưa ông bạn vong niên là ông Tư Siêu sống độc thân, 67 tuổi tới một khách sạn có vườn khá lớn và đẹp ở gần Hồ Tây, phía Thuỵ Khuê theo yêu cầu tha thiết của ông chủ khách sạn cũng là bạn tôi. Tiện thể cũng giới thiệu qua về ông Tư Siêu. Sau một cuộc thất tình do hiểu lầm, ông đã bỏ nhà ra đi, lang bạt kỳ hồ ở nhiều nước với nhiều nghề. Nhưng nghề chính mà ông say sưa nhất là nghề làm bếp. Đến 60 tuổi ông mới trở về ngoại thành Hà Nội. Ông tìm được đến ngươi bạn gái thuở xưa thì người đó đã có mấy đứa cháu. Tuy vậy, chẳng lúc nào là bà không nhớ đến ông. Chúng tôi đến khách sạn, ông chủ đã cho tập trung chừng hơn 10 người có tay nghề làm bếp đặc sản đãi chúng tôi. Người đứng đầu cả nhóm là bà Cúc. Bà đã 50 tuổi, son phấn nhẹ, lịch thiệp, nhanh nhẹn và có nụ cười xoa bớt đi nhiều tuổi. Bà Cúc thành thạo về những món ăn cổ truyền thuộc nhiều trường phái: Cung đình, Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Sơn Tây, Khâm Thiên, Thái Hà ấp… Cả những trường phái Tản Đà bà Nhung Hàng Bạc, bà Tuệ phố Hàng Giấy v.v…

Ông Tư Siêu được giới thiệu ngay với nhóm làm bếp với tư cách là một nhà làm bếp bậc sư phụ. Mọi người chỉ mong manh biết ông Tư đã lăn lộn trong nghề làm bếp ở nhiều nước, nhất là ở Pháp, là trung tâm của nghệ thuật ẩm thực. Ông đến nói chuyện với mọi người về một chút công việc bếp núc Việt nam, cho là ông lên lớp cũng được. Ông rút trong túi ra một chai rượu nhỏ do ông tự pha chế, róc ra ba chén. Ông bưng lên miệng, uống một chén trước rồi mới mời chủ khách sạn và tôi thưởng thức. Sau đó, ông kể chuyện với mọi người một cách tuỳ hứng:…

Về nghệ thuật ẩm thực, chúng ta còn nhiều thiếu sót còn phải học các cụ ngày xưa nhiều. Sao ta lại giết cá sống qua đêm để tủ lạnh. Rau tươi lại để ở ngoài trời? Ngoài rượu ra, tất cả các nguyên liệu làm thức ăn phải giữ tươi. Các anh Cao Tử Kiến, Nguyễn Đức Phúc là những bậc đầu bếp mà các bạn làm bếp Pháp và Italia tôn là bậc thầy đã giết một con gà từ lúc cắt tiết đến lúc thành món ăn chỉ mất có 4 phút. Thịt gà tươi nhây nhẩy, ngọt, thơm… Đấy mới là thịt gà miếng này mới xứng miệng người phong lưu.

Anh Kiến biểu diễn một mình giết con gà chỉ cần một chiếc que nhọn. Các bạn người âu gọi anh là người làm "xiếc" trong việc làm bếp… Chúng ta hãy nấu những món ăn Việt nam, lấy kiểu truyền thống làm gốc rồi tinh chế, cải biến cho hợp lý và tinh tế mà khoa học. Những món ăn tiêu biểu của Việt nam như: món bóng, mực, nem, yến, bào ngư vây ốc bún thang, thịt chân giò luộc, các món canh v.v… đều có thể "lên ngôi" được, đầy đủ làm cho ai cũng mê, các bạn nước ngoài phải thèm thuồng, kính nể. Chúng tôi đã làm những món đó theo kiểu đặc biệt ở nhiều nước. Cũng những người bạn nước ngoài lại là những lời đầu tiên phát hiện ra giá trị đích thực của chúng. Những người Việt nam sành ăn cũng mê món ăn dân tộc. chỉ họ mới biết. Và món ăn dân tộc luôn tồn tại đến tận bây giờ ở các mâm cỗ Việt nam, tức là chúng cũng dược đông đảo nhân dân yêu quý. Điều này rất có ý nghĩa. Người làm bếp phải "tri vị" và "tri nhân". Cùng với việc nâng cao chất lượng các món ăn, cũng cần đặt cho các món ăn những tên hay và đẹp như đặt tên những cuốn tiểu thuyết vậy. Ở Sơn Đông Trung Quốc, người ta gọi cháo lòng là canh hoa. Một đĩá nhỏ có 3 viên nhân hạnh trắng như ngọc gọi là món "ngân hạnh gió quê". Món canh hoa hòe được gọi là món "xào xạc hoa hòe"… Ta cũng có thể có món "gà phù dung", "cá nước đợi chờ”…Ngày nay, mái tóc cũng có kiểu "ngây thơ, lúng hấng, man dại"… Cây thế cũng có thế "phụ tử", thế "chờ mong"… Ông bỗng dừng lại, hỏi mọi người: "Điều khó nhất trong việc làm các món ăn là gì nào?" - Chọn nguyên liệu - Thái, sắt, băm… - Giữ tươi thời gian không dài quá hoặc ngắn quá… - Không phải. Đó là việc cho muối. Việc này giản đơn nhất nhưng cũng phức tạp nhất. Nó giữ nhiều bí mật nhất. Cỗ của người Hà Nội nhạt hơn cỗ của người Bắc Ninh và Sơn Tây. Có người bảo cỗ của người Hà Nội sang trọng nhưng không đậm đà… Không phải thế, Hà Nội cho muối vào thức ăn rất tài tình. Muối có thể "cheo" mọi vị lên. Nếu như món canh cá mà không được cho muối đúng mức, nhạt quá thì vô vị. Nghĩa là sẽ không có một vị gì cả. Khi được cho đủ muối thích hợp thì tất cả mọi thành phần trong món canh hoặc món ăn nào đó đều dậy mùi. Mỗi thứ dậy theo kiểu độc đáo riêng và hoà vào, ăn ý với các món khác. Sau khi muối đã làm cho các món ăn được nổi đình đám, nó rút vào ở ẩn, chẳng ai biết đến. Trừ phi muối được cho quá nhiều, món ăn bị mặn thì muối sẽ bị lộ. Mà như vậy, bao nhiêu công lao như thái thịt, chọn nguyên liệu v v… đều vứt đi hết. Vào tiệc, món đầu tiên sẽ cho hơi mặn một chút. Nếu nhạt là thất bại. Vì lúc khách mới bắt đầu ăn, miệng còn nhạt. Trong cơ thể khách cần chút muối. Những món tiếp sau phải nhạt dần. Nếu như trong bữa tiệc có trên mười món, thì món canh cuối cùng không cần cho muối. Khi chan canh, vẫn thấy đậm đà, ngon lành, tươi mát. Hơn nữa, vào lúc này, khách ăn cần chút nước. Trong lịch sử truyền miệng của ẩm thực có nói: Một bữa nọ, bữa tiệc kéo dài 6 tiếng đồng hồ, ông sư phụ nhà bếp mệt nhoài và buồn ngủ. Ông quên không cho muối vào canh. Nhưng bát canh lại trở nên tuyệt vời, được tất cả mọi người khen. Âu cũng là một sự khám phá…

Anh bạn chủ khách sạn của tôi quả là có con mắt tinh đời. Anh đã chọn được bà Cúc làm cố vấn ẩm thực. Bà Cúc vốn là con gái của một công chức cao thời Pháp thuộc. Năm 1953, người công chức ấy sang Pháp, gửi người em trông nom đứa con gái mới lên 9 tuổi Nhưng rồi sau không có tin tức đi lại gì nữa và người em cũng lâm vào cảnh khốn quẫn. Cô gái lớn lên dần và phải làm đủ nghề: phụ bếp, nấu ăn thuê, gái nhảy, hát ả đào, thợ thêu, bán bún ốc v.v… Khi hoà bình lập lại, cô chuyên làm bếp cho nhiều cửa hang ăn. Đời cô cũng vào Nam ra Bắc nhiều lần. Cô có nhiều tài lẻ và được mọi người gọi là "tiên nữ". Nhưng, đường tình duyên của cô lại gặp quá nhiều không may mắn, cho đến tận giờ khi cô trở thành bà Cúc. Điều này là vì sao? Chỉ có mình bà và những người thân biết mà thôi. Vì bà có nhan sắc, lại luôn nở nụ cười duyên dáng, ăn mặc rất "mốt". Người ta gọi bà là "chuyên gia ăn"… Bà luôn luôn sáng tạo ra những món ăn độc đáo. Một buổi chiều tối, khách sạn có một bữa tiệc. Khách dự có mấy người nước ngoài. Ông Tư Siêu mặc sang trọng, thắt "nơ" đến dự. Chủ bếp là bà Cúc mặc bộ đồ kếp dỏ đón khách. Bữa tiệc gồm toàn những món ăn Việt nam được bà nâng cao. Thật là một bữa tiệc đặc biệt. Anh bạn Foumier chạy ngay ra vườn, ngắt một bông hoa tặng bà Cúc: "thưa bà, bữa tiệc ngon đến nỗi không thể nào quên được. Tôi đã được ăn ở nhiều nước. Những món ăn Việt nam không thua bất cứ nơi nào trên thế giới". Khách ra về trên con dường rải sỏi giữa vườn đầy hoa lá rồi qua thiếc cầu gỗ. Không gian mở rộng, phảng phất mùi hoa… ông Tư Siêu nán lại, nói chuyện mãi với bà Cúc đến tận rất khuya. Có lẽ trong một đêm tuyệt vời ấy chỉ dành cho hai con người, hai tâm hồn đồng điệu.

BÚN ỐC HÀ NỘI
Bún ốc là món ăn rất phổ thông, vừa bình dân, vừa sang trọng. Bún ốc Hà Nội nổi tiếng khắp miền, quê hương của nó là làng Hương Thượng (thuộc Hà Nội). Người truyền nghề đầu tiên cho mọi người là một bà dòng dõi cao sang ở ẩn. Bà đẹp đến nỗi không ai xứng với bà nên bà sống độc thân. Bà họ Đỗ được coi như là Tổ sư của món ăn đặc sản bún ốc. Người ta ăn bún ốc ở dạng ăn quà, ăn nếm hoặc ở dạng ăn "bắc cầu" cho đỡ đói. Làm bún ốc khó hơn làm bún chả hoặc bún thang nhiều lần. Để làm thành thạo món bún chả, chỉ cần một năm là trở thành "nghệ sĩ" chuyên nghiệp. Nhưng để làm được món bún ốc đến mức không chê vào đâu được phải mất năm năm trời. Các chị em Hà Nội có tiếng là khéo tay và giỏi việc chế biến những món ăn đặc biệt. Những khi gặp mặt, tiễn chân người thân, đoàn tụ hoặc nhân một dịp lễ tết, ăn mừng gì đó họ chỉ làm bún chả hoặc bún thang chứ ít người hoặc chẳng mấy ai dám làm món bún ốc. Họ sợ hỏng, sợ mất thể diện. Vì muốn làm được món bún ốc cho ra trò phải rất cầu kỳ. Phải tinh thông nhiều mặt như: chọn ốc, luộc ốc, chế biến nước dấm, pha ớt bột và ớt tươi chọn loại bún thích hợp v.v… Hãy nói về con ốc. Cứ vào khoảng tháng 10 là có ốc béo. Có ốc nhồi, ốc hạt mít, ốc biểu… con nào miệng cũng đầy ắp. Ta có câu "ốc tháng mười, người Hà Nội". Nó vừa ngon ngọt, vừa bóng bẩy mớ màng. Ôc ngọt hơn thịt nhiều. Cứ 100 gam ốc có 200 - 300 mg prôtit ở dạng mulotide mà 100 gam thịt chỉ có 70 - 100 mg prôtit mà thôi. Độ ngọt của thịt làm tê lưỡi. Độ ngọt của ốc mềm mại, dễ chịu và đầy hưng phấn nhẹ nhàng gọi là ngọt lừ. Loại prôtit ở ốc là loại nhuyễn thể có cả chất potenciator là chất nâng thế năng của độ ngọt. Nước ốc ngọt chứ không như nhiều người nói: “Nhạt như nước ốc”. Phải nói là: "Nhạt như nước ốc ao bèo". Vì rễ bèo có đặc tính hấp thụ một cách tàn nhẫn những chất khoáng cần thiết cho việc hình thành prôtit trong con ốc. Ốc luộc hoặc hấp ở nhiệt độ thích hợp sẽ thơm, giòn, mềm, béo. Nếu không sẽ dai. Con ốc săn lại là hỏng.

Cô hàng bún ốc, với bàn tay búp măng, cầm cái búa nhỏ đầu nhọn như đùi, bóc gạt yếm ốc, gõ nhẹ vào con ốc trở tay ngoáy trôn ốc… thế là con ốc và cả ruột cùng sáp tuột ngay xuống chiếc bát con. Nước dấm gồm nước luộc ốc, nước bỗng rượu, tai chua hoặc quả dọc" mỡ nước, ớt bột, ớt tươi thái thật nhỏ… Muốn cho thật cao kiến có thể cho thêm mỹ chính, sá sùng (đỉa biển). Liều lượng pha chế phải rất tài tình. Chỉ sai một ly là "đi một dặm”. Bột làm bún gồm một phấn gạo tám thơm, một phần tám xoan và một phần gạo tẻ hạt dài. Bún dùng cho bún ốc là loại sợi có độ mịn không cao để nó có thể dễ hấp thụ nhanh chóng những chất ngọt, béo, cay, chua trong nước dấm. Làm bún ốc phải có sự tổng hợp của nhiều hiểu biết. Con ốc nguyên hình đã có nhiều màu sắc. Chậu nước dấm váng mỡ có sự pha màu của nhiều mảng ớt nhỏ gồm nhiều cung bậc của màu đỏ, màu vàng. Màu sắc của nhiều loại ớt lại nói lên được tính tình của chúng. Nhất là cái bát hương ở giữa là nước dấm cốt và tập trung ớt có tác dụng điều chế bát dấm mà nhà hang đưa cho khách. Những điều này rất cầu kỳ và có lý lẽ. Người ta nếm thử đầu ốc đã và nhai ngấu nghiến. Đó là một loại sụn, giòn tan. Cứ là mồm nhai, tai nghe. Người ta nhai và vô cùng sung sướng là mình còn một hàm răng chắc chắn, sung sướng, tận hưởng được cái ngon của đầu ốc. Thân ốc thì mềm, ngọt chan chứa và dịu dàng như một sự ve vuốt âu yếm đến tỉnh người. Miếng sáp màu vàng thẫm lại bùi. Nó trung hoà cái béo ngậy hơi quá mức. Nhà hàng múc một môi nước dấm thêm vào để con ốc béo mẩy được ngâm mình trọn vẹn. Khách ăn lấy thêm bún cho chìm vào nước dấm rồi ăn tất cả vào một miếng. Tất cả cộng lại tạo ra một miếng ngon đến say sưa và liền ngay đó, là sự chua, cay đến cực độ. Nhưng lại càng dễ chịu. Khách ăn chảy nước mắt giàn giụa, thấy như mình ở trạng thái " ốp đồng”. Trong miếng ăn có đủ chua, cay, mặn, chát, béo, giòn, ngọt… Đó cũng là tất cả những giây phút của cuộc đời con người đang tập hợp lại với nhau. Không có một món ăn nào lại đầy đủ chất đời như bún ốc Lại nói trước đây: Sáng, trưa, chiều, tối khuya, các chị em khách làng chơi và các quan viên ở Vạn Thái, Ngã Tư Sở, Khâm Thiên v.v… là những khách hàng say sưa và trung thành nhất với món bún ốc. Phải có bún ốc mới "chịu nổi". Họ ăn để quên đi mọi sự cay đắng, cô đơn nhưng lại nhấm nháp chúng và khóc đời, khóc các thân phận bằng nước mắt của chính mình rồi lại đổ cho ớt cay gây nên. Quả thực, bún ốc là món ăn được toàn dân ưa thích không kể phú quý, sang bần, thành thị hay nông thôn. Ăn một mẹt bún ốc là nhớ mãi. Những người Việt nam sống ở nước ngoài, mỗi khi chạnh lòng nhớ "Cố quốc", có nhiều nỗi nhớ trong đó có nỗi nhớ bún ốc.

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


LỆ THANH

Lệ Thanh sinh ra ở làng Văn, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Năm 10 tuổi, cô bé theo gia đình lên ở gần cửa Đông và học trường Hàng cót. Cô thường xin tiền mẹ cùng cô bạn thân tên Bích đi xem xi-nê ở rạp Văn Lang, Hàng Bạc. Năm 11 tuổi, bất chấp gia đình ngăn cấm, cô vào học hát ở gánh hát Quốc Hoa đồng ấu. Đến năm 15 tuổi, cô đã là một diễn viên chính thức, theo đoàn đi diễn khắp nơi: Gia Lâm, Tạm Thương, Khâm Thiên, Bạch Mai, Đào Duy Từ, Lạc Thành Tài, Tân Thành Ban v.v… rồi đi các tỉnh. Ông chủ rạp Quốc Hoa, Phó Đức Hanh là một con người tài hoa, đã sớm phát hiện ra Lệ Thanh có đủ 4 yếu tố quan trọng: thanh, sắc, tài, duyên.

Năm 16 tuổi, Lệ Thanh đã đóng được vai chính trong các vở Chiêu Hoàng - Trần Cảnh, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, Lá gan nhi nữ, Chiêu Quân… Qua mấy vở diễn này, Lệ Thanh được đánh giá cao về nghệ thuật nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy…Đó là những điều cần thiết nhất đối với những diễn viên cải lương. Nhưng 3 năm sau, Lệ Thanh mới "chín" trong những vai diễn sở trường của mình vì đã biểu hiện rõ nét được sắc độ tình cảm và cung bậc tâm hồn của vai diễn. Do đó vai Lý Chiêu Hoàng của Lệ Thanh đã làm cho khán giả bâng khuâng. Sao lại đẹp đến thế nhỉ? Đẹp về mọi mặt. Ở sân khấu cải lương bao giờ cũng phải “cài" vào một đào chính thật đẹp. Vẻ đẹp trên nét mặt, thân hình, dáng điệu của đào cải lương không giống như ở tuồng, chèo, kịch nói mà nó phải là vẻ đẹp sương khói, thanh tao như ở diễn viên ba lê Lệ Thanh có được cái nét đó, nó nặng hẳn về tâm hồn, tâm linh, dào dạt một nỗi niềm…

Lệ Thanh không chỉ đẹp về hình thể mà còn về cách diễn, lời ca. Cô học được ở liền chị Bích Hợp, có gục gác từ Kinh Bắc, sự trong sáng, ấm áp, vui trẻ và ở liền chị L.K cái giọng kim pha cổ mượt mà, dài rộng. Cô cặm cụi, chăm chỉ, say sưa học lấy những "miếng" của người khác một cách tham lam, thèm thuồng để biến chứng thành của mình. Sau khi thành công vai Lý Chiêu Hoàng, Lệ Thanh cùng với đoàn trôi nổi khắp nơi trên các nẻo đường lưu diễn. Cuộc sống lấy ngày làm đêm với thân phận đào kép. Cũng có ngày chỉ ăn một bữa. Nhưng Lệ Thanh không vì thế mà không hiến cả cuộc đời mình cho nghiệp cầm ca. Lệ Thanh vẫn cứ diễn được nhiều vai, càng học được nhiều điều từ các diễn viên lớp trước.

Lệ Thanh chói sáng qua những vai chính trong các vở: Điêu Thuyền, Mộng hoa Vương" Dương Quý Phi, Đát Kỷ, Chiêu Quân, Thôi Oanh Oanh, Lục Vân Tiên. v.v… Để diễn được những vai này, Lệ Thanh đã phải học cả những bài côn, quyền, đao, kiếm. Riêng với vai Điêu Thuyền, cô đã thành công rực rỡ vì Điêu Thuyền của Lệ Thanh là tổng hoà phức tạp của nụ cười nước mắt, tình cảm, bạo lực, tình yêu, e ấp, dịu dàng… Lệ Thanh hiểu rằng con người Điêu Thuyền yểu điệu mà dũng mãnh. Nàng lấy son phấn làm chiến trường, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy đôi mắt nũng nịu để giăng cạm bẫy…mang lại chiến thắng về cho mình. Nàng đã biến thành thần nữ. Vai Điêu Thuyền chỉ được rớm chút nước mắt thôi. Để nước mắt đầm đìa là thất bại.

Lệ Thanh đã đóng được một vai Điêu Thuyền hoàn hảo đến nỗi những lớp người sau chưa ai vượt nổi chị. Cũng như hơn 70 năm trở lại đây, đóng Thị Mầu không ai vượt được Hoa Tâm, đóng Chu Du, Quan Công chưa ai vượt được Sĩ Tiến. Đến đóng vai Thôi Oanh Oanh trong truyện Tây Sương lại càng phải đẹp, rất đẹp. Lại phải nhạy cảm, trí tuệ Trong lúc quấn quít bên nhau, người yêu của Thôi bảo: "Tịch dương đẹp vô cùng". Thôi đáp ngay: “Nhưng cũng sắp hoàng hôn"… Như tác giả Tây Sương tả: "Thôi Oanh Oanh có cặp mắt mơ màng của con phượng ư? Nếu nói là mắt phượng thì còn là thường, đôi mắt của Thôi là đôi mắt của con phượng vừa mới tỉnh giấc (Sơ tỉnh phượng) thì mới là tuyệt trần". Lệ Thanh đọc kỹ truyện Tây sương” Và học hỏi nơi các nhà văn. Lệ Thanh với đôi mắt của con phượng vừa tỉnh, lung linh, môi mềm, mắt ướt. Nhưng khi đóng vai Mỵ Châu trong vở My Châu - Trọng Thuỷ, Lệ Thanh lại có gam màu một tâm hồn chất phác, ngây thơ, trong trẻo như nước suối. Những năm kháng chiến chống Mỹ, Lệ Thanh theo đoàn đi diễn khắp các thành thị, nông thôn. Nhiều khi diễn trên mâm pháo, trong bom đạn, ở ngay trên mặt trận pháp. Tuy Lệ Thanh đã trở thành một diễn viên nổi trội trên các sàn diễn cải lương ở Hà Nội, lòng ham học hỏi về nghệ thuật cải lương vẫn làm cho các đồng nghiệp phải kính nể.

Lệ Thanh nhớ lại một kỷ niệm sâu sắc Đó là những năm 1951-1952, có một số diễn viên Nam bộ nổi tiếng như Tư Chơi, Phùng Hà, Kim Cúc, Năm Châu, Kim Thoa…đến Hà Nội. Họ không những nổi tiếng ở khắp nước mà còn nổi tiếng ở cả nước ngoài như Hồng Kông, Pháp… Họ chỉ ở lại tháng một tuần lễ mà họ đã làm cho hành trang cải lương của Lệ Thanh phong phú lên rất nhiều về mọi mặt. Lệ Thanh học những người thầy từ quê hương của cải lương đến một cách triệt để, không biết mệt mỏi. Các nghệ sĩ lớn miền Nam thật tuyệt. Âm thanh những bài hát của họ đẹp và mạnh đến nỗi có thể gây ra gió bão trên sân khấu. Từ trên sân khấu, nó ào xuống thính giả, làm tung bay tóc họ, bắt trái tim họ phải rung động. Rung động vì niềm tự hào về thiên tài của con người.

Cộng với những gì có trong mình, Lệ Thanh cũng mấp mé được trình độ của họ. Như vậy, cũng đủ để chị có được vài dòng trong những trang sử vẻ vang của nghệ thuật cải lương Việt nam. Để diễn được vai một bà mẹ bên sông Hồng, Lệ Thanh kết thân với nhiều bà mẹ, nhiều bà bủ mang hoá thân của Ỷ Lan, cô Tấm…Chuẩn bị cho vai Trưng Trắc, Lệ Thanh đã đọc sử sách, đã sang tận Cổ Loa, tần ngần đứng bên đền My Châu, giếng Ngọc… Lệ Thanh lại vào bảo tàng lịch sử, chạm tay vào mặt trống đồng…Tất cả là để xây dựng một nhân vật hào hùng, chói sáng, thiêng liêng, bay bổng, rực lửa…

Năm 1972, chính cái ngày bom đạn địch phá sáp cả ngôi nhà của chị là lúc chị đang đóng vai Trưng Trắc ở Hà Bắc. Sau đó, chị lại đóng một loạt vai chính trong các vở Dòng suối trắng, Y Ban và nàng tiên, Dạ khúc mình yêu v.v… đặc biệt, vai bà mẹ Cam-pu-chia trong vở Hai phương trời thương nhớ đã đem đến cho chị chiếc huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985. Đến năm 1988, Lệ Thanh vẫn còn diễn và hát được rất hay. Nhưng chị quyết định ngừng diễn. Chị trao lại những vai tâm huyết của chị như Kiều Nguyệt Nga, Thôi Oanh Oanh, Hồng Nương, Phương Hoa, Trưng Trắc… cho các học trò của mình. Một thời gian, chị làm chủ nhiệm khoa cải lương của trường Cao đẳng nghệ thuật sân khấu. Các học trò của chị đã không phụ lòng chị, họ đã gây được ấn tượng mạnh trên các sàn diễn khắp nước và cả ở nước ngoài bằng những vai diễn do chị truyền lại.

Lệ Thanh đã giới thiệu cải lương Việt nam trong hai cuộc Festival tại Liên Xô cũ và Trung Quốc. Báo chí Trung Quốc gọi chị là ngôi sao sáng hấp dẫn. Ở Liên Xô cũ người ta gọi chị là Bà hoàng. Lệ Thanh được đánh giá là đã có được nhiều vai diễn xuất thần. Nhất là những khi chị "đổ” 6 câu vọng cổ chị đã làm cho cả rạp xôn xao hẳn lên rồi bỗng lặng đi vì tài năng kỳ diệu của chị. Nay, chị đã nhiều tuổi. Chị dịu dàng, ít nói, sống thiên về nội tâm. Cử chỉ, giọng nói, ánh mắt, nụ cười vẫn đằm thắm, sinh động, tình cảm. Nghĩa là còn tràn đầy cái đẹp. Những người có duyên nợ với sân khấu vẫn thường coi chị là một kho kinh nghiệm để khai thác, để nghe chị kể về những dặm đường sân khấu, có thể hát lên được mà cũng có thể khóc lên được.
 
ANH TRẦN HOẠT

Sau một vài chuyến đi tham quan phong cảnh ở Boóc-đô (Pháp) về, tôi thấy trên bàn có một lá thư mà phong bì thuộc vào loại dùng cho thiếp báo hỉ hoặc mời dự cưới bán ở phố Huế, Bờ Hồ gì đó ở Hà Nội. Chữ viết trên phong bì được nắn nót đến cầu kỳ: “Vạn hạnh kính thưa ông nhà báo X…". Tôi bóc thư xem, được biết người viết lá thư này là một phụ nữ Việt nam. Chị đã đến tìm tôi mấy ngày hôm nay mà chưa gặp. Chị lại phải về Paris ngay nên khẩn khoản xin tôi cố gắng thu xếp đến Paris để chị được gặp. Nếu tôi không đi thì tuần sau chị lại quyết định bỏ cả một tuần lễ đến gặp tôi. Chị sợ tôi túng thiếu nên gửi lại cả tiền tàu xe cho tôi. Tôi lại giở thư đọc tiếp:

"Âu cũng là duyên phận của cái kiếp phù du". Tôi muốn được gặp ông. Tôi luôn luôn nghĩ về Hà Bắc, Hà Nội, Sài Gòn, về những xóm quê nghèo nàn của tôi ở cả hai miền Nam Bắc… Tôi được xem bài báo của ông viết trong đặc san “Quân đội nhân dân” về anh Trần Hoạt… Tôi cảm động quá, tôi khóc mấy ngày nay…

Ông có viết rằng anh Trần Hoạt sinh năm 1917, người Hà Bắc là đất Kinh Bắc xưa. Nơi đó đẹp lộng lẫy trong ý nghĩa về địa dư lịch sử và cả trong hoài niệm. Đó là vùng đất hào hoa, anh Hoạt yêu mến tuồng chèo, quan họ từ rất sớm đến nỗi… 8 tuổi đã bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi gắt gao của nghệ thuật truyền thống…

Năm 1984, ông được phong danh vị nghệ sĩ nhân dân…" Tôi cũng chỉ còn nhớ mang máng bài viết nói trên vì tôi viết nó đã từ lâu. Nhưng qua những dòng thư, tôi thấy người viết có một nỗi niềm đặc biệt đây. Tôi liền tới địa chỉ đã ghi trong thư. Sau hồi chuông, một cô gái đến hỏi tôi:
Ông tìm ai ạ?
Tôi là X. muốn đến gặp bà L.
Vâng, mời ông. Cô tôi có nhà.
Được dẫn qua hai phòng sang trọng rồi đến một phòng nhỏ bình dân. Đó là phòng của chị L. Sau vài lời giới thiệu, chủ nhà tiếp tôi niềm nở quá mức, như kiểu người ta gặp được ân nhân vậy. Bà chủ mặc bộ quần áo bà ba kếp mịn đã được âu hoá và gia công khéo đủ để ngang hàng với những mốt quần áo ở quê hương thời trang này. Chị L. đã hơn 50 tuổi nhưng trẻ hơn nhiều so với tuổi. Nhìn chị, người ta có thể biết được chị đã từng là trang nhan sắc một thời. Chị mời tôi uống nước nụ vối và ăn chè bà cốt. Chị nói: "Xin anh cho tôi được coi anh như người ruột thịt. Anh có viết rằng trước khi trở nên một đạo diễn kịch, anh Trần Hoạt đã giang hồ khắp chốn và đã qua hàng chục nghề, cho nên trong anh tràn ngập những mảnh đời và: mẫu người xanh tươi. Với cái vốn "đời” phong phú, anh đã góp nhiều dáng vẻ rực rỡ cho nền sân khấu ở nước ta… Nay tôi xin được bổ sung vài nét nữa về nghề nghiệp khi xưa của anh…"
***
Anh Trần Hoạt làm đủ mọi nghề. Thoạt đầu, anh đi bán tơ Vũ Tạo, đánh giày, chào hàng, thầy ký… có dạo, anh cùng tôi đi bán tranh Tết cho một nhà buôn để lấy tiền hoa hồng. Anh có thuật mời khách mua tranh. Anh giới thiệu tranh bằng kể chuyện, bằng những nét tuồng, chèo, ca trù… Với bộ tranh Ngưu Lang Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu Chức Nữ Hai bên cầu ôm mặt khóc thành mưa… Nhiều khi anh làm cho khách mua tranh cảm động hoặc phấn khởi hẳn lên. Tôi không kịp thu tiền. Có dạo, qua tôi anh Hoạt quen một số chị em ca kỹ phường Dạ Lạc. Anh an ủi chị em và làm thầy dạy tiếng Pháp cho chị em để họ kiếm sống được hơn cho đỡ khổ. Một số chị em bị bắt bỏ bóp, anh thương hại chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho chị em ra bằng cách đứng ra bảo đảm nhận là chồng. Anh nói rất khéo làm mủi lòng cả những kẻ độc ác. Đôi khi xen vào chất pha trò, đùa vui hoặc kể chuyện bịa. Anh gọi đùa cái công việc nói trên là nghề làm chồng thuê. Mà nào có ai phải thuê công anh đâu. Anh với tay cả vào những cảnh đời rất "bụi" mà lại trong sáng, cao thượng. Có khi chị em muốn tặng anh chút quà nhỏ, anh không hề nhận, mặc dù cuộc sống của anh rất túng bấn. Chính anh đã dạy cho L. đánh đàn dây và hát ả đào. Anh dạy cho L. biết cái đẹp của nghệ thuật siêu việt này và thấy cuộc đời còn có ý nghĩa. Anh dạy để L. và các bạn của L. biết rằng quê hương ta đẹp lắm nhưng cũng nghèo lắm. Dạo ấy, thú thực, tôi yêu anh ấy lắm. Nhưng anh còn mải bước giang hồ. Anh sống có tâm hồn, nhiều giấc mộng và cũng sống cái lối "không biết đến ngày mai" nên anh không đáp lại. Cũng không phải là anh khinh tôi. Anh thương tôi thì đúng hơn. Chính anh cũng đáng thương. Thời gian trôi qua, một anh cai khố đỏ người ở mỏ Hòn Gai đã lấy tôi, rồi cùng tôi phiêu bạt sang Pháp. Cuộc đời xô đẩy mà… ông nhà tôi vừa mới mất năm ngoái. Dù luôn được động viên nhập quốc tịch Pháp, nhưng chúng tôi cương quyết giữ quốc tịch Việt nam. Việc làm này cũng gây cho chúng tôi nhiều khó khăn. Nhưng chúng tôi được yên ổn về tâm hồn. Khi được đọc bài báo của anh, tôi đã khóc nhiều. Khóc một con người cao thượng mà tài hoa nhiều mặt, giàu lòng ưu ái đối với con người. Ngày nào tôi cũng thắp hương và thỉnh thoảng mời hai ông bạn Kỳ, Ngọc cùng một số bạn bè cùng nhau tổ chức một đêm hát ca trù. Đào nương là tôi. Bao giờ tôi cũng trả bài thầy tôi bằng bài "Hồng hồng tuyệt tuyệt, mới ngày nào không biết cái chi chi…" Nay tôi đã già, thỉnh thoảng gom góp chút ít biếu vào quỹ kiều bào yêu nước xây dựng tổ quốc và thường giúp vui những buổi họp mặt hoặc biểu diễn văn nghệ. Coi đó là tấm lòng để xứng đáng với quê hương xứ sở, với mái chùa, giếng nước… Quả thật tôi không bao giờ nguôi nhớ cái làng Đình Bảng tươi đẹp, nam thanh nữ tú của tôi. Đấy anh xem gia bảo nhà tôi treo ở trên tường chỉ là một chiếc đàn đáy và một chiếc đàn nguyệt…

Chị L. nói một mạch, chẳng cần để ý đến ai, tưởng chừng như chị phải nói cho bằng hết mà nếu ngừng lại sẽ bị mất dòng cảm hứng mà quên mất phần nào những ý định cần bộc lộ ra cho thoả lòng. Chị nói nhiều lúc như bị ốp đồng rồi chị khóc. Trong tiếng khóc của chị vừa có vị cay đắng, vừa có cả những điều mừng mừng tủi tủi, lại xen cả nỗi niềm sung sướng thật khó tả và chị sực nhớ ra là chị đang tiếp tôi, chị xin lỗi tôi lâ đã nói hết cả phần của tôi. Chị lại tiếp: "Anh có tấm lòng thật quý hoá với ông anh của tôi, ông thầy của tôi, người mà tôi yêu. Anh ấy cũng được mọi người yêu quí chẳng có thế lại được là nghệ sĩ nhân dân…"
- Thế chị có còn nhiều bà con bên nhà không ạ? - Tôi hỏi.
- Chẳng còn ruột thịt gì nữa. Nhưng trong họ ngoài làng, tôi nhớ tên từng người. Tôi nhớ từng búi tre gai nhà ông Ba Bò, bờ đê thả trâu, đám rước ngày hội, cổng tam quan, gác chuông…
- Cảm ơn chị đã cho tôi thêm một số chi tiết rất quý để viết một bài báo. Nếu chị cho phép tôi lấy tên bài báo là "Người tình của anh Trần Hoạt"…
- Như vậy là quá vinh dự cho tôi. Đó là điều tôi mơ tưởng. Nhưng tình yêu là phải cả hai bên. Anh ấy cao cả và trong sáng quá. Mà tôi cũng không muốn buộc anh vào cuộc đời tôi, vì tôi sợ anh sẽ khổ. Tôi yêu anh và mong cho anh đạt được mọi giấc mộng của anh. Đúng ra, anh cũng yêu tôi. Không yêu tôi làm sao được: “Anh Hai không yêu, tôi lấy đạo bùa qua lời anh ư phải yêu": Đó là bài hát mà cũng là thực đấy anh ạ.
- Tôi nghĩ đó cũng là tình yêu chị ạ. Tình yêu cao hơn một chút và mở rộng…
Chị L. cám ơn lời nhận xét của tôi. Với động tác bai tay chắp lại, chị vái. Tôi hiểu ngay, chị vái anh Trần Hoạt, vái quê hương, làng Đình Bảng của chị… Trên đường trở về nơi làm việc, lòng tôi nao nao một cảm giác dễ chịu, yên tâm và có chút tự hào.

HAI CON NGƯỜI TÀI HOA

Trần Hoạt là một số ít trong những người mở đầu cho việc hình thành nghề đạo diễn kịch nói ở Việt nam. Ông đã được phong tặng nghệ sĩ nhân dân ngay từ đợt đầu. Đó là một con người của Kinh Bắc. Lúc mới 6 tuổi, ông đã bỏ nhà ra đi theo một gánh tuồng rồi phiêu bạt khắp Trung, Nam, Bắc. Là con người làm nghề tài hoa, tận tuỵ, ông có công phát hiện ra nhiều tài năng sân khấu, giúp đỡ và hướng dẫn nhiều diễn viên thành tài. Trong công việc đạo diễn sân khấu, ông rất hiểu nghiệp đời. Khi ông học tập ở nước ngoài, một số tiểu phẩm của ông được các đoàn kịch Trung Quốc sử dụng. Các đoàn kịch như: Kịch nói, tuồng, chèo, cải lương đều đến trèo kéo ông. Ngay cả mấy đoàn ở các tỉnh xa và nghiệp dư cũng luôn "mai phục" để đón ông về đoàn mình. Có điều là phải luôn luôn có rượu cho ông. Khi đạo diễn, cạnh ông bao giờ cũng có thêm một chiếc ghế để chai rượu và chiếc chén. Ông bảo: "Không có rượu thì không làm được gì hết". Năm đó, ông là đạo diễn của vở “Hương Mới” cho nhà máy thuốc lá Thăng Long. Lại đúng vào lúc luôn có báo động máy bay địch nên không mua được rượu về cho ông. Một kỹ sư của nhà máy phải lấy cồn ra pha rượu cho ông. Một lần, tôi mời ông và ông Văn Cao đến nhà uống rượu. Ông Văn Cao nhận trang trí phông, cảnh cho vở kịch. Đây là hai ông bạn rượu hợp ý nhau vì cả hai đều là đệ tử trung thành của thần rượu. Hai ông cứ uống lai rai suốt từ 2 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Họ vừa uống, vừa nói đủ chuyện trên đời. Họ bập bềnh, say lại tỉnh, tỉnh lại say. Lúc nói to, lúc nói nhỏ. Có lúc ha hả, lúc lại đăm chiêu như muốn khóc, tranh cãi bàn luận. Từ chén thứ hai trở đi, ông Văn Cao thường không dùng đồ nhắm hoặc dùng ít.
- Tớ cho hai cái vở kịch ấy chỉ đáng cho vào sọt rác.
- Cũng có một chút mê ni (đáng khen) đấy…
- Không. Tác giả chưa vivre la vie mà mới chỉ là fréquenter la vie - (chưa sống cuộc đời mà mới chỉ đi thăm cuộc đời).
- Thế mà tớ nhận làm đê-co (trang trí) cho họ đấy.
- Tuỳ cậu. Với tớ, không sướng lắm. Vở kịch viết thật thà quá như cái kiểu bài thơ rau muống: Trong vườn có đám rau xanh Đó là rau muống để nấu canh đấy chứ… Thế mà là thơ à? Tớ thấy tác giả không có chất "ngọc", mà chỉ toàn là gạch. Mà đã là gạch thì có nung mãi cũng chỉ là gạch… Nghệ thuật, nó khó tính lắm chứ?… Phải có cái thương cảm nhân thế. Phải có tấm lòng…
Tôi bảo: "Hai anh là cả một thư viện sống". Ông Văn Cao không đồng ý và nói: "Tớ chỉ là một vò rượu quốc lủi"
Thế rồi, tôi cứ ngồi hầu rượu, chạy đi chạy lại, tiếp tế rượu và đồ nhắm. Nhưng chủ yếu là lắng tai nghe các ông. Nhưng các ông cũng đòi tôi phải kể lại những chuyện về rượu và chuyện tiếu lâm bên trời Tây cho các ông nghe.
- Phải bình đẳng chứ. Chúng tớ nói cho cậu nghe về chuyện của chúng tớ thì cậu cũng phải "cung" ra cho chúng tớ nghe với…
- Thu năng lượng của nhau như cái kiểu người Trung Quốc phát và thu "công lực" ấy. Các ông bỗng đùng đùng đề nghị phải có thịt chó cho nó thêm hương vị. Thịt chó được mua về ngay. Tôi không thích nên không ăn.
Ơ? Sao cậu không ăn mộc tồn?
- Tại sao?
- Tôi không khoái lắm. Nó hôi hám.
- Chắc lại là con cầu tự. Ăn thịt chó vào, "cậu" giận cậu về chùa chứ gì?
- Cậu nói lại đi nào. Cậu bảo thịt chó hôi hám à? Một người đàn bà đẹp ở tuổi 40 cũng có mùi hôi hám đấy chứ. Nhưng, người ta mê cái hôi hám tuyệt vời đó hơn cả các cô gái 16, 17 tuổi… Cậu chẳng hiểu cái gì cả à, mà có điều thịt chó mà không có chất "cồn"! vào là "vứt"
- Đúng đấy.
Trong bữa rượu, tôi đã biết được nhiều điều ở hai ông. Nếu các ông không say khướt, thì tôi không thể nào "thó" được những câu chuyện thật hay, thật lạ ma  chẳng bao giờ các ông chịu nói ra cho bất cứ ai. Đó là những câu chuyện dọc ngang chất "sống", tươi nhây nhẩy. Các ông là những người luôn thích thú và ngỡ ngàng với những điều mới mẻ, sinh động. Nhìn nhiều, nghe nhiều, đi nhiều, suy ngẫm nhiều… là những điều giúp các ông trở thành Trần Hoạt và Văn Cao… Trước kia, trong thời Pháp thuộc, ông Trần Hoạt đã từng làm qua nhiều nghề: chạy cờ, bán Vũ Tạo, đánh giầy, bán tranh, thầy ký, thầy dạy đàn đáy và hát ca trù, đóng kịch… Tôi tính có chừng 30 nghề. Có dạo, ông quen một số ca kỹ phường Dạ Lạc. Một số chị em bị bắt bỏ bóp (bốt cảnh sát ngày xưa) ông thương hại họ, chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho họ được ra bằng cách bảo lãnh, nhận làm chồng. Ông gọi đó là nghề "làm chồng thuê" - Kỳ thực, có ai thuê ông cũng không nhận một xu nào.

Trong chừng 10 tiếng đồng hồ, hai ông đã đánh đổ chừng 3 lít rượu. Đến 12 giờ khuya, chị Băng đi xích lô đến đón Văn Cao về. Chị trách tôi đã để ông uống say. Nhưng, có trời mà ngăn được. Ông bảo trong khi say, trong ông nảy ra những tứ hay cho thơ, nhạc, hoạ, ông có đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, tửu. Tôi cũng phải thuê xích lô, đưa ông Trần Hoạt về nhà ở phố Lò Sũ. Ông đã quá say. Nhưng sáng hôm sau, chừng 8 giờ, ông đã ngồi dựng vở Bức Tranh mùa gặt của Trần Vượng. Và bên cạnh ông, vẫn là chai rượu.

NỮ THẦN ÁI TÌNH VÀ NỮ THẦN SẮC ĐẸP CỦA VIÊT NAM
Trung Quốc suy tôn Nữ Oa là nữ thần ái tình của họ. Cùng ở một khu vực và có nhiều truyền thuyết giống nhau, thần ái tình của Việt nam cũng là Nữ Oa. Nữ Oa Trung Quốc và Nữ Oa Việt nam có nhiều điều giống nhau về cơ bản: rất nặng về chất huyền thoại, Nữ Oa có nhiều phép thần thông đã nặn ra con người bằng đất sét vũ trụ rồi phả vào đó một linh hồn, Nữ Oa đội đá vá trời v.v… Nữ Oa là tượng trưng cho sự sinh thực và phồn thịnh. Do ở cái thời hỗn mang chi sơ, số người chết nhiều hơn người sống gấp bội nên việc phát triển nòi giống là vô cùng quan trọng, vì thế người ta thờ cái "của quý" của Nữ Oa. Ở Việt nam, chất phong tình và sinh thực được đẩy lên mức quá cao.

Chuyện kể rằng: Cái "bộ phận" của ông Tứ Tượng bắc qua một cái ao lớn ba sào đất làm cầu cho mọi thành viên của đám cưới nguyên thuỷ đi từ bờ ao bên này sang bờ ao bên kia. Vì ông cầm hương vô ý, tàn nhang rơi xuống làm cho chiếc cầu vững chắc ấy bỗng nhiên "rụt" lại, hất hết mọi người xuống ao. Nữ Oa biết được, đã nhanh nhẹn đưa cái "của quý" của mình ra hứng lấy cả đám người, thế là mọi người ngoi ngóp trong cái túi càn khôn của Nữ Oa và được cứu sống.

Truyền thuyết này còn sót lại đến ngày nay qua sự biến dạng trong sự tích "Ông Đùng bà Đà" và trong trò chơi "Cái nỏ lường…" Còn nữ thần sắc đẹp của ta thì eo lẽ không ai xứng đáng hơn là công chúa My Nương, con gái vua Hùng thứ 18. Tóc xanh viền má hây hây đỏ Miệng nàng hé thắm như san hô Tay ngà trăng nõn hai chân nhỏ Mê nàng bao nhiêu người làm thơ. Xứng với sắc đẹp nát đá tan vàng của nàng chỉ có những ai sánh ngang được với các bậc thánh thần. Số người đến cầu hôn được chọn lọc kỹ đến nỗi chỉ còn hai chàng ưu tú nhất là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, là tượng trưng cho hai con người tinh hoa, đẹp đẽ và tài hoa tuyệt vời của hai vũ trụ bao la và thơ mộng: núi rừng và biển cả. Trong cuộc đua tài, Sơn Tinh đã giành chiến thắng. Vì người đẹp My Nương mà Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đánh nhau suốt bao nhiêu đời và cho đến tận bây giờ. Sắc đẹp My Nương đã gây ra sự tranh giành thần thánh, không tiền khoáng hậu và sự tích này được đời đời nhắc nhở, biến thành thơ, ca và lời vần ví không nguôi: Vua Thuỷ Tề dâng nước đánh Sơn Tinh Núi và sông - tranh nhau một chuyện tình…
 
CHỊ TÂM HÁT "SUÔNG HỜI"

Chị Tâm là một liền chị quan họ đã nổi tiếng từ lâu chị thường được mời trong các cuộc thi, được mời hát những bài hát hay mà khó hát, hát "sửa" khi người khác hát hỏng. Giọng hát của chị là một thứ giọng hiếm. Ngoài sở trường về hát quan họ, chị còn hát được cả tuồng, chèo và các làn điệu dân ca. Những chất liệu này hợp nhau lại thành những vi lượng làm cho những bài hát quan họ do chị hát thêm phần hoa mỹ, đậm đà, lại xen chút huyền bí liêu trai. Dáng chị mảnh khảnh cái kiểu mỏng mày hay hạt, thoáng mùi thơm quê mùa. Chị có thể hát hết đêm này đến đêm khác làm cho người nghe không thể quên được. Vì tiếng hát của chị có thể là kể về một cuộc tình, một tâm trạng đầy kịch tính, một con sông xanh, một tâm hồn ngẩn ngơ say đắm, một niềm vui nhẹ vương vấn âu sầu v v… Chúng gieo vào lòng người một nguồn thơ ca, một nỗi niềm thấm vào tận xương.

Tôi có cái sung sướng được gọi chị bằng chị trong khi mọi người đều gọi chị bằng bà vì chị đã đến cái tuổi 70 rồi. Tôi vẫn nghĩ là chị chưa già. Tôi đến Văn Tương qua mấy xóm ngõ khúc khuỷu. Đây rồi, cái bể cạn có hòn non bộ. Bước mấy bậc là lên đến nhà. Đó là một ngôi nhà ba gian hai chái từ đời xưa để lại với hai mảng tường rêu phong. Dưới cái cuốn thờ có dán một tờ giấy đỏ viết chữ “Tâm”, kiểu chữ Hán do chính tay chị viết bằng mực nho. Cô cháu bé nhỏ mời tôi ngồi đợi và đi tìm chị. Tôi hơi nóng ruột vì phải ngồi đợi khá lâu Tôi được biết, gần đây chị luôn đi thăm các bạn bè làng trên xóm dưới. Chị thường không có ở nhà ban ngày. Chị được mời đi chỗ này, chỗ khác hoặc mời đi dạy hát quan họ. Cuộc sống của chị hiện nay chỉ còn chữ "Du" và "Ca", nghĩa là đi chơi và hát, chẳng phải lo nghĩ gì về cơm áo. Đã có những người trước đây mê tiếng hát của chị ở khắp nơi gửi tiền về nuôi chị. Kể cả những người hiện sống ở nước ngoài. Cũng có thể gọi họ là những "nhân tình" của chị. Cho phép tôi dùng từ này và nói thêm: tình nhân của chị quá nhiều. Còn như yêu bóng yêu gió hoặc phải lòng tiếng hát của chị thì không kể hết. Thật buồn cười, có nhiều người chẳng ăn thua gì mà vẫn cứ yêu chị. Do vậy, chị thường đối đãi hào phóng với các bạn hoặc họ hàng, thường biếu tiền, quà bánh hoặc lễ vật cho các đình, chùa…
Gặp tôi, chị bảo ngay:
"Nhà báo lại có điều gì dạy bảo?"
- Em đâu dám- Tôi nói.
- Chắc lại gạ chị hát chứ gì? Chị đã qua mùa lá rụng rồi.
Sợ tôi không hiểu, chị liền giải thích một mạch: "Người quan họ có 4 mùa. Lúc từ 13 đến 15 tuổi là lúc hát được rồi mà còn run, còn xấu hổ, là lúc ở vào mùa xuân. Từ 18-19 tuổi, tiếng hát đã "mẩy", sóng sánh là đang vào hạ. Từ 20 đến 30 tuổi, tiếng hát đã có "thuật" đánh đổ được người nghe. Đó là mùa thu. Từ trên 30 tuổi, đã thấy ngại ngùng để vào đông, cũng là mùa "lá rụng". Còn chị đã 70 tuổi là đã qua mùa lá rụng rồi".
- Không phải. Nghệ thuật hát quan họ của chị vẫn là 20 tuổi. Mắt chị còn lúng liếng, dáng đi vẫn nhanh nhẹn và sang lắm.
- Thôi nào. Nói khéo lắm. Hôm nay chị không hát quan họ mà hát bài "Suông hời"
Chị bày ra mấy thanh bánh đậu xanh rồng vàng. Tự tay chị pha trà mời tôi cùng uống. Chị pha trà điệu nghệ: Cho nước cốt, nước hai và ba vào chén tống rồi mới róc chén quân. Sau ít phút, chị nhấn giọng rồi đứng dậy hát: “Đò ai đi… Ơ đậu bến không về… Đợi nhau thương nhớ ơ…ơ… suông hời mà phấn son. Suông hời, tình suông a… mà vẫn gọi… con đò tình lênh đênh… Ba mươi phút nên bổng suống trầm… suông hời…i…ơ". Dáng chị mảnh mai, siêu siêu thanh nhã và bay bổng… ấy, chính cái hình hát đó cộng với tình yêu nghệ thuật đàn hát quyện vào với nhau tạo nên chị Tâm. Tôi nhấp chén trà. Trong tôi, cứ tơi tả một nỗi buồn da diết. Tôi khen chị hết lời. Chị bảo: "Phải có duyên phận với bài hát mới hát hay được…" Lúc chia tay, chị vỗ vai tôi:
- Thôi coi như sắp hết năm cũ rồi. Sang năm mới, chị chúc em chỉ nghe bài hát của người xưa cho nó có cái hương vị thôi. Còn với cuộc sống, em hãy tránh khúc "Suông hời"…
- Chị Tâm ạ, không tránh được đâu. Có khúc suông hời thì mới thành con người dấn thân cho văn học nghệ thuật được.
Chị nở nụ cười rạng rỡ. Cái nụ cười của con người tài hoa rất mực thật nồng ấm và ân cần…
 
ÔNG TRÙM THỊNH

Kép Thịnh quê ở Kim Động - Hưng Yên, là một trong những đất chèo cổ nổi tiếng. Mười sáu tuổi, ông đã là kép hát. Ông theo phường đi khắp nơi lang bạt kỳ hồ. Nhưng, cứ đi, cứ hát mà cuộc sống vẫn vất vả nhọc nhằn. Nhiều khi tưởng chừng như không còn cách nào sống được nữa. Tuy vậy, vẫn có nhiều người yêu mến tiếng hát của ông đã làm cho ông khắc phục được những khó khăn chồng chất để hành nghề với quyết tâm "sinh ư nghệ, tử ư nghệ". Nghèo đói chẳng nghĩa lý gì. Cái quan trọng là được góp phần vào cái cảnh náo nhiệt, tưng bừng của những buổi diễn, những giây phút gặp mặt nhau, đào đào, kép kép đưa được tiếng đàn, tiếng hát đến với bà con. Các diễn viên cũng rất phấn khởi, được đồng bào mến mộ, trả công cho họ qua những nụ cười, những bộ mặt rạng rỡ, phơi phới. Thế là đủ để vui rồi.

Phường phải đi xin hát ở nhiều xóm làng, ở các đám hội. Riêng kép Thịnh và một, hai đào kép chính còn phải đi hát cho các nhà giàu mở tiệc chúc thọ hoặc ăn khao. Cũng có những lần đến diễn hầu trong phủ đường, huyện đường Kép Thịnh là một kép đa tài, hát hay được nhiều làn điệu. Ông diễn được đủ loại kép. Kép chính như Từ Thức, Tất Chánh, Lưu Bình, Thúc Sinh… Kép lệch như Tuần Ty, Sở Khanh. Đóng lão như Huyện Tể, ông Mãng, đồ Điếc. Đóng hề như thầy đồ, hương Câm… Các vai diên của ông đều hay, đạt hiệu quả cao, mẫu mực, có góc cạnh. Nhân vật cứ nổi lên như một bức tượng sống. Điều đó nhờ ở chỗ kép Thịnh gạn lọc những chi tiết, giữ lấy những chi tiết chân thực, có bổ sung thêm những nét hoa mỹ đầy ngẫu hứng, sáng tạo ông còn giữ trong bộ nhớ của mình nhiều làn điệu “độc” ít người biết đến hoặc gần như bị thất truyền. Ví dụ như làn hát vãn gọi là Vãn Non Mai say đắm thì đến giờ ở ta chỉ còn một, hai người biết đến. Phong cách diễn của ông rất thanh tân. Khi thì phóng khoáng kiểu hàng hoa, lúc lại giữ chặt khuôn khổ. Người ta không thể hỏi ông để biết ông có sở trường về những làn điệu nào. Vì hầu như tất cả những làn điệu chính ông đều hay hát cả. Lúc hát, tâm hồn ông dấy lên những ngọn sóng lúc phai, lúc thắm, lúc lại vơi đầy… Bài nào ông hát cũng ra "màu", long lanh sắc nét. Đạt đến trình độ này là rất khó. Người sáng dạ cũng phải cần cù, luyện tập 4, 5 năm. Nhưng với ông, ông nhảy phốc một cái là đạt được tới điểm cao đến khó hiểu. Ông còn miệng hát, tay đàn chầu văn với giọng cao bi tráng. Khi đó, ông say như bị ốp đồng. Đó cũng là tài năng của ông. Chẳng thế mà trong một cuộc thi hát với những bậc anh tài ở trại Ngọc Hà, ông đã đạt điểm cao nhất. Nhiều người đã phát ghen lên mà bảo: "Thật xấu hổ, chúng ta đã phải thua một tên hát rong quê mùa, mặt búng ra sữa".

Với người có nghệ, chính cái chất chân quê chân chất và giang hồ tứ hải đó cộng lại là rất hiếm, là vô địch. Nó mang chất dân ca nguyên thuỷ. Ông là tay đánh trống chèo mẫu mực, thường khuyên các học trò: "Có thể vụng chèo một chút. Nhưng phải khéo trống".

Nhưng tài nghệ cao nhất về sử dụng nhạc cụ của ông lại là kéo nhị. Anh em gọi tiếng nhị của ông là tiếng nhị siêu phàm. Dạo ấy, ông Lê văn Ly muốn đến xin vào kéo nhị cho phường hát. Nhưng khi tới, nghe thấy tiếng nhị của ông, đã bỏ ra về ngay và lẩm bẩm: "nghe tiếng nhị của trùm Thịnh mới biết tiếng nhị của mình chỉ là tiếng kéo cưa lừa xẻ".

Vào những năm 1958-1959, ông Ly là một trong vài cây nhị hay nhất nước. Tiếng nhị của ông Thịnh là sự phối hợp hài hoà giữa nhiều yếu tố. Trong đó có mây nước bập bềnh, có hương hoa gió bụi, tử, biệt, sinh, ly, yêu đương mòn mỏi… Cũng chính tiếng nhị của ông đã khiến một nữ diễn viên chèo mê ông và trở thành vợ ông. Đã thành một cái lệ tình tứ, âm thầm và mãnh liệt, cứ mỗi lần chuẩn bị ra sân khấu, vợ ông lại ngóng nhìn nơi hai bên cánh gà, nhìn vào mắt ông, say sưa. Ý nói: "Mình ơi, em thế này đã được chưa? Ông cũng nhìn vợ, vừa trìu mến vừa có vẻ kiểm tra lại vai diên, gật đầu nhè nhẹ. Có nghĩa là: "Được đấy em ạ… Xinh lắm". Nhưng rồi một buổi, vợ ông bị ốm trong cảnh nghèo xơ xác Bà ốm dai dẳng, không có tiền thuốc thang, chữa chạy. Người nữ diễn viên này rất mực yêu chồng. Bà bảo: "Có tiếng nhị của anh là sống được rồi… cho em nghe suông vậy…". Thế là ông lại mang nhị ra kéo để cho bà vui. Ông bảo là để quên đời, quên bệnh tật. Có điều trong những giây phút này, tiếng nhị của ông càng hay, càng thiết tha một màu sắc tâm linh. Rồi một hôm, bà thấy khó chịu lạ thường. Bà lại muốn nghe tiếng nhị của ông. Ông liền kéo "…Ôi…thì đôi ta… chút nghĩa… mà…a… đèo bòng…". Ông kéo bài "Duyên nợ phải chiều"… Đến nửa chừng thì bà lả đi như một tàu lá úa rồi tắt thở… Ông buông nhị, ôm lấy bà và khóc: "Mộng hết ta người phải biệt nhau…"! Thế là từ đó ông không kéo nhị nữa. Ông giận duyên, tủi phận và né tránh cái tiếng nhị oan nghiệt vận vào mệnh của ông. Chừng 30 năm sau, mãi đến năm 1959, một ông bạn tri kỷ khuyên ông hãy giải lời nguyền xưa, nằn nì ông kéo cho nghe một đoạn. Ông nể quá, kéo một đoạn thật say. Ông bạn vái: "Thưa, xin thế là đủ chỉ cần trần ai một khúc…". Ông Thịnh rớm nước mắt.

Ông Thịnh sớm đã phải bỏ quê, ra diễn cho rạp Sán Nhiên Đài (sau là rạp Kim Lan) ở ngõ Sầm Công. Cái ngõ này nổi tiếng là có nhiều chuyện ở Hà Nội. Như vậy cũng không phải chỉ diễn ở Hà Nội mà vẫn phải đi lưu diễn ở nhiều nơi. Đã nhiều bài hát của ông được thu vào đĩa hát của hãng Pa thé và ASIA. Người ta đi lùng mua kỳ được những đĩa chèo của kép Thịnh và đào Tiêm. Ông đã soạn nhiều vở chèo và làm thầy chèo (như bây giờ gọi là đạo diễn). Ông được cả gánh hát và nhiều người trong nghề kính nể gọi ông là sư phụ, là ông trùm Thịnh. Tuy vậy, cuộc sống vẫn cứ thanh bần cho đến khi ông qua đời. Cả cuộc đời vì nghề, ông đã dạy dỗ được nhiều lớp diễn viên chèo cho cả nước. Ông đã giúp đỡ nhiều cho Ban nghiên cứu nghệ thuật sân khấu của Bộ Văn hoá trong việc nghiên cứu, giữ gìn và phát triển nghệ thuật chèo truyền thống. Tên tuổi ông đã được ghi trong Bách khoa từ điển sân khấu Liên Xô (cũ) xuất bản năm 1959 trong mục sân khấu Việt nam. Riêng về nghệ thuật chèo mà nói, ông trùm Thịnh là một "Con Người" viết hoa. Sân khấu Việt nam và nghệ thuật chèo của ta tự hào có một nghệ nhân như ông trùm Thịnh.
 
CHỊ HOA TÂM

Dạo ấy chừng những năm 1942-1943, cả mấy làng Bưởi, người ta thường hay kể chuyện về một nhân vật đặc biệt là "Mít sờ" Hoa Tâm. Số là ở ngay giữa chợ Bưởi, dựng lên một rạp hát có tên "Quảng Tâm San" Chủ của rạp hát lúc nào cùng huyên náo đó là bà Hoa Tâm. Gọi nó là rạp cải lương cũng được mà gọi là tuồng cải lương cũng được. Vì họ diễn cả những tích xưa với mũ áo, cân đai sặc sỡ, mà cũng diễn cả những tích mới với nhân vật ăn mặc Tây, đeo ca vát. Rạp hát tối nào cũng kín chỗ. Chủ nhật có thêm một xuất diễn ban ngày, chủ rạp thường đi bên cạnh người chồng của mình là một anh Tây lai tên là Louis Aubourg. Anh chàng vừa giàu vừa đẹp trai này rất kiêu hãnh là đã lấy được cô đào hát có tài năng và sắc đẹp xuất chúng. Anh ta đã hạ được hàng loạt những đối thủ là những kẻ giàu sang, các quan huyện, quan phủ trẻ tuổi để giành được Hoa Tâm. Việc quản lý rạp hát, Hoa Tâm giao cho ông thầy tuồng Năm Ngũ và kép Sinh. Hàng đêm, Hoa Tâm có vai diễn. Điều này không có không được. Ban ngày, thỉnh thoảng Hoa Tâm vào làng Yên Thái, đến chơi kết bạn với kép Thuyên là kép nổi tiếng về hát tuồng. Chủ rạp Quảng Lạc phải đưa ô tô về, đưa kép Thuyên đi diễn rồi lại trả kép Thuyên về tận nhà. Hoa Tâm cũng làm quen với kép Tước hát tuồng ở xóm Ao Ngang và ông Ninh là hoạ sĩ vẽ truyền thần…

Hoa Tâm nhận mấy bà già trong xóm là mẹ nuôi và thường có quà, bánh, vải, nhãn biếu các bà. Hoa Tâm thèm tình mẹ, yêu làng Bưởi, hay xúc động và có lòng thương người. Nhưng khi gặp mặt, dân trong mấy xóm rất niềm nở chào Hoa Tâm và chị cũng nhanh mồm nhanh miệng chào hỏi lễ phép, lịch sự với mọi người. Dân làng Bưởi rất thích xem những tích diễn của rạp như: Trương Viên, Quan âm Thị Kính, Giang Tả cầu hôn, Tra án Bàng Quý Phi, Phương Hoa, Huyện Trường và cô Cúc, Mộ cô Phượng, ông già mật nết, Hoa rơi cửa Phật, Kiều… Những tích này hầu như ai cũng thuộc, họ xem đi xem lại nhiều lần, không biết chán.

Mọi người rất có cảm tình với rạp Quảng Tâm ban và cũng rất có cảm tình với chủ rạp. Hoa Tâm ăn mặc cực kỳ sang trọng rất “a la mốt” (à la mo de). Nhưng mọi người cho rằng gọi Hoa Tâm bằng bà thì hơi già. Bà ta cứ tưng tưng, rất trẻ, như là cô học trò mắt sáng, môi tươi vậy. Gọi bằng bà không hợp. Anh Vũ Trọng Hành là em ruột nhà văn Vũ Trọng Can bảo nên gọi Hoa Tâm là "mít sờ" Hoa Tâm. Tiếng Anh "mít sờ" là cô gái mà. Và từ đó ai cũng gọi Hoa Tâm là "mít sờ" Hoa Tâm. Như vậy, nó có vẻ hay hơn, lạ hơn, Tây hơn, tình hơn…

Quảng Tâm ban đã đưa sân khấu đến chợ Bưởi, làm náo nhiệt cả mấy làng Bưởi. Nó đi đầu cho sự thành hình một vài nhóm cải lương và kịch nói nghiệp dư của cả một khu vực sầm uất, đông dân. Hồi ấy, Lại Phú Cương còn trẻ lắm. Ông không bỏ một đêm diễn nào của rạp Quảng Tâm ban. Sau này, ông là một nghệ sĩ kịch nói và diễn viên điện ảnh khá nổi tiếng. Trong nhà chị Hoa Tâm, trên các mặt tường treo la liệt những bức tranh thuỷ mạc, tranh Tàu, chị yêu những bức tranh này lắm và luôn ngắm nghía chúng. Hoa Tâm là con gái một gia đình cố nông ở Kim Động, Hưng Yên. Từ nhỏ, cô bé đã hát hay và hát được nhiều làn điệu chèo, tuồng, cải lương, quan họ, hát ru… Năm 13 tuổi, có gánh hát xin cho cô được thoát ly gia đình, đi theo gánh. Cô được nuôi cơm, có nhiệm vụ trông trẻ, giặt giũ rồi được học hát, học múa. Qua vài năm trời gió bụi, giọng hát của cô được coi là một chất giọng quý hiếm. Sắc đẹp lại trở nên lộng lẫy. Ai cũng muốn làm thân với cô. Cô không bao giờ phải trả tiền cho những bữa quà như kiểu bánh cuốn, bún ốc, bún chả… Vì bao giờ và ở đâu cũng có người tranh trả tiền cho cô. Cô quyết tâm học nghề hát chèo. Học bất cứ những gì cần cho một vai diễn từ bất cứ ai. Học những diễn viên cao tuổi. Học các bạn trẻ. Lúc nào cô cũng nhiều bạn. Cả bạn trai lẫn bạn gái. Nhưng bạn trai nhiều hơn. Trong đó có nhiều nhà văn, nhà báo, hoạ sĩ, thi sĩ…

Sức hấp dẫn của cô rất cao. Nhưng chính cái tài và cái sắc của cô cũng mang lại cho đời cô nhiều lao đao, cay đắng. Đời cô bao giờ cũng là một mảnh trăng khuyết. Cô nói vậy. Năm 21 tuổi, cô đã trở thành một ngôi sao không có đối thủ, ít nhất là với Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Hà Đông, Bắc Ninh… Chị nổi lên, rực rỡ, cuốn hút trong Tuần Ty - Đào Huế xuý Vân giả dại, Thị Mầu lên chùa… Ba vai chính: Đào Huế, Xuý Vân, Thị Mầu trong kho báu chèo là để cho Hoa Tâm diễn. Còn có những vai diễn này ra sân khấu thì người ta còn nhắc đến cái tên Hoa Tâm. Chị nói sử:
Kim Nham chàng ơi!
Đường công danh đã đành mê mải
Nhưng tuổi xuân có trở lại bao giở
Hay tình riêng chàng đã phôi pha Để cho thiếp tháng năm mòn mỏi…

Người ta không bao giờ quên được khi Hoa Tâm nói lệch rồi vắt sang bình thản:
Cau non tiện chũm lòng đào
Trầu têm cánh phượng, thiếp trao cho chàng.

Tiếng hát của chị kèm theo dáng đi tơi tả, lệch chênh, những bước đi lá rụng hoa rơi. Những bước đi của Hoa Tâm trên sân khấu đều là múa cả. Nhưng ở vài vai diễn khác, những bước đi của chị lại thanh thoát mà có cái dáng dấp đĩnh đạc của một cành cây nặng trĩu quả ngọt. Đến lúc chị hát đúm:
"Ta về xẻ tấm ván dày
Bắc cầu sông Cái…cho mẹ thầy sang chơi."…

Thì sóng gió nổi lên ào ào, lòng chị xáo động và tràn đầy khát vọng. Rồi lại ngẩn ngơ, bâng khuâng: Người đâu đến ở chùa này… Cổ kiêu ba ngấn, lông mày nét ngang… Hoa Tâm ngẩn ngơ, nồng nàn, sầu muộn, cô đơn, nhưng phấn khích, lâng lâng. Những mảng diễn của chị đều đã thành mẫu mực cho các vai diễn kế tiếp sau chị. Các trường học, các lớp huấn luyện đều phải trích ra những dáng nét, động tác phong cách hát, nói, cười, của chị mà dạy cho các học sinh. Với chị, khi nhạc nổi lên, tiếng hát của chị cất lên theo đã làm cho người ta sung sướng, vui, buồn, háo hức. Trong lòng người nghe thấy tràn đầy nước mắt, tình yêu và sự dằn vặt.

Chính vì chị hát được cả tuồng, cải lương, quan họ, ả đào… nên tiếng hát của chị mới có nhiều màu sắc, nhiều cung bậc, đa dạng và thanh tân. Các vai diễn của chị thường bồng bềnh một hào quang lãng mạn làm say lòng người. Rồi về sau này, đã có nhiều lớp diễn viên kế tiếp chị cũng đều bắt chước chị, học chị mà trình diễn. Nhưng cho đến bây giờ (1998), vẫn chưa có ai đạt được đến 8/10 của chị. Cung đàn tình duyên của chị luôn náo nhiệt, tưng bừng đầy ngẫu hứng suốt từ thời trẻ cho đến khi về già chị rất yêu đại thi sĩ Hồ Xuân Hương. Còn một chi tiết. Đó là khi Thủ đô được giải phóng, trong những ngày đầu, đoàn chèo Lạc Việt gặp khó khăn về tài chính, chị đã không ngần ngại bán đi tất cả những tư trang của mình còn lại để giúp đỡ đoàn tồn tại. Chị đã góp vào việc đào tạo, bồi dưỡng và truyền nghề cho một loạt diễn viên sáng giá như Thanh Trầm, Bích Nhuần, Tuyết Nga, Nguyệt Nga… Hoa Tâm dạy họ từ việc vấn khăn đến động tác xòe quạt đưa mắt. Chị vui lòng truyền lại cho lớp trẻ những ngón nghề bí mật mà đáng lẽ ra phải sống để bụng, chết mang theo. Lúc chị già yếu trên giường bệnh, chị bảo: tôi nặng khúc ân tình với cuộc đời. Mặc dù cuộc đời đã làm tôi đau khổ chị nói vậy được vài tuần rồi ra đi vĩnh viễn.
 
ÔNG HAI CHÂU

Không khí tưng bừng của ngày Tết Nguyên đán còn Ngần như nguyên vẹn. Làng Triều Khúc vào hội sớm hơn hẳn những năm trước. Năm nay, dân làng làm ăn có chiều hướng khá hơn. Đêm ngày mồng 5 tháng giêng, hầu như chẳng nhà nào ngủ. Họ tất bật làm cỗ bàn, bánh trái để đem ra cúng ở ngoài đình. Những đồ cúng đó lại được đem tất cả về nhà sau một hồi hương thắp và chia cho các cháu gọi là lộc. Gia chủ chỉ làm duyên với ông Từ một đĩa xôi nhỏ hoặc phẩm oản quả chuối. Việc cúng bái này không tốn kém gì mấy, cũng là bày vẽ ra mà ăn.

Khoảng 9 giờ sáng ngày mồng 6 tháng giêng là ngày tế Thành Hoàng. Ở Triều Khúc, Thành Hoàng cũng là Vua (Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương). Nhân dân rất tự hào với những dấu vết về bãi luyện binh của Phùng Hưng khi xưa còn lưu lại với những mô, những gò đống nhấp nhô thực mà mờ ảo ở phía sau ngôi đình cổ kính. Sau một tràng pháo nổ giòn, mọi người trang nghiêm làm lễ tế Thành Hoàng. Họ mặc những bộ quần áo lễ ngày xưa nhiều màu sắc rực rỡ, đội mũ, đi hia, những nhân vật chính biểu diễn những động tác được khoe trương với những nét múa chậm chạp và kéo dài. Ban hành bát âm xúng xính áo "thụng màu lam, cứ những làn điệu lúc hùng hồn, bi ai tha thiết lúc lại là dòng đời chảy xuôi duyên ngắn nợ dài. Khói hương nghi ngút, trong làn ánh sáng mờ mờ, mọi hình ảnh và màu sắc của các hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, mâm ngũ quả, đồ tế, những ngọn lửa nến v v… pha trộn lại với nhau hợp thành một vẻ đẹp kín đáo huyền bí, sương khói… thật khó tả. Ngoài sân đình, dưới chân chiếc cột cao treo lá cờ ngũ sắc với những miếng lưỡi hổ màu trắng bạch phất phơ.

Đó là một công báo về ngày lễ hội. Cũng chính dưới cái cột cờ sơn đỏ ấy có một đôi nam nữ nắm lấy tay nhau thật chặt, tưởng chừng như không thể nào rời nhau ra được. Họ lại hơi ngả thân vào nhau. Họ nhìn nhau như muốn quên cả đất trời. Cái trường đoạn này diễn ra quá lâu đã làm cho những người ở phía ngoài bỏ cả xem gà chọi và đấu vật mà để mắt nhìn về phía họ. Đôi nam nữ đã trở thành hai nhân vật nổi bật, hiếm có. Bốn thanh niên nam nữ cười rộn lên, xôn xao bàn tán với nhau, chỉ trỏ. Đám đông trở nên nhộn nhịp. Họ vẫn cứ nắm chặt lấy cổ tay nhau như sợ một trong hai người sẽbay đi đâu mất, mặc những tiếng xì xào những ánh mắt châm chọe từ bốn phía đưa tới. Họ chẳng biết trời đất là gì nữa. Mà lại có vẻ mỗi lúc càng say sưa hơn.

Người đàn ông chừng 70 tuổi, mặc áo the, khăn nhiễu. Ông sống bằng nghề khảm trai và nghề làm thao, may và làm cả kiểu áo bào rồng phượng, mũ mãng, hia dùng cho diễn viên chèo, tuồng. Thỉnh thoảng, có một đợt gió nhớ nhung quá khứ nào đó đem lại ông lại gấy mấy cung đàn nguyệt hoặc hát mấy bài quan họ. Giọng hát của ông trong trẻo, tươi mát và mạnh mẽ như cái hồi còn trẻ. Tên ông là Hai Châu ở xóm Cầu. Người đàn bà khoảng trên sáu mươi tuổi, mặc áo dài, quần đen, chít khăn nhung. Bà tên là Năm Diệu ở xóm Hạ Long Giang vùng Lim.

Người đàn bà này thuộc loại mà mọi người cho rằng họ có đến cái tuổi 60 chăng nữa vẫn còn xuân sắc. Họ quen nhau từ cái thủa mười tám đôi mươi khi cả hai cùng sống ở vùng Lim và rủ nhau đi hát quan họ hết làng này đến làng khác trong suốt tháng giêng. Họ là những vị liền anh liền chị được kính nể. Họ yêu nhau trong suốt thời gian dài nhưng không lấy được nhau. Thế rồi, cuộc đời xô đẩy, kẻ Bắc người Nam, nàng ở lại Lạng Giang với chồng con, chàng phiêu bạt sang Triều Khúc. Và từ mấy năm nay, họ đã đặt ra cái lệ được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và trang trọng.

Cứ hàng năm, ngày 6, 7 tháng giêng, bà Năm Diệu sang Triều Khúc dự hội đình, là thượng khách của ông Hai Châu. Ngày 13, 14 tháng giêng, ông Hai Châu lại tới hội Lim thăm bà Diệu và một số liền anh liền chị, bạn hồi trai trẻ. Năm nay, cũng như mọi năm, ông Hai Châu đã chuẩn bị đón bạn từ mấy hôm trước. Ông đã dành riêng một chiếc nhẫn vàng một đồng cân để đeo vào ngón tay run rẩy của bà Năm Diệu làm quà. Đây là thành quả của sự cố gắng làm lụng và sự tiết kiệm của ông. Ông cho rằng nhất định ông phải tặng bà món quà đó. Nếu không, ông sẽ vô cùng xấu hổ về cái sự, "Tu mi nam tử" của ông - ông nói thế. Họ vẫn đứng với nhau một lát nữa như hai pho tượng rồi dắt nhau rời khỏi đám đông, đi qua một lối nhỏ loanh quanh eo điểm những rặng cúc tần. Họ vẫn nắm tay nhau bước cao bước thấp về xóm Cầu. Họ chỉ biết có nhau và không để ý đến bất cứ cái gì hoặc người nào ở quanh họ. Bước vào nhà, họ rời tay nhau. Vẫn những cặp mắt nhìn nhau không rời. Ông Hai Châu chỉ cho bà Năm Diệu xem hòn non bộ, mấy chậu lan, những cây cảnh được tỉa, uốn theo những thế rất cầu kỳ và nên thơ, chiếc lồng chim lên nước có hai con bạch yến nhảy nhót… Tất cả đều là những tác phẩm tài hoa của ông Châu, ông luôn hỏi:
- Bà có thích không?
- Thích.
Ông lại dắt bà Năm đến gần hai cây si, một cao một thấp đứng cạnh nhau mà ngả nghiêng như đang trong cơn gió mạnh. Ông bảo:
- Bà này, đây là cây có cái dáng "Người ơi người ở đừng vê". Tôi đã đưa những tiếng hát của chúng mình vào hai cái cây này đấy. Bà có thích không?
- Cứ phải hỏi mãi! Ông Hai Châu hiện giờ đang ở đây. Gian nhà bé nhỏ nhưng gọn gàng, có vườn, có cảnh, ông sống một mình. Vợ ông đã mất từ lâu. Hai đứa con trai đã ơ  riêng và đi đây đi đó luôn. Nghe đâu họ làm ăn cũng khấm khá.
Ông pha trà có cho thêm mấy nhánh ngâu mưa thu vào rồi mời bà Diệu:
- Bà uống đi. Một năm mới lại gặp nhau. Quý quá. Thật vô giá. Thế nào, có vất vả không? Trời ơi Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn… Nhưng thôi, gặp nhau là bao nhiêu ưu phiền tan biến hết - ông nói nhát gừng và như thể đang khóc.
Ông Hai Châu và bà Năm Diệu nắm tay nhau. Thật là tình yêu không có tuổi, say đắm, cuồng si và mờ ảo. Đó là tình yêu đích thực. Cả hai người, họ không nói nhiều về tình yêu, cũng không kể lể dài dòng, phù phiếm. Họ chỉ biết có nhau. Thật là may mắn cho tôi là một nhà báo luôn săn đuổi những chuyện vui buồn âm thầm mà mãnh liệt xảy ra ở khắp nơi để dự trữ cho cái niềm vui quá nghèo nàn của tôi. Tôi đã tìm mọi cách làm quen với ông Hai Châu. Sau nhiều lần qua lại với nhau, ông coi tôi như là người bạn thân để thổ lộ nỗi niềm. Ông kể chuyện bồ cũng chẳng rầy la tôi điều gì mỗi khi tôi tò mò vặn vẹo mọi chi tiết. Có hôm tôi vào đề: “Hát quan họ là hát về tình yêu. Các tác giả phương Tây cho rằng hát quan họ là một loại ca hát dân gian, đầy chất phong tình, đầy cái đẹp. Nó ăn nhập với tiếng hát của nhân loại. Họ không mấy đả động đến cuộc sống của các liền anh liền chị. Nhưng một số nhà nghiên cứu của ta, họ cứ bắt chước nhau mà viết quanh đi quẩn lại một vài chi tiết. Nào là các liền anh liền chị quan họ không lấy nhau. Hát để vui xuân, tình bạn của họ thật trong sáng, đứng đắn, không bao giờ xảy ra cái gọi là trai gái. Họ kính trọng nhau, quý mến nhau, chỉ giữ ở mức tình bạn v.v… Tôi thật suy nghĩ về cái khoản này lắm". Ông liền nói ngay: "Chúng tôi quý nhau, tình yêu của chúng tôi trong sáng. Vâng"
Ông bỗng nhỏm dậy, nói to lên như trong một cuộc tranh cãi và có cái vẻ cửa quyền:
- Còn thì vứt, vứt hết những lời nói đó đi cho tôi. Chúng tôi làm ăn vất vả để đủ cơm ăn áo mặc. Chúng tôi hát là chúng tôi yêu đấy. Có yêu mới hát. Hát cho mình, cho người mình yêu, cho người mình đang khát khao. Hát để tỏ tình đấy.
Vâng, ông nói có lý.
- Nó phong tình đấy! Này nhé:
"Cổ tay em vừa trắng lại vừa tròn
Đã cho ai gối nên mòn một bên…"

Chúng tôi hát và hàng ngày chúng tôi làm nông nghiệp và nghề thủ công, trao đổi buôn bán. Chúng tôi hát được mọi người yêu quý và cung phụng ăn uống, phí tổn. Nghĩa là tiếng hát của chúng tôi phải hay để có người nghe, có khách hàng, có lộc… Chúng tôi hát bài "Lúng liếng", rồi đến bài "Vào chùa chải chiếu ra", có câu "Muốn kết a phú lợi tình là nhân… duyên…" thế không phải là rõ ràng thanh thiên bạch nhật tất cả rồi à. Giời sinh ra thế mà…
- Vâng! Vâng!
- Chúng tôi tình tang đấy. Anh tình tang, ả tình tang. Có điều là xã hội còn phong kiến, xã hội muốn kín đáo, chúng tôi nên kín đáo. Chúng tôi tình tang rất mực. Lại còn cái câu "Yêu nhau cởi áo cho nhau" ư? Chúng tôi hát như sau: "Yêu nhau…" nghỉ một lát, đến hai từ "cởi áo" lại nghỉ một lát, rồi mới đến: "cho nhau"? Như thế là có nghĩa lắm đấy. Anh cởi áo cho ả, ả lại cởi áo cho anh. Về đến nhà, cả hai bên đều nói dối cả đấy”. Đó là lời nói dối cho phép…
Ông yên lặng một phút, tợp một hớp rượu. Trong lòng ông chan chứa những điều muốn nói ra. Chúng cứ tranh nhau để được thổ lộ đến nỗi làm cho ông lúng túng. Ông như bị ốp đồng. Ông liền hát lên bài: "Ngồi tựa mạn thuyền" và "Còn duyên" với lời ca của cái thuở xa xưa… Tôi cũng cảm động đến ngạc nhiên và không ngớt lời khen ông. Quả thực, ông hát quá hay. Tôi chưa bao giờ được nghe ai hát quan họ hay đến như vậy, mặc dầu tôi đã được nghe hát hai bài đó không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi hoàn toàn có thể cảm nhận được thế nào là một bài quan họ hay Tôi lại cám ơn ông nhiệt liệt. Ông hến gạt ngay đi và càng hào hứng hơn.
- Trong mấy chục năm nay, tôi chưa thấy giọng hát nào địch được với giọng Năm Diệu của tôi. Kể cũng có đôi ba tay khá đấy. Nhưng họ hát vẫn còn chưa "ngon". À, mà nói đến cái “ngon” của đời người thì phải kể đến những ý kiến mà các vị đàn anh của chúng tôi cho là: "Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà nhảy ổ" và "Cơm chín tới, cái gồng non, gái một con, gà mái ghẹ"… Đấy!… Hát quan họ cũng phải hát sao "ngon" như vậy.
Tôi còn có nhiều lần tiếp chuyện với ông Hai Châu về những chuyến đi hát quan họ lưu động của ông với các hến anh hến chị, về cuộc đời có phần phẳng lặng mà sôi nổi của ông, những câu chuyện về bốn mươi chín làng quan họ, và nhất là những câu chuyện gần như huyền thoại về bà Năm Diệu của ông… Tất cả đủ để viết thành một tập sách dày lưu truyền cho thế hệ sau, gợi nhớ về một con người, một cuộc đời gắn liên với tiếng hát quan họ.
 
TRÚC QUỲNH

Trúc Quỳnh người nhỏ nhẹ, cân đối, mắt sâu, long mày lá liễu, mũi dọc dừa. Chị là nhan sắc một thời. Cuối năm 1946, Trúc Quỳnh đóng vai Phồn Y trong Lôi Vũ, có hai buổi thôi nhưng cũng đủ cho người xem trầm trồ khen ngợi đến tận bây giờ. Lúc ấy, Trúc Quỳnh mới có 20 tuổi. Người ta cám ơn trời đất và cuộc đời đã cho sân khấu Việt nam có được Trúc Quỳnh. Vai Phồn Y là một vai rất khó đóng. Nó nằm gọn trong việc thành công hay thất bại của một vở kịch lớn Nhưng Trúc Quỳnh đã thành công rực rỡ. Những người có may mắn được xem vai Phồn Y do các diễn viên Bắc Kinh, Thượng Hải đóng cũng phải công nhận Phồn Y nơi Trúc Quỳnh không thua kém chút nào, mà còn hợp lý, duyên dáng hơn là khác. Với Trúc Quỳnh, vai Phồn Y đã trở nên quý phái, sắc sảo, dào dạt sóng bên trong, kiêu sa, thèm khát, vừa cao cả vừa nhục dục, chân tình mãnh liệt, già dặn mà non tơ. Người ta gọi ngay chị là ngôi sao, là diễn viên phi phàm. Sau buổi diễn, cả sân khấu đầy hoa cho Trúc Quỳnh. Sao mà nhiều hoa thế.

Cho đến ngay hôm nay, tôi chưa thấy bất cứ một buổi biểu diễn nào mà một diên viên được tặng nhiều hoa đến như vậy. Người ta mê Trúc Quỳnh và số người đó đếm không xuể. Tài năng của Trúc Quỳnh không phải tự nhiên mà có. Nó chẳng xuất hiện từ số 0 mà nở ra là sung mãn, vẹn toàn hấp dẫn, đầy ma lực. Nó hút nhựa và được tưới tắm từ cuộc sống đầy thăng trầm, đột biến, nhiều mâu thuẫn, vừa đời vừa đạo… mà rất nghệ sĩ của bà mẹ tà; sắc. Trúc Quỳnh ham mê nhiều thể loại nghệ thuật và đóng kịch từ bé. Trong kháng chiến, chị đi biểu diễn ở nhiều vùng. Tính ra, chị biểu diễn ở ngoài tiền tuyến nhiều hơn ở nhà hát. Đôi khi diễn ngay bên mâm pháo. Chị sắm được nhiều loại vai. Tâm trạng càng phức tạp càng diễn được “lên màu làm nên những hình tượng không thể quên được. Những vai nông dân, người mẹ… của chị đứng lên rõ nét, có hình hài, tâm trạng, có tuyên ngôn của người phụ nữ Việt nam kiên cường và nhân hậu. Đó là những vai chính của chị trong "Mẹ Lệnh giữ lúa", "Cái võng", "Dưới chân thánh giá", trả con tôi đây? Nỗi đau tinh thần của người mẹ mất con trong vở “Trả con tôi đây” đã được vật chất hoá, như có thể sờ mó được. Nỗi đau trở nên hiện diện, mãnh liệt và khủng khiếp. Khán giả vỗ tay lại kêu lên "Phồn Y Phồn Y…: " Vì yêu cầu của các mâm pháo, đôi khi chị đảm đương công việc biểu diễn của các diễn viên múa và diễn viên hát. Chị biểu diễn đằm thắm, đam mê, vừa thực vừa ảo và cũng được liệt vào những diễn viên múa, hát hàng đầu. Hoà bình trở lại, trong vở "Những người ở lại", chị đóng vai Ngọc Cầm với tâm trạng rối bời, phức tạp. Chỉ có chị đóng vai chính này. Không có diễn viên "Đúp” Sau đó, chị có một loạt vai thành công như "chị Hoà" trong vở Chị Hoà. Panova trong "Liuba" (không tìm được vai đúp). Ở vở kịch đồ sộ này, vai chính của chị thể hiện một tâm hồn Nga, rất Nga mà đạo diễn Vasiliep phải thừa nhận: thuần khiết, sâu lắng, tinh tế mỗi cử chỉ, dáng điệu của chị đều nồng nàn chất tạo hình. Đạo diễn Vasiliep lại nói: “Thành công của Trúc Quỳnh trong "Liuba" không chỉ đánh dấu tài năng vả sự trưởng thành của Trúc Quỳnh mà còn đánh dấu sự rạng rỡ của sân khấu Việt nam. Sau đó, chị lại đóng tiếp Lâm Nhĩ Nhàn trong "Đứng gác dưới ánh đèn nê-ông", vợ giáo sư Hoàng trong vở " Giáo sư Hoàng", Lia trong "Platon", bà mẹ trong "Tay súng dân quân", bà giáo trong, "Mẹ và những người con" Maria Jlitrina trong "Khúc thứ ba bi tráng", bà Pio trong "Sang sông". Chị còn thành công khi vào vai mẹ Núi trong bộ phim, "Đường về quê mẹ". Chị chẳng những chứng tỏ khả năng của mình mà còn có lòng quả cảm, hy sinh cho nghệ thuật. Ở những pha diễn nguy hiểm, đạo diễn đề nghị cho người khác đóng thay, nhưng chị không chịu và đề nghị chính mình được đóng để thể hiện tốt hơn. Chị đã phải vật lộn với một con bạc giê to lớn, hung dữ, chịu đựng những miếng ngoạm thực sự của nó. Chị đã vượt qua những pha như vậy với lòng dũng cảm của một chiến sĩ để đạt được cái đẹp thăng hoa cho những thước phim. Trúc Quỳnh rất dễ xúc động. Nhưng cũng rất biết truyền những xúc động đó tới người xem. Mỗi lần chị nhận một vai diễn hoặc một kịch bản phim nào chị đều cho đó là một lần "sơ tuyển" đối với một mối tình mối tình sân khấu. Trong sáng tạo nghệ thuật, Trúc Quỳnh luôn muốn đạt đến mục đích của sự cao cả. Chị có tinh thần trách nhiệm và một sự say mê không nguôi. Chị học tập ở sách, ở bạn bè xung quanh để đạt đến sự hoàn thiện của giọng nói, dáng đi, cách đứng làm sao cho tiếng cười tiếng khóc có được cả kỳ hoa dị thảo để dinh dưỡng tinh thần cho con người. Làm được như vậy, Trúc Quỳnh đã là một nghệ sĩ thực sự cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cho đến giờ, Trúc Quỳnh được kể như là một trong những nữ nghệ sĩ kịch nói hạng nhất. Mà những nghệ sĩ hạng nhất chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

Sân khấu Việt nam là một phần quan trọng trong nền văn hoá - nghệ thuật Việt nam độc đáo và đa dạng. Thật thiếu sót khi nói đến sân khấu Việt nam mà không nhắc đến Trúc Quỳnh. Đó là hiện thân của một nghệ sĩ cao cả, đẹp đẽ, xa xôi, mong manh, đơn côi và bí ẩn. Trong đời thường, Trúc Quỳnh khiêm tốn, yêu quý mọi người, giản dị, không ồn ào, không đòi hỏi nhiều, không bon chen, cầu cạnh, một tâm hồn nhiều ước vọng. Chị ra đi thanh thản như một chiếc lá diễn viên lìa cành sân khấu. Cả cái cây sân khấu rung lên thương tiếc và nhận chút phần đóng góp của chị để lại. Chị thích câu nói của Cơrian Chandra, nhà văn kiệt xuất của Ấn Độ: “Tôi hướng về một bông hồng và một ngọn lửa mà không bao giờ tôi với tới "…
 
CON GÁI HÀ NỘI

Cũng không hiểu sao Hàn lại yêu Oanh và được Oanh chấp nhận. Sau khi họ cưới nhau, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Mẹ Hàn mất sớm, lúc Hàn 18 tuổi anh đi bộ đội 8 năm, rồi xuất ngũ về với gia đình, Oanh chăm sóc Hàn mọi rặt đến mức Hàn không chê vào đâu được. Vợ anh có tài năng, các bạn bè khen Oanh nức nở. Thế rồi, họ có nhiều ảo tưởng trong cuộc sống. Cả hai đều có trình độ đại học. Nhưng với thực tế cuộc sống trong gia đình cùng với chồng, đôi lúc Oanh trở nên mệt nhọc vô cùng. Nàng tiều tuỵ đi đôi phần. Đứa con trai ra đời lại hay ốm yếu đã vạch ra một sự ngăn cách giữa hai vợ chồng. Nào nhiệm vụ với cơ quan nào những công việc có tên và không tên vây lấy Oanh đến ngạt thở làm cho tổ ấm gia đình trở nên giá lạnh. Oanh không hiểu được rằng chồng nàng rất yếu đuối trước những khó khăn. Trái tim và tấm lòng của anh không chịu nổi sự thử thách phũ phàng của cuộc sống. Đứa con trai lớn lên, Oanh mới rảnh tay, tập trung mọi cố gắng chăm sóc, giúp đỡ chồng. Chị mang đến cho chồng sự nồng ấm, êm đềm, dịu dàng và với tất cả những gì cần có ở một người vợ. Nhưng hình như đã hơi muộn. Anh ta đã thay đổi. Anh ta không còn quyến luyến Oanh như trước. Anh đã nhìn Oanh và gia đình với con mắt lạnh lùng. Do vậy, mọi cố gắng của Oanh đã bị loãng đi. Anh ta cũng rất lý trí và cự tuyệt một vài trường hợp bị cám dô bởi những cô gái trẻ, đẹp. Anh trở nên nóng nảy và hay cáu gắt. Vợ chồng anh luôn cãi nhau. Cả hai bên đều không chịu ngồi xuống nói chuyện chân thành. Tình trạng này dẫn đến việc anh "dính" vào vòng tay cô vợ đẹp của một anh công chức hạng thấp. Biết được chuyện này, Oanh vừa tức giận vừa đau buồn. Sự đau đớn cực độ này làm cho Oanh bừng tỉnh, nhận ra chân tướng của sự việc. Oanh không khóc nữa, không ra khỏi nhà mấy ngày liền, nàng kinh ngạc và thấy bản thân mình cũng chịu trách nhiệm về việc thay lòng đổi dạ của Hàn. Nhìn lại mấy năm trời chồng ở nhà thì đau đầu, chồng đi xa thì đau lòng. Họ đã, "kiêu" với nhau, dùng thái độ “lạnh” đối xử với cái lạnh. Họ không biết tình yêu là gì. Trước hết, Oanh lấy tấm lòng người vợ, quan tâm đến chồng với mức tối đa. Oanh ngẩng cao đầu, quyết tâm kéo chồng trở lại với gia đình. Oanh phát hiện ra chính mình. Nàng thể hiện cái đẹp bên trong lẫn bên ngoài của mình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của chồng. Đó là cả một giai đoạn cố gắng gian khổ. Oanh tin vào một vài sợi thuần khiết vốn có của chồng sẽ không làm cho mình thất vọng. Quả nhiên, trong bối rối, mê loạn, Hàn trở lại với Oanh. Nàng tôn trọng sự tự tin của chồng, không nói thẳng mà viết cho chồng mấy lá thư dài. Trong thư, nàng phân tích nhẹ thái độ lạnh nhạt của chồng và thừa nhận sự thiếu trách nhiệm của mình. Nàng cũng nhắc lại những kỷ niệm tươi đẹp trong thời gian đã qua. Xem xong thư, chồng Oanh thốt lên "Lành làm gáo, vỡ làm môi" Và có ý định ly hôn. Anh ta không ngờ Oanh nói có tình có lý, lại rộng lượng khoan dung đến vậy. Anh ta bảo: “trong chiến tranh lạnh, cả hai người cùng khổ". Hôm đó, họ nằm bên đứa con trai hai bàn tay họ gặp nhau, nắm lấy nhau. Họ cùng khóc với nhau. Thế là gương vỡ lại lành.

Mấy năm sau, chẳng biết cuộc đời xô đẩy thế nào, gương lành lại vỡ. Tôi gặp Oanh ở một quán cà phê. Oanh đã 60 tuổi. Nàng nhanh nhẹn, sang trọng và đẹp. Trông Oanh chỉ như người trên 40 tuổi thôi. Người chồng cũ của cô, anh ta ân hận cô đơn đến bạc trắng cả đầu. Con trai cũng đến thăm Oanh sau những chuyến đi công tác dài ngày để được ôm chầm lấy mẹ. Oanh khá nổi tiếng, dạy tiếng Anh và tiếng Pháp. Nàng còn làm cả việc nghiên cứu văn hoá dân gian. Có nhiều người đến xin được lấy Oanh, trong đó có cả những người trạc 40 tuổi cũng đến cầu hôn. Oanh không nhận lời ai cả. Tôi mừng cho Oanh và khen: "Em thật đầy nghị lực". Mắt Oanh ánh lên một niềm vui sắc sảo và bảo: "Em là con gái Hà Nội mà"…
 
NHUNG

Hôm ấy trời mưa phùn. Sau khi phải vất vả hầu hạ mấy ngày trời liền trong công việc bốc mộ người bà nuôi, Nhung được thư thả một chút. Các cô, bác họ hàng về dự lễ chuẩn bị trở về Hà Nội. Nhung chợt nghĩ mình cần phải ra Hà Nội. Cái làng quê bé nhỏ này không giúp gì cho cuộc sống sau này của mình. Nếu ra Hà Nội có bị khổ sở gì chăng nữa thì cũng không sao cả, Nhung quen rồi. Cũng chẳng có gì mà mất. Ở đây, Nhung chỉ là đứa con nuôi của ông Cả. Mẹ Nhung là người nghèo khổ, hầu hạ gia đình họ Nguyễn. Mẹ Nhung đi lại kín đáo với ông Cả mà sinh ra Nhung. Tất cả âm mưu là do ông Cả xếp đặt, sao cho có được một đứa con trai. Ngờ đâu lại là gái. Ông không công nhận Nhung là con ông mà chỉ nhận làm con nuôi. Ít lâu sau, ông Cả và mẹ Nhung đều chết Nhung làm con nuôi của em trai ông Cả. Trong đám người về Hà Nội, có một ông chú họ xa, ăn mặc bảnh bao, chải chuốt. Hắn goá vợ và có vẻ lẳng lơ ra mặt. Nhung đề nghị được ra Hà Nội với hắn. Hắn mừng quýnh lên như bắt được của, hứa sẽ cho Nhung ở gian dưới cùng với con gái hắn. Nhung sẽ được hắn cho đi học thêm vì Nhung rất thông minh. Tiền nong thì hắn nhiều. Hắn nói với em ông Cả một vài câu trịch thượng và lôi được Nhung ra Hà Nội. Đến năm Nhung lên mười bảy tuổi. Nhung yêu một chàng trai ở phố H. gần nhà, tên là Văn. Gia đình này kênh kiệu, có chuông điện và nuôi chó Tây. Ông chú nuôi của Nhung rất ghét Văn, không muốn cho Văn đi lại với cô cháu. Ông coi Nhung như một giò lan Bạch Ngọc của riêng mình. Chỉ mấy tuần sau, Văn lấy một cô gái xấu xí nhưng là con cưng của một ông cán bộ cao cấp. Văn cần đi nhiều nước và thăng quan tiến chức nhanh. Nhung rất cay đắng nhưng có đối sách ngay.
Nhung liền xưng hô chú cháu với một ông bạn mới của ông chú nuôi. Ông này đầy đủ sức mạnh và tích cực xin cho Nhung đi học tập tại Đức, bất chấp sự ấm ức của ông bạn thân. Thì ra, lòng tốt của họ đều vụ lợi cả nhưng lại nguỵ trang bằng nhiều cách. Nhung đã thấy được giá trị của mình. Người mẹ khốn khổ của Nhung đã kiến tạo ra được một đứa con xinh đẹp bằng những mảnh vụn nát của đời mình. Sang nước ngoài, ngoài những chương trình bắt buộc ra, Nhung say sưa học thêm về hoá trang, trang điểm, lái ôtô và học vô thuật. Học được gần hai năm, Nhung xin về nước. Thế là Nhung về Hà Nội, tứ cố vô thân. Các vị cha chú, anh em hờ đều tỏ ra thân tình, săn sóc Nhung.
Họ đều có một yêu cầu giống nhau. Họ đều muốn “xơi tái”, "xào khô", "xào ướt" Nhung. Chẳng ai là không có cái âm mưu đen tối ấy. Kể ra, nếu trong số họ có được một người tài ba, thông minh, lịch thiệp và thông kim bác cổ thì Nhung cũng "cho xong ngay". Nhưng may quá họ chỉ là những phường giá áo túi cơm không hơn không kém. Nhung từ giã tất cả rồi mua một căn nhà nhỏ hẻo lánh ở ngoại thành. Cô lao vào việc giao du rộng rãi với đủ tầng lớp, cả với những người nước ngoài ham của gỉa. Sự thiếu thốn đã đến với cô. Nhiều lúc cô cần tiền. Cô hạ quyết tâm trong một tuần lễ phải có được một số tiền nhất định, đủ để có một bộ quần áo sang trọng nhất, một đôi dép làm lóe mắt mọi người, một túi xách tay rất mốt và một số tiền cho nó "lên hương"… Cô đã thực hiện được cái quyết tâm đó đúng lúc cần cho việc đi dự vũ hội, gặp gỡ các bạn trai. Cô "chài" một số bạn trai và người nước ngoài. Cô làm cho họ cảm thấy được làm bạn và biếu tặng một vài thứ cho cô là một điều hạnh phúc lớn. Cô không cho ai hôn môi cô. Nhiều nhất cũng chỉ thơm tóc thôi, tóc không biết nói.
Cô có những động tác tế nhị mà có hiệu quả làm cho các bạn trai không thể nào tiếp xúc được môi cô. Môi là trận địa cuối cùng để đi đến chiến thắng của một người đàn bà. Người đàn ông nào cũng hiếu thắng. Cô cho họ khao khát mà ngầm hiểu rằng không thể chiến thắng cô một cách dễ dàng. Họ lại càng cay cú và quyết tâm thực hiện ý đồ của họ. Cô "bóc" của bọn thanh niên con cha cháu ông. Cha ông, chú bác nhà chúng đi nước ngoài như đi chợ, có nhiều bổng lộc, nhiều may mắn. Mà trong số họ, một số chẳng có khả năng, đạo đức gì. Họ được hưởng những của mà họ chẳng đáng được hưởng. Cô "bắt rễ" vào Thắng. Anh chàng này là con của một gia đình vừa có thế lực vừa có tiền.
Cô cố mọi cách làm cho chàng công tử này chết mê chết mệt vì cô cho cô là người kiếp trước của chàng. Những cô gái khác môn đăng hộ đối với gia đình chàng, so với cô trở nên không có một chút nhan sắc. Trong thâm tâm, Nhung không yêu Thắng. Nhưng cô đi lại thân mật với tất cả các thành viên trong gia đình Thắng, nhất là với u Thắng, là người giúp việc tin cậy, trông nom nhà cửa cho gia đình. Bà cũng là người họ hàng. Bà không chồng không con vì trước đây bà ở vào cái thế cao không đến thấp không thông, nên lỡ thời. Thắng chuẩn bị mua sắm nhiều thứ và để hẳn vào một gian buồng gác hai. Tất cả những xe máy, xe đạp ti vi cát xét, máy ảnh hảo hạng, vàng bạc, tiền nong của bố mẹ đều được đưa sang gian buồng dành riêng cho Thắng chuẩn bị cưới Nhung. Một buổi trưa Nhung ra gần bến xe Kim Mã, thấy một chiếc xe tải nhỏ đỗ ngang phè phè, chạm lòng đường. Anh lái xe ngủ say ngay bên cạnh sau một chuyến đi xa mệt mỏi. Nhung đến gần, đi đi lại lại, làm cho anh lái xe thức dậy. Anh ta liền tỉnh như sáo sậu và làm quen ngay với Nhung, mời Nhung đi ăn uống.
Anh lái xe còn trẻ có nét bạch diện thư sinh, say mê cô bé ngay lập tức.Họ nói chuyện với nhau rất tâm đầu ý hợp Anh ta đã, "đổ”. Đúng như Nhung thường nói, rằng cô không "cưa" thì thôi, cô đã "cưa" thì ai cũng phải đổ. Đến nhà Thắng, cả nhà về quê, chỉ còn lại bà giúp việc. Vì hôm trước Nhung và Thắng đã ngồi với nhau ở dưới nhà mãi. U Thắng đã biết và cho rằng đôi này đang chuẩn bị cưới nên không mảy may ngạc nhiên về việc Nhung đến đường đột lúc Thắng không có nhà. Nhung vui vẻ: "U ơi! con gái của u đến biếu u cái này đây”. Nhung trao cho u Thắng một gói bánh cốm có lạt đỏ và một bọc sườn, rồi bảo: "Anh Thắng cũng sắp về, u làm cho món sườn chua ngọt đi rồi mấy u con ta ăn cơm với nhau. Nói đoạn, Nhung đi thẳng vào trong nhà, lên gác hai thăm thú thật nhanh rồi lại xuống với u Thắng.
- Con đợi Thắng về nhé. Thẳng cũng sẽ có quà biếu u đấy - Nhung nũng nịu.
- À, thế này nhé. Cô đợi Thắng ngoài này, để tôi ra đằng bếp làm món sườn. À mà lại còn một lô quần áo cần phải giặt nữa chứ - U Thắng nói rồi đi về phía nhà bếp ở mặt sau.

Nhung gọi anh lái xe đánh xe vào. Đuôi xe vừa đúng vào tầng hai. Mở chiếc khoá cửa phòng to tướng, Nhung chỉ cần một cái đinh và một que tăm là xong. Anh lái xe trở thành một phu khuân vác chuyên nghiệp, đưa tất cả bao nhiêu của cải đặt trong phòng xuống xe, Nhung nhét tất cả mọi thứ quý giá nhất vào va li. Sức mạnh của tình yêu là vô địch, họ làm được tất cả mọi việc. Chỉ trong một thời gian ngắn, việc chuyển cả cái kho lên xe ô tô đã xong. Xe rồ máy phóng đi thật nhanh, vòng vèo, điên dại. Anh lái xe sẵn máu giang hồ lãng tử, mơ màng tính đến viễn cảnh mai sau. Xe đi được một đoạn, đến quãng đê gần phía đi lên cầu Chương Dương. Nhung đề nghị dừng xe lại một chút để nghỉ ngơi va lấy lại tinh thần. Mỗi người một chai nước ngọt, họ vừa uống vừa nhìn nhau không chớp mắt. Những tín hiệu họ phát ra cộng hưởng với nhau. Rồi, Nhung với cái mũ lưới trai kiểu Mỹ trên đầu anh lái xe và chụp lên đầu mình, gạt anh lái xe sang bên phải và ngồi lên lái xe. Đến chỗ đê quai gần bãi Phúc Xá, Nhung vẫn cho xe nổ máy. Cô kéo anh lái xe xuống cùng làm vài động tác thư giãn. Họ nắm tay nhau. Anh lái xe ngửi hơi tóc ấm của người đẹp. Trong nháy mắt, Nhung dùng võ thuật ném anh lái xe ngã dúi ra một quãng xa. Cô nhảy phục lên xe, phóng thẳng. Đến một ngõ phố, Nhung đã tiêu thụ được tất cả những đồ đạc có trên xe nhanh như làm ảo thuật. Nhung dồn tiền và vàng bạc vào một chiếc va li nhỏ hơn cho gọn. Vứt bỏ không thương tiếc chiếc va li cồng kềnh. Đến mười một giờ đêm, trên xe không còn hàng nữa. Nhung lái xe lên đoạn đường gần đền Voi Phục, để nằm lại đó, hạ chiếc xe Pơgiô mới toanh xuống. Chiếc xe là quà chuyến đi Paris của bố Thắng cho. Nhảy lên xe Nhung phóng vun vút như một bóng ma qua Ô Cầu Giấy Đoài Môn rồi về Bưởi. Thời gian trôi đi chừng sáu, bảy tháng. Chẳng ai có thể tìm thấy tung tích của Nhung tuy cô vẫn tung tẩy nay đây mai đó. Có điều, Nhung áp dụng nhiều kiểu hoá trang và luôn luôn thay đổi phục trang. Dĩ nhiên, cô có rất nhiều tiền. Lúc là Lan lúc lại là Huệ. Nhung sống rất rộng rãi thoải mái, tiêu tiền bằng thích và có quan hệ bạn bè với một số nhà văn, nhà thơ trẻ. Đám này cũng hay hay. Song họ chỉ hiểu biết một số kiến thức về văn hoá nghệ thuật mà rất ngờ nghệch về mặt xã hội. Họ kính trọng và tôn sùng Nhung, cám ơn tấm lòng nữ Mạnh Thường Quân của Nhung. Đến tháng thứ tám, trong một quán giải khát, Nhung ngồi một mình, dáng hơi mệt mỏi. Cô nghĩ trở lại cội nguồn, thích cái lúc mình là cô bé tắm truồng trong ao làng. Phía góc quán có anh công an đeo kính râm đang nhấp cà phê. Anh tình cờ nhớ mang máng ra những đặc điểm của Nhung. Anh cũng không tin vào trí nhớ của mình nữa. Nhưng cũng muốn làm quen với Nhung. Cứ bắt chuyện cái đã, chết ai mà ngại. Không ngờ cái câu hỏi không chủ đích của anh lại xảy ra một sự việc không lường tới. Anh công an đến bên bàn, mình hơi cúi xuống:
- Thưa chị. chị có phải là chị Nhung không ạ?
- Vâng có lẽ la số phận. Tôi trả giá cho sai lầm của tôi. Tôi là Nhung…

Nhung sống ở trong trại cải tạo chừng hơn một năm. Ở đây cô sống khác hẳn với những người cùng bị giam giữ. Bằng nhan sắc, nghị lực và bằng mấy miếng võ bi truyền của người xạ phang, bọn đầu gấu hạng nhất cũng phải kiêng nể cô. Bọn chúng dành tất cả mọi sự ưu ái cho cô. Hơn nữa, cô luôn luôn nhận cho riêng mình một chút còn chia hết chứ mọi người. Lại có một chuyện xảy ra Nhung thường kín đáo đến gần phía dãy các tu nhân nam. Nơi đó, có một chàng trai tên là Nam, có một trình độ uyên bác có lẽ chỉ có chàng mới hiểu được Nhung, chàng mới hợp với tình diệu muôn vẻ của Nhung, chàng không đẹp rộn ràng nhưng có đôi mắt vương vất một nỗi buồn muôn thuở. Hai người đã có với nhau nhiều cuộc gặp gỡ bên mấy gốc cây to. Xung quanh là cây cối rậm rạp, sáng, chiều đều lờ mờ một thứ ánh sáng u uất. Họ ca tụng nhau và cùng khóc với nhau Nhung nỗi đau trần thế. Nhung động viên Nam cố gắng cải tạo và hẹn lấy nhau khi chàng ra trại. Họ nhắc nhau sống để gặp nhau và vì nhau. Chỉ cần họ bên nhau là có đủ sức để đi đến cùng trời cuối đất. Mọi người luôn yêu cầu Nhung kể cho nghe chuyện, nào là chuyện Tây, chuyện Tàu, chuyện phiêu lưu, tình ái… Họ mê mẩn về tài kể chuyện của Nhung, nhất là những chuyện bịa hoặc chuyện về người mẹ của cô đã phải đi tu đến năm ba mươi chín tuổi. Đến năm bốn mươi tuổi bà mới bỏ chùa và lén lút có con với một người đàn ông bảy mươi tuổi…Những chuyện này được kể rất xúc động với những chi tiết “ có cánh”… Nhung còn giúp đỡ một số việc cho trại và cho cả tập thể trại nữ. Cho nên các giám thị, quản giáo thường bỏ qua cho Nhung những điều có thể bắt bẻ hoác xử phạt.

Hết hạn cải tạo, Nhung lại về Bưởi. Nơi đây không có đất làm ăn, đồng tiền khó kiếm lắm. Với hai bàn tay trắng, Nhung vay mượn chút ít, chung vốn với một chị bạn, buôn bán quần áo may sẵn ở chợ Giời. Mấy tháng sau, Nhung buôn bán một mình. Đợi mãi không thấy tin tức gì về Nam. Cô nhớ đến mối tình vụng trộm với Nam trong rừng những năm trước. Cô cho là cuộc đời tình duyên của mình đã hết. Cô lao vào buôn bán và phất lên nhanh chóng. Hay là số phận đã đưa Nhung đến chợ Giời chăng? Nhung nghĩ thầm như vậy. Đất chợ Giời thật dễ làm giàu. Cô đã qua một vài cuộc tình, lấy vài người chồng rồi lại bỏ. Cô đã có trong tay ba sạp hàng và trở nên nổi tiếng với cái tên "Con Phượng hoàng của chợ Giời". Cũng có nhiều tai tiếng về cô. Nhung không để ý mấy đến dư luận xung quanh. Nhung cứ tồn tại một cách tích cực. Không bao giờ có tâm trạng buồn nản. Nhung hiểu rằng mình cô gắng làm cho cuộc sống của mình đi lên thì bao giờ cũng có những kẻ ghen ghét. Đó là lẽ thường. Nếu như Nhung vẫn còn là Nhung ở cái đất Phú Xuyên xơ xác, nghèo nàn thì Nhung sẽ phải chuốc lấy sự khinh rẻ, những sự lo lắng kéo dài và Nhung không còn được biết một chút gì ngoài cái luỹ tre làng bùn lầy nước đọng. Bây giờ khác, Nhung đã có đủ khả năng để hoà nhập và đối phó với cuộc sống, đã hiểu được bao nhiêu điều mới mẻ, hấp dẫn của cuộc đời. Nhung còn được tiếp xúc gặp gỡ với bao nhiêu con người tuyệt vời mà Nhung yêu mến. Nhung học hỏi được ở họ mọi (cách ăn, nói, gói mở và thực sự làm chủ cuộc đời mình. Nhung cảm ơn cuộc sống, cảm ơn cái quê hương nghèo nàn và người mẹ đau khổ của mình). Hơn thế nữa, việc kinh doanh của Nhung đã đưa Nhung lên một vị trí đáng nể, Nhung được nhiều người quý trọng, lại có chân trong hội từ thiện tấm lòng vàng giúp đỡ các trại mồ côi, hội người mù và giúp đỡ tu sửa những di tích lịch sử văn hoá.
Chị phóng viên nhà báo thân thiết với Nhung rất quý Nhung và đã động viên Nhung nhiều, chị đánh giá: “Nhung là một phụ nữ đầy trí tiến thủ, thích hợp với cuộc sống mới có tốc độ vũ bão. Nhung giàu linh hồn, nhiều giấc mộng, Nhung còn đi xa".

RẶM TRƯỜNG
Tên cô là Thanh, người Lạn Dương, sống tại một Xóm nhỏ vùng đồi thuộc Vũ Yến - Phú Thọ. Thanh 18 tuổi. Cô đi trên xe lửa suốt cả đêm. Cô đã phải đi bộ từ lúc nhá nhem tối, vội vàng, lật đật để tới được ga. Cô sợ anh cả và chị dâu biết rồi lôi cô về thì cuộc chạy trốn khỏi làng của cô sẽ không thành. Cô bị người anh cả ép gả cho một anh chàng làm chè ở Thái - Ninh, tên là Lạc và đã nhận của Lạc một số tiền hai triệu đồng Hai năm trước đây, mẹ đẻ của Thanh qua đời Cô phải ở với người anh cả. Ở đây, người ta vẫn hay nhắc đến câu: “Quyền huynh thế phựt”, cô không nhận lời lấy Lạc. Cô xin với anh cả hãy trả lại số tiền của Lạc. Nhưng người anh cả nói là đã tiêu gần hết cho bao nhiêu chuyện trong gia đình. Anh ta dỗ dành và dùng đủ mọi áp lực ép Thanh lấy Lạc. Hai hôm nữa là ngày chạm ngõ và bốn hôm sau Thanh sẽ về nhà chồng. Thế là mọi việc sẽ đâu vào đấy.
- Em không lấy.
- Em phải nghe lời anh chị.
Thanh buồn lắm, cô ngồi xuống bậc cửa, cúi mặt. Những giọt nước mắt chảy xuống.
- Khóc cái gì chức Con gái lớn, phải đi lấy chồng.
Mấy người bà con bên cạnh biết chuyện. Nhưng họ cho là người anh cả lo việc dựng vợ gả chồng cho em là một chuyện hợp với thiên kinh địa nghĩa. Nhất là khi cả hai cha mẹ đều không còn. Số phận cả thôi! thanh đi bộ một quãng rồi lên ô tô đi đến ga, về thẳng Hà Nội. Xuống ga Hà Nội, Thanh đi về phía Vọng. Cô vào nghỉ trong một quán nước. Bà chủ quán dáng người đôn hậu, biết ngay Thanh là người ở xa tới Bà róc nước cho cô gái và nhìn kỹ cô gái từ đầu đến chân. Bà hỏi:
- Cô ở đâu tới?
- Cháu ở Phú Thọ tới.
- Cô về đâu bây giờ?
- Cháu…cháu còn…
- Chết! Cô đi một mình à? Không có ai quen chứ?
- Vâng - Cô liều thật, tôi phải giúp đỡ cô kẻo khốn đấy…
- Thưa bà, cháu trốn gia đình. Anh cả cháu ép cháu lấy một người mà cháu không thích…
- Tôi hiểu rồi, tôi ở đây có một mình. Trông cô nhẹ nhõm, tôi mến cô đấy! Thế học đến lớp mấy rồi?
- Dạ, đến lớp 10 ạ…
- Ừ, chắc muốn tìm việc làm…
- Vâng ạ.
- Thế định làm việc gì?
- Việc gì cháu cũng làm được.
- Thế có tạm giữ trẻ được không?
- Được ạ!
Bà Dương gọi một cậu thanh niên ở bên nhà đối diện sang bảo: Này cậu Tê ơi! Tôi có một cô cháu có thể giúp việc trông con cho chị Hằng nhà cậu đấy. Cậu đưa cháu nó lên cho chị ta xem mặt. Chị ấy đang cần.

Cậu Tê về nhà lấy xe máy đèo Thanh đến nhà chị Hằng. Đó là một ngôi nhà mới làm. Chồng chị Hằng ra mở cửa, đón hai người vào, bảo: "Vào đi”. Đứng trước cửa phòng chính, Thanh rụt rè. Lúc này có tiếng đàn bà ở bên trong vọng ra: "Vào đây”. Hai cánh cửa mở. Thanh bước vào. Chàng thanh niên bảo với cô gái: "Tôi là em anh chị tôi ở đây. Cô chào chị Hằng và anh Tôn đi!”. Thanh cúi chào. Tê nói một vài câu với anh chị rồi xin phép về ngay vì bận việc. Anh Tôn mở cửa buồng bên cạnh ra bảo Thanh cùng vào. Bên trong có một giường, một hành mấy chiếc ghế. Chị Hằng vào theo. Chị bật các đông tắc điện cho cô gái biết rồi chỉ vào chiếc giường: "Tối cô ngủ ở đây”…
Từ hôm đó, cô gái giúp việc cho chị Hằng. Chủ yếu là trông con cho chị. Ngoài ra còn phải giặt giũ cho cả nhà và làm tất cả mọi việc lặt vặt Lương tháng là 200 ngàn đồng. Anh Tôn làm việc ở cơ quan bộ. Chị Hằng làm việc tại một công ty liên doanh với nước ngoài. Nghe đâu, lương cao lắm. Tháng lĩnh tiền công đầu tiên, Thanh mua một chiếc bút bi và một cuốn sổ con để ghi nhật ký mỗi khi có được chút thì giờ tranh thủ. Thời gian đầu, chị Hằng không biết là Thanh thường ghi nhật ký mà chỉ tưởng là Thanh đọc các sách, báo cũ đặt lung tung trên bàn. Trong nhà luôn có người mang đến nào thịt, nào cá, trứng, hoa quả. Thanh hỏi chị Hằng xem những thứ đó có phải trả tiền không? Chị Hằng bảo: "Có cái gì mà ăn không được đâu” Nhưng Thanh cứ thấy các nhân viên mang đến cho chị Hằng nhiều thứ mà chẳng thấy phải trả tiền bao giờ. Đêm khuya, Thanh vẫn để đèn sáng, cô ghi nhật ký và giở các trang sách, báo gây nên những tiếng sột soạt Chị Hằng đặng hắng mấy tiếng rồi lại mấy tiếng nữa. Thanh biết là chị Hằng giục mình tắt đèn.

Trong mấy tờ nhật ký của Thanh có những dòng ghi rất thương tâm, làm rơi nước mắt. Cô phải lau đi ngay, không dám khóc. Từ sau khi cha mẹ cô qua đời, cô đã hiểu rõ là không nên khóc. Khóc sẽ làm cho người khác ghét. Chị Hằng có rất nhiều quần áo đẹp. Chị cũng cho Thanh một vài thứ cũ mà chị không dùng tới. Nhưng với Thanh, chúng đã là đẹp, tốt và mới lắm rồi. Thanh cảm động quá, nói lời cám ơn cứ líu ríu. Chị Hằng bảo: "Không phải cám ơn. Sau này cứ làm việc tốt là được rồi…".

Ôi! Chẳng hoá ra như vậy là mấy: tháng trước đây, Thanh làm việc không tốt hay sao nhiều lúc, Thanh nhớ nhà quá. Nhớ những ngọn núi những quả đồi trồng cây đó, cây cọ. Nhớ những con suối mát lạnh. Nhớ mùi chè ủ thơm mùi mật ong. Chị Hằng bắt đầu để ý đến những dòng nhật ký Của thanh. Tuy rằng, chúng không động chạm gì đến gia đình chị Hằng, nhưng chúng cứ như trong tiểu thuyết chị chợt nhớ ra nhiều điều. Chị thấy chỉ trong có mấy tháng mà Thanh đã đẹp ra nhiều. Thanh nhanh nhẹn, khỏe mạnh, lại có duyên thầm. Thỉnh thoảng, chồng chị Hằng lại khen Thanh: "Ừ, mà má nó lại cứ đỏ lên như màu mận chín". Thôi, chết rồi, hình như cậu em anh Tôn cũng lưu ý đến nó. Nghĩ liên miên một lúc, Hằng vào trong phòng, vò nát mấy tờ giấy rồi làu bàu:!"Kiều này, nó sẽ không chịu làm việc giữ trẻ ở đây! Nó sẽ đợi thời để làm nên một việc gì to tát?… À mà bà thầy bói đã chẳng bảo rồi đấy ư? Bà bảo đôi mắt của nó là đôi mắt “nhỡn trung hữu thuỷ” làm cho bọn đàn ông chết mệt…Con bé sẽ trở nên nguy hiểm cho chính cái gia đình này. Mà chính cái mối tình giữa Hằng và Tê cũng không phải không "Có vấn đề…".
Cô tự khuyên nhủ mình, cương quyết không để Thanh giúp việc cho mình nữa. Việc này chưa nói ra với ai mà cậu em chồng chị Hằng đã đến hỏi thăm, dò xét. Cậu Tê khuyên chị Hằng không nên buộc Thanh thôi việc vì chị Hằng sắp hết thời gian nghỉ phép rồi, sắp phải đi làm, cần sự giúp đỡ của Thanh. Để nhấn mạnh lý do cần cho Thanh thôi việc, Hằng kể ra một loạt những khuyết điểm lặt vặt của Thanh như: có lần tắm, Thanh đã dùng các đồ hoá trang của Hằng, Thanh dùng quá nhiều giấy vệ sinh v.v… Tất cả mọi ý kiến của Hằng đều bị cậu em chồng gạt đi hết. Lại còn chuyện mà Hằng chưa xem lại kỹ, hình như hôm trước, Hằng bị mất một tờ 50 ngàn đồng thì phải.
- Chị mất ở đâu?
- Trong nhà.
- Ôi! Chắc chị cho ai vay hoặc tiêu một khoản nào đó -
- Không. Nhất quyết tôi cho con bé ra…
- Bao giờ?
- Ngay sáng mai.
- Không nên.
- Chị sắp đi làm rồi Sao lại không nên.
- Đi làm thi tôi xin nghỉ cũng được. Để em tìm cho người thay thế đã rồi hãy cho cô ta thôi việc…
- Không…
Sáng ngày hôm sau. Hằng bảo Thanh thôi việc. Như con chim xứ lạ, rơi từ trên không xuống và bị gãy cánh, Thanh ngạc nhiên quá, nước mắt trào ra. Cô hỏi: "Sao chị lại từ bỏ em?"
- Cô biết rồi đấy.
- Không. Em chẳng biết gì cả.
- Cô không biết gì, tôi vẫn cứ không mướn cô.
- Thế còn em bé?
Thanh định nhào vào với đứa nhỏ ở buồng trong. Hằng giữ lại bảo:
- Không cần.
- Em rất thích nó mà…
- Thích cũng không cần cô trông nom nữa. "Thanh thu xếp đồ đạc, bỏ vào túi xách. Một hai bộ quần áo, tập nhật ký, cái bút bi v.v… Cô nhìn lại trang phục trên mình. Toàn là các thứ của chị Hằng cho cả. Cô cởi chiếc áo blu-dông màu ra, trả lại cho chị Hằng.
- Em trả lại chị…
- Tôi cho cô đấy. Nào còn việc gì nữa không?
- Không ạ.
- Thôi…Cô đi…

Thanh bước ra khỏi cửa, rơm rớm nước mắt, khóc không nên tiếng. Sau lưng cô có tiếng đóng cửa. Thanh trở về quán bà Dương. Cô buồn bã mấy hôm vì nhớ thằng bé con mà cô đã chăm bẵm nó, nó mới đáng yêu làm sao? Mà nó cũng yêu Thanh làm sao? Bà Dương kể hết cả cuộc đời của bà cho Thanh nghe. Bây giờ, bà sống có một mình trong cái quán nhỏ bán nước và quà vặt tối lại về nhà tại khu tập thể nhà máy ở gần đó Bà nhận Thanh làm con nuôi. Mà Thanh cũng thèm có một người mẹ. Thế là hai con người tội nghiệp đó gắn bó lấy nhau. Bà Dương có một căn hộ trong khu tập thể nhà máy do chồng để lại. Chính nơi đây, Thanh đã mở lớp dạy thêm cho các em bé học lớp 1, 2 và 3. Số học sinh đến rất đông.
Thế là Thanh trở thành cô giáo cấp I. Mỗi ngày cô dạy hai buổi. Có khi đến ba buổi. Thật không ngờ, tiền thu được hàng tháng tới trên hai triệu đồng. Hơn cả số tiền mà trước đây anh cả của Thanh nhận của Lạc. Cô được các học sinh, các vị phụ huynh yên mến. Cô có nhiều sáng tạo trong việc dạy học. Mọi việc trong nhà, bà Dương giao cả cho Thanh. Với bà, Thanh là con gái của bà. Đôi lúc có giờ rỗi, cô ra giúp việc cho bác Vượng, làm đủ việc trong cửa hàng Photocopy, đóng sách đẹp, dán ny lông v.v… Cô nghĩ phải học thêm nhiều nghề, phòng khi không làm nghề này thì làm nghề khác. Cô giúp cho bác Vượng nhiều sáng kiến hay. Ban đêm cô theo học lớp tiếng Anh. Tình yêu đã đến với Thanh. Cô từ biệt ngay người bạn tình đầu tiên. Anh ta tỉnh táo quá, không hở ra một chút gì khờ dại trong khi yêu nhau. Anh chàng thứ hai không tặng hoa cho Thanh trong ngày sinh nhật của cô. Cô cũng đợi một tuần để xem anh ta có ý định nghiêm chỉnh, tặng cô chút đồ vật nhỏ nào đấy để tỏ lòng hối lỗi không? Anh ta không đến.

Thanh lại yêu Thái. Họ say đắm nhau, thề thốt đủ điều. Nhưng đã 3, 4 tháng trời mà Thái không hề đả động đến việc đưa Thanh về thàm quê và cha mẹ của Thái. Thế là Thanh chủ động nhạt tình với Thái.

Cô lại lao vào công việc và tự học. Bây giờ, Thanh đã là cô gái khác hẳn trước. Cô đã học được nhiều điều. Sau hơn hai năm ở Hà Nội, cô xin phép bà Dương về thăm quê. Cô lại về với những con đường nhỏ lượn lờ như những con rắn, leo lên những quả đồi đỏ rợp bóng cây. Mấy đám đồi xanh những cây cọ xoè ô, những người bà con, dân làng rủ nhau đi hái chè… Tất cả đều rất quen thuộc mà cũng rất bỡ ngỡ, bịn rịn. Bọn trẻ con trố mắt, nhìn cô. Chúng không biết rằng cô là người cùng làng với chúng. Về đến nhà người anh cả, nỗi đau buồn xưa tràn ngập. Cô khóc cha, khóc mẹ, khóc cho bản thân cuộc đời của mình. Bà con làng xóm sang thăm cô, vui như ngày Tết. Cô mang nhiều bánh kẹo ra mời mọi người và phân phát cho bọn trẻ con. Cô đi thăm hết nhà này đến nhà khác. Đến đâu cô cung biếu một chút quà bánh, chiếc áo, cái khăn hoặc thước vải… Tối đến, cô đưa cho anh cả số tiền mà trước đây anh đã nhận của Lạc. Cô cũng đưa thêm cho anh chị một số tiền làm vốn.

Sau năm ngày về thăm quê, cô trở về Hà Nội để làm ăn sinh sống và học tập. Và bây giờ cô có ý chọn trong số mấy người bạn trai của mình, một người có thể làm bạn trăm năm với cô. Điều này, cô sẽ làm được.

Tương lai ở trong tay cô.
 
ĐÔI NÉT VỀ ĐÀN ÔNG HÀ NỘI NHỮNG NĂM XƯA

Những năm từ 1920 - 1930, ở nước ta, người đàn ông không búi tó nữa, mà đã cắt tóc ngắn, để đường ngôi lệch sang một bên. Ở nông thôn có các bác phó cạo xách đồ nghề đi khắp nơi làm việc cắt tóc và lấy dáy tai eho khách hàng. Những người lấy dáy tai được ưa chuộng và họ mang lại khoái cảm cho khách.

Đã xuất hiện các kiểu đầu húi "cua", kiểu "phi lô dốp", Kiểu hai bên tóc vắt qua tai gọi là kiểu tóc "gọng kính". Ở các thành phố, đã có những hiệu cắt tóc hoặc những điểm cắt tóc ở góc phố hoặc gần chợ. Mọi người thường mặc quần “lá toạ", ống rộng, đũng thấp, cạp quần có chừng 20cm. Khi mặc, họ vê hai đầu cạp quần lại rồi thắt vào với nhau. Có người lại dùng thắt lưng vải thắt ra ngoài cạp quần. Khi cấn thiết làm việc gì đó, họ rút cạp quần ra ngoài thắt lưng toả cạp ra ngoài. Như vậy, tư thế lảm việc sẽ được gọn ghẽ hơn. Có khi lại cuốn đầu ống quần lên, gọi là "xắn móng lợn". Cũng có khi họ mặc quần cút, chiếc quần rộng có "chân què" này rất lợi hại. Nó không sợ mất nếp, rộng rãi, giữ cho các bộ phận thân thể bên trong được thoáng, mát, không bị gò bó. Và đó là điều kiện tốt lành nhất để cái “nhà máy chế tạo ra tinh trùng" tiến hành công việc được thuận lợi nhất. Thông thường thì áo và quần đều nhuộm nâu hoặc nhuộm nâu nhuốm thêm bùn để có màu sắc sầm hơn và mặc bền hơn.

Khi đi ra ngoài, ra đình hoặc đi chơi đâu đó, họ mặc quần trúc bâu trắng và chiếc áo dài quá đầu gối hoạt chiếc áo the thâm. Trên đấu quấn khăn chít hoặc đội khăn đóng do các cửa hiệu làm sẵn. Chỉ cần đội lên đầu là xong, không cần phải chít từng nếp. Những người có học hành, giàu có hoặc chức sắc thì mặc chiếc áo dài trắng bên trong. Ngoài là chiếc áo xa có hình nhúng "chữ thọ". Trong những ngày Tết, ngày lễ hoặc ngày quan trọng nào đó, một số ít ngươi mắc áo gấm màu, có thêu những chữ "phú, quý, thọ, khang, minh". Để tránh cho chiếc áo gấm quá sặc sỡ, choáng ngợp, người ta mặc ra ngoài một chiếc áo xa rất mỏng. Như, vậy lai gây được hiệu quả thầm mỹ cao…

Những năm 1935-1936, ở Hà Nội, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài toán lại dạy văn ở trường Bưởi. Ông mặc áo gấm phủ áo xa, chít khăn đóng, đi hài cao, đã tạo nên một nôi niềm dân tộc, hoài cồ và tâm linh. Sự thực ra, cha ông ta, những anh hùng hào kiệt, những ví có chức sắc cao lại còn mặc ra ngoài một chiếc áo phụng dài, rộng màu lam. Kiểu mặc này rất đẹp màu sắc hoà hợp với nhau một cách hài hoà, vừa nghiêm trang, uy vọng lại có tính nghệ thuật cao.

Mùa rét, người bình dân mặc áo bông dài hoặc ngắn. Họ đội nhiều kiểu nón, đi guốc, đi giầy Gia Định, thậm chí là đi chân không…Từ năm 1935 trở đi, ở các thành thị, nhiều người đã mặc âu phục: Nhất là từ những năm 1975 đến giờ, các chàng trai và các vị đứng tuổi của ta ở hầu hết các thành thị và ngay cả ở nông thôn cũng đều ăn mặc kiểu âu. Họ tiếp thu cách ăn mặc của các nước phương Tây rất cầu kỳ.

Qua thăm dò ý kiến của một số nhà văn hoá nước ngoài về chuyện may mặc của giới đàn ông nước ta, chị Bar Bang Ghen, người Mỹ, nói: "Thanh niên Hà Nội ăn mặc rất đẹp mà còn kỹ lưỡng hơn cả người Mỹ chúng tôi, họ mặc "Pháp" hơn chúng tôi". Chị Van de Viele người Bỉ, nói: "Tôi đã đi nhiều nước trên thế giới, thanh niên Hà Nội mặc Complet không thua bất cứ một nước nào. Họ mặc đẹp lắm”.
Chị Catherine Diamond còn nói: "Họ mặc miễn chê". Đàn ông nông thôn của ta sống rất phóng khoáng. Cường độ lao động chưa cao. Thời kỳ nông nhàn còn nhiều, ngay cả khi họ làm thêm chút nghề phụ. Họ hay lân la nhà nọ nhà kia để bàn chuyện làm ăn và trò chuyện. Thỉnh thoảng làm đôi chén “rượu ngang” cho lên hương cuộc đời. Bữa ăn của họ giản đơn. Toàn là những thức ăn tươi, có sẵn ngay trong nhà, trong vườn ao. Họ kiếm được con cá, tôm, cua, ếch, lươn, trạch v.v… là mổ ăn liền. Ra vườn lấy nắm rau bồ ngót, mồng tơi, rau đay là xong. Người ta thường nói:",
Cua đồng canh rau đay, muối vừng hương thơm ngay". Nhà nào cũng có chum tương, ao rau muống, vại cà hoặc dưa… Người ta chú ý đến lươn bổ dương và ếch bổ âm. Ca dao có câu: "Có ao rau muống, có cà dầm tương"? Khi ăn phải trông nồi; ngồi trông hướng, phải mời nhau cho lễ phép và lịch sự. Trong bữa thấy người thân quen phải mời chào thành thực: "Lời chào cao hơn mâm cỗ"! Thỉnh thoảng họ đi ăn giỗ, ăn đám, thì tha hồ mà say sưa. Họ chơi cờ, chơi đu, chơi cây cảnh, chọi gà, xem hát tuồng, hát chèo, cải lương v.v… Người đứng tuổi còn đánh nhắn, đánh tổ tôm: "Làm trai biệt đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo, ngâm thơ nôm truyện Kiều"?… Xưa kia, người ta nghỉ ngơi tạm trên chiếc chõng tre hoặc chiếc võng đu đưa. Họ ngủ trên phản gỗ, phản gồm bốn hoặc năm tấm gỗ dày ghép lại với nhau, kê trên đôi mễ gỗ rất vững chắc, những tấm gỗ này cao khoảng chừng 40 - 50cm. Những tấm ván ghép thành phản này xuất hiện trong câu hát của Thị Mầu trong vở "Quan âm Thị Kính". Khi Thị Mầu và anh Nô say đắm nhau rất mực, họ cùng nhau hát: "Ta về xẻ tấm ván dày". Rồi về báo với mẹ, thầy biết tin " Những tấm ván này cũng nhuốm màu phong tình".
Có nhiều nhà, vợ chồng trẻ không ngủ chung với nhau một giường, nhất là các gia đình cỡn đủ cha mẹ, anh em. Vợ chồng họ hẹn hò với nhau đánh “du kích” vào một lúc thích hợp nào đó. Do vậy, họ thấy tình duyên của họ mới mẻ hơn, hơi có chút vụng trộm và cũng vì vậy mà cảm thấy "ngon lành hơn". Họ cư xử với nhau thật thà, chất phác, quý trọng tình bạn, kính trọng người nhiều tuổi hơn. Ra đường gặp nhau đều chào hỏi thân mật và vui vẻ. Thanh niên và các vị đứng tuổi ở thành thị có đời sống vật chất khá hơn ở nông thôn. Do việc tiếp xúc với những nền văn hoá nước ngoài nên phục trang ngả hẳn sang âu phục. Mùa rét mặc áo khoác ngoài bơ lurông, varơi, áo len, quấn phula. Họ đội mũ cát két, mũ cát, mũ phớt. Mũ phớt của người nghèo hoặc tàn tã, méo mó được gọi là mũ "phở". Đi giày da đen hoặc giầy trắng và đen gọi là giày đờ mi cu lơ…
Ngoài những bữa ăn chính thức ra, họ còn có nhiều loại quà để ăn nhẹ như: phở, miến, sực tắc, sủi cảo, các loại bánh chè v v… ở các thành thị thường có các tiệm ăn hoặc hiệu cao lâu, vũ trường, nhà hát, nhà cô đầu v. v… Những người ở thành thị rất nặng lòng với quê cha đất tổ, không nguôi nhớ đến tình làng nghĩa xóm. Những ngày Tết, giỗ, việc họ, bốc mộ, xây phần mộ v v họ thường về làng thăm quê và họ hàng để biếu quà bánh, tiền nong cho những người thân hoặc những người nghèo khó. Mấy chụt năm gần đây, mức sống của nhân dân thành thị cũng như nông thôn được nâng cao với những bước tiến khá nhanh. ý thức và trình độ văn hoá của họ cũng được nâng cao nên tiếp thu được nhiều điều mới mẻ, văn minh và từ bỏ được nhiều tục lệ và nếp sống tiêu cực. Họ ra sức bảo vệ và phát triển nền văn hoá tiến bộ, đậm đà màu sắc dân tộc. Nói chung, người đàn ông Việt nam những năm xưa có tinh thần học hỏi, chăm chỉ, cởi mở, hiếu khách, lạc quan. Những chàng trai dong dỏng, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, sản xuất giỏi, lịch sự, mặt vuông chữ điền thường được các chị em săn đón. Chị em quan họ thấy các chàng trai của mình đẹp quá, đã thốt lên: "Thấy anh như thấy mặt trời, chói chang khó ngó, trao lời khó trao"…

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


CHIẾC ÁO DÀI VIÊT NAM
 

Có người bảo em từ kiểu áo người Tày, người Mường mà ra. Có người bảo ở em có vài chi tiết nơi áo của các chị em Huế, Chăm. Lại có người cho rằng em thành hình từ bộ áo mớ ba mớ bẩy của đất Kinh Bắc huyền thoại… Những ý kiến đó đều có những tỷ lệ chính xac nhất định nào đó.
Nhưng, đúng ra, em tiếp nhận hình ảnh và hơi hướng của nhiều miền trong cả nước gom góp lại, bổ sung cho nhau mà thành. Em đã có mặt ở Pháp và ở Anh từ những năm 1913. Hồi đó và sau đó ít năm, em vẫn còn đơn sơ và được cắt, may toàn bằng tay cả. Của hàng hoa mà. Thoạt đầu là cái áo dài, cổ tròn, màu nâu. tam giang, mỡ gà, hồ thuỷ. Vạt áo thẳng, tay bó, xẻ một đoạn ở cổ tay, cài cúc bên sườn. Những năm 1936-1938, từ cơ sở sẵn có, chiếc áo dài đã được hoạ sĩ Cát Tường thiết kế và bố trí lại đã ra đời. Phải nói một chút về ông Cát Tường. Ông đã ấp ủ nhiều ý đồ cải cách y phục Việt nam, nhất là chiếc áo dài. Ông say sưa với cả những bức thêu rồng, phượng, những bức tranh Hàng Trống. Nhưng ông thờ phụng chiếc áo dài. Ông là sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học hết 5 năm và đã tốt nghiệp. Ông cũng có một số tranh. Nhưng mọi người biết đến ông chủ yếu qua chiếc áo dài với công trình cải tiến của ông. Ông là người đầu tiên dùng máy khâu để may chiếc áo dài. Động tác này rút ngắn được rất nhiều thời gian so với khâu tay. Lẽ dĩ nhiên còn một vài vị trí quan trọng, hoa mỹ để quyết định chất lượng chiếc áo phải dùng đến bàn tay khéo léo của người thợ. Ông cải tiến cái cổ áo, đưa nó lên thành cổ đứng cao 2 centimét. Ông còn "lăng xê" kiểu cổ cứng, cổ bắt chéo và cổ cánh hoa. Ông quy định vị trí những chiếc khuy bấm và đưa ra nhiều kiểu khuy, khuyết, bỏ đi tà áo phụ, ngắn đệm trong. Tà áo dài buông xuống cách mặt đất 20cm. Ông chú ý làm cho độ dài của hai mặt trước sau có độ “đổ” chuẩn xác để cho khi mặc vào được căng, lượn sát, bó khít lấy những đường nét của cơ thể, tôn cao bộ ngực, làm cho eo thon thả, thắt đáy lưng ong…

Chính vì vậy, áo dài Cát Tường Lơ muya (Le mur theo tiếng Pháp là Cát Tường) được nhiều người ưa chuộng. Trong số này, đa số là những nữ sinh, những chị em thính ăn mặc đẹp. Áo dài là thời trang tuyệt đối cho những nhân vật tiểu thuyết như cô Liên trong "Gánh hàng hoa", cô Loan trong "Đoạn tuyệt cô Mai trong “Nửa chừng xuân và ít lâu sau cô "thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân, cho cô gái trong bức "Hiện vẻ hoa" của hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân.

Hồi đó, ông Cát Tường còn trẻ, ông gầy gầy tầm thước. Mùa hạ hay mặc bộ tuột so soa, đeo cà vạt. Khuôn mặt thanh tao, tự lự, hơi xanh xao. Ông nhanh nhẹn, luôn lui tới những cửa hàng thêu ở phố Hàng Trống, Hàng Gai. Ở đây, ông kết thân với ông Thức là một nghệ nhân thêu, có cửa hàng. Ông Thức rất yêu quý chàng hoạ sĩ Tây học cao đẳng mà lại nặng tình với nghề nghiệp tổ tiên, để ý đến những cái của ngày xưa. Ông kéo hoạ sĩ Cát Tường về quê phố Ninh Xá, Bắc Ninh, gả ngay cô cháu gái tên là Nội cho hoạ sĩ. Cô Nội là một tay thêu giỏi, là con gái ông chủ một cửa hàng thêu nổi tiếng. Sau đó, hoạ sĩ đưa vợ về phố Lò Đúc. Vài tháng sau, họ mở một cứa hang may áo dài ở gần ngã năm Bà Triệu. Cửa hàng có biển đề: Coupe Cát Tường. Nó nổi tiếng khắp nơi. Khách đến nườm nượp. Em gái cô Nội chuyên mặc những chiếc áo do ông anh rể thiết kế và may. Vô tình, cô đã làm cái việc "lăng xê" mốt cho cửa hàng Cát Tường. Cô được mọi người gọi là Nga Cát Tường, cũng lừng lẫy một thời.

Từ sau 1945 và nhất là từ sau 1975, chiếc áo dài được lên ngôi. Nó chiếm vị trí độc tôn trong các dịp lễ hội, giao dịch quốc tế. Nó xuất hiện trên các diên đàn, các sân vận động trong và ngoài nước. Trong các buổi biểu diễn nghệ thuật, thời trang, thi hoa hậu. Chiếc áo dài đã như câu ca quan họ, bay đi khắp thế giới, ở đâu nó cũng có một vị trí xứng đáng. Nó được cải tiến thêm và mang sắc thái riêng từng miền trong những chi tiết nhỏ để đáp ứng được sở thích và yêu cầu thẩm mỹ của thời đại. Nhắc lại, những năm 1930, 1936, 1937, trong các cuộc thì hoa hậu ở Hà Nội, Hà Đông và trong các chợ phiên (kermesse), eáe cô gái đẹp như Ái Liên, cô Điệp, cô Hoàn, cô Siu đều đăng quang với chiếc áo dài. Cô Slu là con gái nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Lý ngọc Hưng. Các nghệ sĩ nước ngoài như Kirienko, Francine Vande, Catherine v.v… đều mặc áo dài.

Dự hội nghị Paris, chị Nguyễn Thị Bình hùng biện với chiếc áo dài. Nhà sử học Mỹ là J.S.Ten son, viết: "Xin phép cho tôi được mặc chiếc áo dài Việt nam, chiếc áo dài của người mẹ Việt nam. Những người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại đã mặc chiếc áo dài. Mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mặc chiếc áo dài". Chiếc áo dài Việt nam là một dòng sông, một cơn gió, một nếp mây bay. Nó tượng trưng cho sự màu mỡ, hồi sinh, tẩy trấn và phồn thực. Có khi trên thân áo được in hoặc thêu lên hình ảnh những rồng, phượng, hoa, lá… để thêm phần hấp dẫn. Nhưng, nó không có những mảng màu sặc sỡ. Những hình vẽ trên áo dài phải xinh, gọn để ăn ý với vẻ đẹp mà chúng gửi mình vào đó. Có người lại in lên chiếc áo quá nhiều hình ảnh, những vạch ngang dọc chi chít hoặc quá nhiều màu sắc, chiếm cả bề mặt chiếc áo dài. Như vậy không ăn nhịp, làm cho người mặc áo phải mang cả một bức tranh trên mình. Nói chung, việc pha hoặc chọn màu áo, in hoặc thêu hình trên áo là một công việc rất phức tạp. Phải có con mắt mỹ thuật, văn học nghệ thuật, lại phải có con mắt tâm linh…

Trong một cuộc trao đổi giữa các nghệ sĩ kịch nói Trung Quốc với Việt nam, một nữ diễn viên kịch nói Trung Quốc nói với chị Diệp Bích: "áo dài" của chị đẹp hơn áo “Sường sám” Thượng Hải của em”. Chiếc áo dài là một nét đẹp văn hoá rất riêng của Việt nam.
 
ĐÔI ĐIỀU VỀ CHIẾC VÁY

Nguồn gốc xa xưa và thân thiết nhất của chiếc váy là cái nơm úp cá. Ở các nước Ả Rập, nó được gọi là Djoubba, có nghĩa là linh thiêng. Người Trung Quốc dùng chiết tự gọi là xuẩn chừ, gồm hai bộ phận ghép lại với nhau: chữ y "rách" ghép với chữ "quân". Cũng là chữ tự, ghép với chữ quân. Có nghĩa là sự trang trí và sự sở hữu của "quân". Từ quân chỉ các bậc nam nhi với ý nghĩa tôn vinh. Thuở Đông Sơn, người Lạc Việt dùng váy lá cây hoặc lông vũ, xoè ra. Sau đó là váy mở ngắn, là một mảnh vải quấn vào thân. Rồi đến váy kín gồm hai mép díu lại với nhau thành hình nơm. Váy đại diện cho nữ giới.

Ngày 23-1-1911, trước cửa Viện Hàn lâm khoa học Pháp có cuộc tranh cãi lớn về việc kết nạp hay không kết nạp nữ giới vào Viện Hàn lâm và Mari Curie bị thua tạm thời. Người ta gọi cuộc tranh cãi lớn này là cuộc tranh cãi giữa cái váy và bộ râu. Năm 1960, ở Anh bắt đầu có phong trào mặc váy ngắn. Phản đối mạnh mẽ nhất loại váy này là các vị giáo sư Họ nói rằng các nữ sinh viên mặc váy ngắn làm cho họ không giảng bài được. Xa xưa, người Trung Quốc đều mặc váy. Sau đó, những người Hồ (Mông Cổ) là dân du mục đã tràn sang Trung Quốc. Người Hồ mặc quần cho gọn ghẽ để cưỡi ngựa được tiện lợi. Cái quần, do đó, có mặt ở khắp Trung Quốc, một bộ phận ở Việt nam và ở một số nước láng giềng.

Trước đây, và nhất là vào khoảng năm 1990, nhiều nhà mỹ học và tạo mốt phát biểu rằng họ đã học nhiều điều ở cái váy Việt nam. Có nghĩa là một vài dáng dấp và đường nét của cái váy Việt nam đã được truyền sang các nước âu Mỹ. Một thời gian rất dài, người ta dùng tấm váy lưới trai bảy bức bằng lĩnh hay sồi dài chấm gót, cạp váy thường rộng bản, khoảng từ 5 đến 10 cai với các màu sắc xanh, vàng, hồng. Để tô điểm thêm cho cái váy là dải thắt lưng màu mỡ gà, hoa lý, hồng đào… thắt so le, buộc múi, rủ xuống vừa dịu dàng, vừa có màu sắc. Váy thường mặc những lúc không làm việc lam lũ, vì váy kéo dài xuống tận mắt cá chân. Khi phải lao động thật sự, người ta mặc chiếc váy ngắn đến trên đầu gối, thết liệu vải thô kệch mà bền, gọi là cái "sống". Mẹ Đốp trong trò Mẹ Đốp - lý trưởng (vở Quan âm Thị Kính) mặc cái “sống”, đi rao mõ. Trong bức tranh "Hứng dừa" (Đông Hồ), cô gái hứng dừa mặc cái "sống" ra vẻ vừa đi lao động về. Thị Mầu lẳng lơ mặc chiếc váy xộc xệch. Các thị nữ trong cung đình mặc váy rộng, có nhiều nếp với chất lượng vải lụa hạng sang và quý, nên không gọi là váy mà gọi là "xiêm" cho có phần cao sang, cung điện… Người đàn bà giỏi giang, chèo chống, biết lo toan cho gia đình, được mọi người khen là: "vén váy phất cờ". Khi cuộc sống khó khăn, người đàn bà có quyết tâm và ý chí mạnh mẽ nói: "Ta phải vén váy phất cờ mới được”. Người đàn ông vụng dại, chỉ ru rú trong nhà bị coi là "Đồ chỉ biết có cơm nhà, váy vợ". Mà váy vợ cũng là nợ đời.

Lại có câu: "Cô kia cắt cỏ ven sông, cái váy thì ngắn, cái lông thì dài". Cô cắt cỏ mặc mi-ni juýp từ ngày xa xưa ấy rồi. Một việc làm điên dại, thiếu suy nghĩ được gọi là "vén váy giữa chợ". Trước đây trong hội xuân, cảnh đánh đu tưng bừng lên bởi những tấm váy bay lên bồng bềnh, chông chênh của các cô gái uốn lưng ong. Thử nghĩ, nếu không có cái đó thì còn gì là hương vị mùa xuân nữa. Người ta, nhất là tuổi thơ, ai cũng có cái hạnh phúc tuyệt đỉnh là được bám váy mẹ. Nhưng người đàn ông sợ vợ và vụng về cũng bị coi thường là anh chàng bám váy vợ. Chiếc váy Việt nam đóng khung, làm nổi bật cái vòng thứ ba kỳ diệu của thân thể người phụ nữ. Đó là vòng mông. Mà chính nó cũng làm cho vòng ngực và vòng eo được nổi đình nổi đám hơn. “Váy Đình Bảng buông trùng cửa võng"? câu thơ thật là thân tình. Ngày xưa, những cái váy đẹp nhất, thướt tha nhất là những chiếc váy của chị em ở vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là vùng Đình Bảng, Hà Bắc.
Vậy, cái váy cũng là một hình ảnh thiêng liêng trong tâm linh và trong con mắt của mọi người. Sau này, Tú Xương mới "hạ" được câu: “váy lĩnh cô kia quét sạch hè ". Khuyên nhau đừng làm việc gì quá sức, người ta nói chua ngoa: "Đừng căng váy hứng dừa mà không váy"… Người phụ nữ mặc váy, thắt dải rút rồi phủ ngoài bằng chiếc thắt lưng màu. Dải rút được tết, bện kiên cô. Mặc váy phải luôn có ý tứ. Nhiều khi phải khép nép, giữ gìn trong lúc đi đường gió to, lúc đi chợ, lúc ngồi tựa mạn thuyền v.v…

Ở nước ta, những năm 1954-1959 có cái kiểu váy dài quá đầu gối, may phồng và hơi khum phần dưới (váy chuông). Đến năm 1960, váy được may thẳng, xẻ chút ít ở giữa thân sau, xếp thành ly hoặc may bó. Năm 1968, váy mi ni ra đời, ngắn đến đầu gối. Năm 1980 xuất hiện váy dài đến chân, có cài khuya bấm. Thôi thì đủ kiểu: váy xếp, váy lồng, váy nơm, váy kiểu Paris, váy kiểu Thượng Hải, váy kiểu Đông âu, váy ngắn, váy dài, váy kếp… v.v. và v.v…

Những năm 1990 đến 1993, váy lên ngôi. Váy phát triển theo xu hướng của nền kinh tế thời mở cửa. Ở đâu ta cũng thấy phụ nữ đua nhau mặc váy. Họ đua nhau nhún những bước chân trên đường phố, tiến vào công sở, cơ quan, vào từng gia đình và đổ bộ về những mảnh đất sau luỹ tre xanh. Ở đâu ta cũng thấy phụ nữ mặc váy. Các chị em ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Họ rất giỏi và rất sành trong việc lựa chọn mẫu, màu, kiểu dáng. Họ sửa chữa, gia công, cải tiến những bộ váy từ Tây, Tầu mang đến theo cách nhìn và gu thẩm mỹ của họ. Các hàng may mặc cũng dựa theo các ca-ta-lô của nhiều nước trên thế giới mà sản xuất ra những chiếc váy sao cho vừa lòng các chị em. Những chiếc váy thành phẩm phải ưa nhìn, rất âu mà vẫn có cái gam màu truyền thống, dân tộc. Nhà văn Pháp A. Fournier nói: “Các cô gái Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Không chê vào đâu được. Nhìn mãi cũng không chán mắt"… Chiếc váy vẫn tồn tại trong cuộc sống một cách oanh liệt. Nó luôn luôn được cải tiến và nâng cao.
 
CÁI YẾM

Chuyện cũ kể:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…

Một trong ba cô làm cho sư say mê và chính cái yếm thắm đã góp phần tích cực làm cho sư ngây ngất. Có cô gái mong mỏi:
Ước gì sông hẹp tày gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi

Cô gái đi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp xúng xính:
Nho nhỏ đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
.
Trong Truyện Kiều, khi Hoạn Thư biết tỏng Thúc Sinh mê Kiều mà còn chối quanh, đã nói toạc ra "Dễ loà yếm thắm trôn kim" nghĩa là việc đã rõ ràng, sờ sờ ra đó như chiếc yếm thắm chứ không phải như cái trôn kim đâu mà lòe em được…
Ở làng quan họ, cô gái có mười điều đáng yêu thì điều thứ năm là: "Năm thương dải yếm đeo bùa".
Ở những bức chạm khắc thế kỷ 17, 18 nổi tiếng của đình Liên Hiệp và Kim Hoàng đều có những vũ nữ mang yếm lá sồi hoặc lá sen bồng bềnh trên những bộ ngực ngồn ngộn, nhấp nhô những đôi nhũ hoa bánh giầy, chũm cau, bình vôi, quả mướp…
Ngày xưa, chuyện trai gái yêu nhau đến mức chàng trai cầm lấy cổ tay cô gái là đã xong một nửa của cao trào. Nhưng đến cái mức cầm đến dải yếm là đã "xong hẳn". Thị Mầu còn mở mang trí tuệ cho anh Nô: "Gió xuân tốc dải yếm đào anh trông thấy oản, sao không vào thắp hương "? Hồ Xuân Hương gợi ý về trình tự của tình yêu: Quân tử có yêu thì bóc yếm… Lại có câu: Trời mưa lấy yếm mà che có anh đứng gác còn e nỗi gì? Anh chàng nọ lại sàm sỡ với cô gái:
Yếm trắng anh ngỡ là cò
Anh quỳ gối xuống, anh thò hoả mai
Ngày sau em đẻ con trai
Nó lớn nó giống ông cai bắn cò

Người ta đã nói rất nhiều về cái yếm. Nó là một bài thơ nồng cháy. Nó là chiếc bình phong sống và hờ hững ghe bộ ngực. Mà bộ ngực là tiến hành khúc của người đàn bà. Nó vừa là vật cần dùng, vừa là vật trang điểm không kém gì hoa tai, son phấn, nhẫn, xuyến…Không có nó thì cuộc đời kém phần hương sắc.

Ở nước ta, cái yếm xuất hiện từ xa xưa. Và cố nhiên nó cũng luôn luôn được cải tiến. Cái yếm được định hình từ đời Lý. Đến năm 1696, đàn bà lao động thường mặc yếm cổ xây. Với nữ giới quý tộc thì trước yếm có thêm một vài đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám.

Từ năm 1802 trở đi, yếm là một miếng vải vuông đặt chéo lên ngực người mặc. Ở góc (trên) có khoét hình tròn là cổ yếm. Đó là yếm cổ xây. Nếu khoét hình chữ V thì gọi là yếm cổ xẻ. Nếu xẻ xuống sâu nữa gọi là yếm cánh nhạn. Đến năm 1920, người ta phân chia ra nhiều loại yếm: yếm của người lao động màu nâu non, nâu già, yếm cho các cô gái có nhiều màu khác nhau. Các cô gái ăn chơi khoét cổ yếm xuống thật sâu đến gần nơi bộ ngực chia ra đôi ngả, màu sặc sỡ. Trẻ thì dùng màu mát như màu hoa lý, hồ thuỷ, đào phai. Đứng tuổi thì dùng màu sẫm hơn. Ở góc nhọn cổ yếm có thêm ba đường chỉ hoặc vải nhỏ tách ra hai bên làm cho cổ yếm được bền hơn, nhưng cũng là để trang trí. Sau này lại có người thêu hoa vào chỗ này. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy, phất phơ. Hai dải nhỏ này được trang trí màu nổi bật ăn khớp với màu yếm. Có người cầu kỳ còn khâu một túi nhỏ và dài đựng hương thơm, xả vào ngay trong dải yếm để lúc nào cũng có mùi thơm ngây ngất. Dải yếm bỏ bùa là ở chỗ này đây. Có người lại quấn vào dải yếm một miếng trầu dành cho người tình. Gọi là khẩu trầu dải yếm. Hai dải góc hai bên cạnh sườn gọi là "dải cái" hoặc đai yếm vì nó được thắt lại để bọc lấy cả bộ phận ngực, rồi buộc ra sau lưng và thắt dải ngực lại. Việc thắt "dải cái" này cũng là một động tác hệ trọng. Để lao động thì thắt chặt vào là xong, gọi là gói ghém. Những lúc đi chơi hoặc không phải làm việc nặng thì thắt lỏng hoặc tháo khoán. Có khi lại để quá lỏng đến mức hững hờ. Các chị em Khâm Thiên hoặc ăn chơi thì vừa thắt hững hờ vừa thắt lệnh dải cổ yếm lẫn dải đai. Như vậy là cái yếm chỉ làm cái việc che bộ ngực một cách không nghiêm khắc lắm. Nhìn vào cái yếm thoáng thấy bộ ngực phập phồng những bến bờ. Đôi nhũ hoa khẽ tung tăng và chuyển động. Trong một phút chốc nào đó, tinh ý có thể qua cái yếm mà chớp được những thông tin vô cùng quan trọng về chỉ số hấp dẫn của người mang yếm. Đôi lúc cái yếm cũng tạo một vài trường đoạn hở hang mà không ai nỡ trách. Cái yếm có mặt yếu là không đỡ được ngực, luôn có xu hướng xệ xuống và không nâng được chúng lên. Nhưng điều đó không cần vì người ta cứ để không tự nhiên như nó vẫn tồn tại kiểu như hoa quả trên cành vậy.
Những cô gái kỹ tính mua yếm ở chợ về, rồi gia công, sửa sang lại cho hợp với ý mình. Việc này đòi hỏi sự khéo tay và tỉ mỉ. Sau khi mặc yếm, các cô gái mặc ra ngoài chiếc áo cánh trắng không cài cúc cổ làm tôn màu yếm hoa hiên hoặc đỏ thắm. Khi đi ra ngoài, mặc thêm chiếc áo dài. Bên dưới mặc váy lưỡi trai bằng lĩnh hay sồi đen dài chấm gót. Lưng có dải thắt màu mỡ gà, hồng đào hoặc hoa lý dịu dàng. Phía cạnh sườn đeo xà tích bạc có chùm ống vôi và con dao con bổ cau. Chân đi dép. Đầu vấn khăn nhiễu hoặc nhung với đường ngôi ở giữa hoặc bên cạnh. Trùm ngoài là chiếc khăn mỏ quạ có người để tóc bỏ đuôi gà hoặc vấn đầu trần, có cài chiếc lược. Nếu đi xa hoặc đi xem hội, cô gái đội chiếc nón quai thao. Cái nón nặng về làm duyên… Tất cả những cái đó phối hợp với cái yếm làm nên dáng nét của người con gái mềm mại, duyên dáng, gần với thiên nhiên mà kín đáo, hiện hữu trong cuộc đời và thoáng hiện trong những giấc mơ cùng với những con cò con vạc Việt nam.

Cái yếm ăn ở với người phụ nữ Việt nam suốt cả chiều dài lịch sử. Nó đã tồn tại một cách đẹp đẽ và hùng biện. Nay nó bị cái áo nịt chiếm mất ưu thế ở nhiều nơi. Tuy vậy, nó vẫn còn tồn tại. Nó còn được nghiên cứu để hoá thân, biến dạng và hoàn thiện. Điều đó còn đang chờ sức sáng tạo của các nhà tạo mốt, các nhà y phục học, xã hội học, mỹ học v.v… Nhiều khách và các nhà nghiên cứu nước ngoài rất ngưỡng mộ và học tập được nhiều điều ở cái yếm. Nó đã sang châu Âu và hình thức thắt dải hai bên sườn của nó đã được thay vào hai hàng khuy bấm kiểu Tây. Cái yếm đã vượt biên giới Việt nam đến với thế giới.
 
TÓC BỎ ĐUÔI GÀ

Mái tóc tượng trưng cho sự sở hữu, là gia tài của cha mẹ để lại cho. Có những dân tộc thờ mái tóc. Nhiều người giữ lại một mái tóc, chiếc răng sữa làm kỷ vật. Họ muốn làm sống lại tâm hồn của người mang nó. Tóc đại diện cho một vài đặc tính, khả năng, năng lực sinh thực như ở chuyện cổ tích Sam son.

Ở Việt nam, tóc cắt đi hoặc chải ra khỏi lược được giữ lại vì nó có sự gắn bó huyền bí với chủ của nó. Sự cắt tóc được coi như là một sự hy sinh, quy thuận hoặc hoà nhập. Mái tóc được coi như là bản doanh của linh hồn, số phận ước mong và tình yêu. Tóc còn gắn với cỏ là tóc của đất bao la. Tóc là vũ khí của người phụ nữ. Chải tóc cho một người là một cử chỉ thân mật lắm, là mê say nhau lắm. Người Séc và Slovakia liệt tóc vào cùng họ hàng với lông và râu. Họ bảo: "Đâu có râu, đấy ngon". Theo tạp chí Châu Á, cô Sinh Chong Min đã chứng minh mái tóc thiếu nữ dày và đẹp đẽ mang lại vương miện sắc đẹp cho cô tại cuộc thi hoa hậu Nam Triều Tiên hồi tháng 5 năm 1990. Kỷ lục về tóc dài trên thế giới hiện nay là 2 mét 95.
Những ngôn từ của Việt nam về mái tóc rất phong phú, đã nói lên nhiều điều: Tóc mây, tóc suối, cái răng cái tóc là góc con người, làn suối tóc, tóc em dài đến thần thoại, mắt quầng tóc rối tơ vương, tóc thề, tóc xoã ngang vai, tóc chị Hoài (của Nguyễn Tuân), lời tóc tơ, tóc em vừa kín trán, tóc rễ tre, mây núi buồn nghiêng núi tóc xanh, cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày, tóc đuôi sam, tóc đuôi gà, ngạt ngào hương tóc phấn, cỏ tóc tiên, tóc rối đổi kẹo, tóc để trái đào, cắt tóc đánh ghen, cắt tóc đi tu, gọt gáy bôi vôi… Từ trước đến nay, đã xuất hiện nhiều kiểu tóc khác nhau như: Tóc búi tó, rẽ đường ngôi giữa, rẽ đường ngôi cạnh, tóc bỏ đuôi gà (tha thướt duyên dáng, đó là một trong 10 tiêu chuẩn đáng yêu của cô gái Việt nam), vấn khăn, tóc vấn trần có đính cái lược (đẹp tự nhiên có vẻ phong tình, thịnh hành khoảng những năm 1930-1940). Những nhân vật nữ của Tự Lực Văn Đoàn như Lan, Loan, Liên, Nhung… đều rất quyến rũ về kiểu vấn đầu trần. Cô hàng xén răng đen của Hoàng Cầm cũng vấn đầu trần. Mái tóc uốn quăn hoặc lượn theo kiểu phương Tây (kiểu Đétđêmôna, kiểu Marillin Monroe), mái tóc Hỉ Nhi (một hàng tóc buông đều xuống trán theo nhân vật nữ trong phim Bạch mao nữ). Lại còn có những mái tóc giả bồng bềnh, đợi chờ, ngập ngừng, nồng nàn v.v…

Mỗi một thời kỳ thịnh hành một hoặc vài kiểu tóc riêng rất đặc trưng. Có kiểu tồn tại lâu dài, có kiểu xuất hiện trong thời gian ngắn ngủi rồi bị lãng quên. Ai cũng muốn có mái tóc đẹp, một kiểu tóc nào đó phù hợp cho mình, tôn được vẻ đẹp của mình lên. Sự trang điểm đặc biệt sẽ làm cho khuôn mặt thêm duyên, trang nhã, sang trọng. Nó còn che giấu được những nhược điểm trên khuôn mặt của người phụ nữ. Ngược lại, nếu không có kiểu tóc phù hợp sẽ làm giảm vẻ đẹp của khuôn mặt. “Cái răng cái tóc là góc con người Đúng vậy. Chuyện về cái tóc cũng như chuyện về tình yêu, nó vừa là hiện thực cũng vừa là huyền thoại.
 
NÓN

Ngày xưa, chàng trách nàng rằng:
Xưa kia gắn bó một hai
Giờ đây ghé nón ngang hai chẳng chào!

Bộ trang phục tương đối đầy đủ của cô gái Kinh Bắc được tả như sau: Đội nón ba tâm Quai thao một nhúm, áo trầm một đôi Cái thắt lưng em, bảy tám vuông sồi… Cái nón để che mưa che nắng, để phục trang, đỡ ngượng, che giấu tình cảm, thêm duyên, làm đẹp… Lại có câu:
Chòng chành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng

Hoặc như câu đối lại:
Nón không quai nón nghiêng nón ngả,
Làm cả chàng phải ngả phải nghiêng.

Ngày nóng nực quá, cô gái khát nước xin ruột gầu nước giếng mát đổ ngay vào chiếc nón, uống cho đỡ khát rồi rửa mặt, rửa tay. Hai anh chị đi bên nhau, đến một quãng nào đó muốn nghỉ ngơi, họ không cần chiếu, không cần gì cả mà trải nón ra, ngồi ngay lên nón: "Đã yêu nhau ta trải nón ra ngồi". Thỉnh thoảng cô gái soi chiếc gương trong nón, cười một mình, tin vào mình, nghĩ bụng: nhan sắc nhường này, ta chẳng sợ có lúc cái nón dùng để phe phẩy cho mát. Lúc đó, cái nón thay cho cái quạt. Cái nón trong tay người sử dụng sinh ra nhiều động tác và ý nghĩ:
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu…

Khổ, "Giã bạn" trong cảnh quan họ, các liền anh, liền chị hát rất buồn: "Khăn, nón i… ôi… để lại đây”?… Là lúc các cô gái tặng cho các bạn trai cái nón quai thao thân thiết của mình. Cái nón là tấm lòng của cô gái, là vật nặng tình: "Yêu nhau, cởi nón cho nhau". Chàng trai Bắc Ninh không muốn cho cô bạn gái của mình phải ra chợ mua nón. Anh ta tự chẻ tre đan lấy nón. Cho nàng đội để đi xem hội đêm rằm. Anh ta muốn cái nón đó phải mang hơi thở và nỗi lòng của mình.

Trong tiểu thuyết Tắt đèn, chị Dậu vào nhà Nghị Quế, che nghiêng cái nón rách. Đó là một kiểu chào. Ngày xưa, Lý trưởng hoặc Chánh tổng đội cái nón dứa có chỏm. Nó tượng trưng cho uy quyền và cao sang. Cô gái muốn từ giã ra về, chàng trai liền giữ lại:
Mình về ta chẳng cho về
Ta giữ cái nón, ta đề câu thơ.

Cô gái đội nón quai thao được coi là "quai thao dịu dàng". Bác xẩm chìa cái nón nhầu nhĩnh ra để nhận tiền thưởng của người nghe sau khi đã hát bài "Anh khoá" bâng khuâng. Cái nón dùng để thề bồi:
Tình em trao nón nặng thề,
Anh về bẩm mẹ liệu bề sang xin.

Cô gái có lời đề nghị với bạn trai:
Chàng ơi bỏ nón em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa…
 

Việt nam là quê hương của ba loại nón: nón ba tầm, nón quai thao, nón bài thơ. Và cũng có nhiều loại nón khác nữa như: nón lá gồi, nón lá cọ, nón sơn, nón Nghệ, nón lòng chảo, nón thúng, nón giang, nón mệnh phụ, nón xẩm, nón quả bứa, nón tiến vua, nón dứa, nón dấu, nón thờ, nón lông, nón đi biển, nón tu cờ (nhà sư) nón chóp v.v…

Phổ biến hơn cả là nón lá cọ, nón bài thơ, nón Huế, nón làng Chuông, nón Hữu Bằng, nón Vân Đình…

Cái nón Huế trắng đến lóe mắt. Nón bài thơ còn được gọi là nón "người tình". Cô gái đã dậy thi gọi là cô gái sắp đến tuổi cắp nón theo chồng… Chiếc nón quai thao thật đặc biệt. Nón có đường kính chừng 70cm. Thành nón cao trên 7cm. Mặt dưới có gắn một ống hình tròn bằng nan tre để đội vào đầu cho cân gọi là chũm nón. Quanh chũm nón là những vòng tre chuốt nhỏ, khâu bằng chỉ màu, đan chéo sợi rất công phu. Nón còn được trang trí bằng những bông hoa, cánh bướm. Quai nón làm bằng dây thao đen gồm từ một đến ba dây chập lại, buông võng dài xuống…

Nguyên liệu của nón lá gồm: lá gồi, nan tre và chỉ khâu bằng sợi móc. Người ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt phèn. Từ đáy nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre và chỉ khâu bằng sợi móc. Người ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt phèn. Từ đáy nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre, tức là có 15 đường khâu vòng tròn. Các bạn nước ngoài đến Việt nam thường phải mua bằng được một vài chiếc nón để làm kỷ niệm. Các diễn viên, nghệ sĩ ngôi sao nước ngoài đến Việt nam luôn tranh thủ cơ hội đội cái nón Việt nam rồi chụp ảnh, đánh dấu sự có mặt của mình ở quê hương của nón. Suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc, qua mấy cuộc trường kỳ, cái nón là hình ảnh, biểu trưng của người phụ nữ Việt nam.


Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh những chiếc nón mê, nón tả tơi trong cuộc sống lam lũ một thời, cũng như những chiếc nón của nông dân cướp kho thóc Nhật, đi dân công phục vụ các chiến dịch lịch sử. Những chiếc nón giản dị mà kiên cường! Lại còn những chiếc nón nhấp nhô trong các phiên chợ làng. Một mái tóc, một vành nón… là cả một ấn tượng sâu sắc, đậm đà, là nhớ, là mong. Cái nón là hình ảnh và âm hưởng của quê hương. Thiết tưởng trong các bảo tàng văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, chúng ta nên có hẳn một phòng trang trọng giữ lại hình ảnh của những chiếc nón Việt nam tần tảo, nhẫn nại, bi hùng và trữ tình… Chúng góp một nét đậm đà khó quên trong nền văn hoá truyền thống…

Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục


TRANH SƠN MÀI

Về nghệ thuật tạo hình, sơn mài đóngvai trò hàng đầu về chất liệu truyền thống và tranh sơn mài giữ một vị trí quan trọng trong nền hội hoạ Việt nam. Đối với thế giới, tranh sơn mài Việt nam cũng được đặc biệt chú ý vì nó có sắc thái riêng biệt và biểu hiện rõ tính dân tộc đậm nét. Sơn mài còn gọi là sơn ta, đã có truyền thống lâu đời ở những thế kỷ trước, những tượng gỗ tại các đình, chùa, miếu, được sơn son thếp vàng. Những bàn thờ, câu đối, hoành phi, đồ thờ v.v… cũng được xử lý bằng sơn mài với những màu sắc lộng lẫy và bền chắc. Các đồ mỹ nghệ thủ công cũng đã là những mặt hang xuất khẩu có tiếng vang. Thế kỷ thứ 16, phố Nam Ngư (Hà Nội) là phố của những người làm sơn mài. Thế kỷ 17, một nhà kinh doanh người Anh đã cử một kỹ thuật viên sang Thăng Long (Hà Nội) bọc kỹ nghệ sơn mài của Việt nam. Từ gần một thế kỷ nay, sơn mài đã được giới hoạ sĩ Việt nam tìm tòi nghiên cứu và nâng sơn mài lên một vị trí cao. Họ làm tranh sơn mài, do đó, sơn mài được thêm vào những chất liệu phong phú với nhiều loại bột màu, bột vàng, bột bạc, vàng lá, bạc lá, bột màu thực vật, vỏ trai, vỏ trứng v.v… Chất sơn lấy từ cây sơn. Nhựa cây hứng về, đổ vào các "sải", bằng tre đan, đậy lên một lớp giấy bản. Nhựa này gọi là sơn sống, giữ càng lâu càng tốt. Qua nhiều ngày, nhựa bị mất nước, lên men và lắng đọng, tạo ra nhiều lớp sơn khác nhau, màu sắc khác nhau, gọi là những "tuổi sơn". Lớp trên cùng màu sẫm là loại tốt nhất. Sơn chất lượng cao đổ vào thùng gỗ và dùng chày khuấy trong ba ngày liền. Sơn sẽ trở nên trong hơn có màu giống cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Nó sẽ trở nên bóng hơn khi được trộn thêm ít nhựa thông. Lại đổ nhựa vào chậu sành và khuấy bằng chày sắt, sơn sẽ ngả màu đen huyền. Các loại bột màu - bình thường khi trộn với sơn, bị sơn làm "đen hoá” hoặc làm xám xỉn lại nên phải dùng những bột màu được xử lý đặc biệt. Người ta dùng vàng và bạc thật ở dạng lá dát thật mỏng hoặc ở dạng bột mịn trộn vào sơn. Một số màu: xanh lá cây, xanh lam, vàng, tím, trắng ở dạng bột không hoà tan. Một vài màu phẩm cũng dùng được. Người ta còn dùng hạt dành dành để tạo màu vàng, dùng vỏ trứng vịt, trứng gà khảm vào tranh sơn mài để tạo nên màu trắng. Còn vỏ trai, ốc thì tạo nên những màu xanh, tím, hồng óng ánh huyền ảo.

Làm một bức tranh sơn mài, hoạ sĩ chọn tấm gỗ khô, nhẵn gọi là "vóc". Vóc được quét một lớp sơn sống lên cả hai mặt rồi dùng vải hoặc lụa quấn quanh tấm gỗ. Khi khô, được sơn lên nhiều lớp sơn khác nhau. Đợi khi các lớp sơn vàng khô, người ta quét lên một lớp sơn nữa và "bó" một lớp mát tít gồm sơn sống, mùn cưa rây nhỏ và đất sét. Khi lớp “bó” khô, sẽ được phủ lên hai lớp sơn sống nữa. Bề mặt tấm vóc được mài nhẵn bằng đá bột với nước. Sau đó, sơn "thi" lên tấm gỗ từ ba đến bốn lớp then chín màu đen. Tiếp sau là nhiều lớp sơn nữa. Hoạ sĩ dùng phấn hoặc bút chì vẽ phác rồi vẽ sơn có trộn màu lên. Lớp một khô sẽ vẽ lớp thứ hai, sau khi vẽ xong, toàn bộ bề mặt còn phải phủ lên một hoặc hai lớp sơn son với lớp màu thích hợp, tức là dựng các màu chồng lên nhau. Nếu tác giả muốn dùng vỏ trứng hoặc vỏ trai, ốc thì dùng dao trổ, cài vào lớp sơn ướt ở mảng thích hợp. Sau đó, lại phải phủ lên một hoác hai lớp và đợi cho khô. Bức tranh khô cũng được mài bằng đá màu với nước làm cho những nước sơn "hiệu quả" cũng như những vỏ trứng, vỏ trai, bạc, vàng hiện dần ra với những mảng màu mong đợi. Muốn sử dụng vàng lá, bạc lá thì đặt lá vàng hoặc lá bạc lên tranh, phủ lên trên một hoặc hai lớp sơn mỏng. Bột vàng, bột bạc, bột màu thì trộn vào sơn mà vẽ.

Cuối cùng, vẫn là động tác mài cho đến lúc những đường nét và mảng màu nổi lên là được. Chúng nổi lên vừa đúng ý đồ của hoạ sĩ, vừa bát. ngờ… Lưu ý đến bảng màu sơn mài, ta sẽ thấy khả năng và tính ưu việt của những loại sơn. Sơn then đen bóng, sâu thẳm đến vô cùng. Sơn cánh gián trong veo, óng ả phủ lên các màu và vàng bạc sẽ làm cho màu sắc biến đổi tạo thành những màu sắc dẫn xuất và tạo nên những âm vang màu sắc đầy kịch tính. Qua sự kết hợp giữa sơn ở tuổi khác nhau, các bột màu cũng trở nên mờ ảo, rực rỡ và có những độ nổi chìm trong bức tranh. Thực ra, mỗi một màu sơn đứng độc lập cũng đã tạo nên những vẻ đẹp của riêng nó. Ngoài những bức tranh sơn mài ra, lại có những tác phẩm khắc chìm và đắp nổi. Những năm 30 của thế kỷ này, tranh sơn mài và các tác phẩm thủ công mỹ nghệ đã trải qua một cuộc phục hưng. Nó khẳng định rằng khả năng biểu hiện của sơn mài trong hội hoạ là không hạn chế. Nó có thể diễn tả được đủ loại nội dung đề tài. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), cuộc phục hưng thứ hai của sơn màu mới thực sự rộng khắp và sôi nổi. Nhiều bức tranh sơn mài và các đồ mỹ nghệ thủ công sơn mài Việt nam được đưa ra nước ngoài hàng loạt. Chúng được đánh giá cao ở nước ngoài cũng như ở thị trường trong nước. Những hoạ sĩ gắn bó với sơn mài và có những bức tranh sơn mài có tiếng vang phải kể đến các hoạ sĩ như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Ty, Trần Văn Cẩn v.v… Tranh sơn mài thường được vẽ ít nhiều theo ước lệ, ngẫu hứng. Nó cũng như tình yêu vậy, xuất phát từ tấm lòng chứ không nhất thiết theo những quy luật lạnh lùng của hội hoạ nói chung và cũng không theo những bảng màu được công bố một cách máy móc nặng về kỹ thuật. Rung động trong lòng thế nào, hoạ sĩ thể hiện ra tranh như thế. Có khi nó phớt lờ cả tỷ lệ hoặc luật viễn cận. Nó không lý sự dài dòng. Nhưng chính vì thế mà những bức tranh sơn mài Việt nam trở nên thầm kín, sâu lắng, ấm áp, mơ màng và xôn xao. Về phần mỹ nghệ thủ công, những chiếc lọ sơn mài, những chiếc hộp, đĩa trang trí, ghế, guốc, tượng, đồ thờ và các đồ trang sức v.v… làm bằng sơn mài hoặc trang điểm bằng sơn mài được liệt vào những mặt hàng hiếm mà khách nước ngoài săn tìm. Tương lai của sơn mài rất sáng lạn. Nó đã và sẽ góp vào vườn hoa nghệ thuật Việt nam và thế giới một bông hoa khiêm tốn và độc đáo.
 
TRUYỆN VỀ BỨC TRANH "HỨNG DỪA"

Tôi về thăm làng Hồ, tới nhà cụ Quýnh thì cụ cũng vừa ra khỏi gian nhà cổ. Cụ bảo: "Ôi, nhà báo lại có điều gì dạy bảo đây…"
- Dạ, là hàng con cháu, xin đến thăm cụ.
- Cám ơn ông.
Cụ Quýnh đưa tôi vào nhà, mời uống nước chè xanh và hút thuốc lào Tiên Lãng. Cụ vừa mới ở Hà Nội về. Cụ không chịu được cái không khí Hà Nội. Ở Hà Nội không biết trăng sáng tỏ hoặc trăng suông là gì. Thế thì biết làm sao được cái câu: “Sáng trăng sáng cả vườn đào"? Biết được làm sao cái điệu “Suông hời” thảng thốt…? Nể lòng người cháu họ mời ra Hà Nội, cụ chỉ nán lại ba ngày rồi nằng nặc đòi về làng Hồ. Về nhà, cụ còn góp ý cho bọn trẻ khắc lại những ván tranh Đông Hồ cổ, còn đi hết nhà này đến nhà nọ, còn nghe bọn trẻ hát những bài quan họ mà cụ cho là quan họ rởm v.v… Cụ đã 95 tuổi mà vẫn tinh nhanh, quắc thước, râu tóc như bông, nói đến chuyện các bức tranh Đông Hồ, cụ nói một mạch như thể chỉ sợ tôi xen vào sẽ cắt đứt mạch suy nghĩ của mình. Bàn đến bức tranh “ Hứng dừa “ cụ bèn kể lại theo lời của cha, ông cụ đã nói với cụ. Tôi chỉ còn biết nghe và nhớ lại từng chi tiết

Và đó cũng là ước mơ của tôi. Ngày xưa, cứ gần hết ngày Tết là có những đám thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi xuân… họ thách nhau lên trèo dừa. Không kể dừa nhà ai, cứ cây nào dễ trèo là trèo trẩy vài ba quả lấy may. Chủ nhân vườn dừa rất đỗi rộng rãi, cởi mở, không lấy tiền. Chàng thanh niên nhanh nhẩu, hoạt bát trèo thoắt lên cây dừa, giữa tiếng hoan hô ầm ĩ và tiếng tán thưởng của mọi người. Chàng thanh niên mặc quần đùi ống rộng, không mặc quần si líp như bây giờ. Người ta gọi các cô gái ra hứng dừa. Lẽ dĩ nhiên, có một cô nhảy ra làm việc đó cô gái ra khỏi đám đông, đến gốc dừa. Lúc này tiếng ồn ào, cười đùa hò hét vang lên như sấm. Chàng thanh niên sờ tay vào những quả dừa rồi hét lên:
- Ai ơi, xong chưa?
- Xong rồi…
Cô gái và tất cả mọi người reo lên… Một quả dừa nhỏ được tung xuống. Cô gái vui quá, nâng váy lên đỡ. Mọi người ào tới, vỗ tay khen cô gái và khen cả những động tác hớ hênh của cô. Cô gái để mình trần, mặc chiếc yếm điều hờ hững. Giải thắt lung xanh giữ cạp váy trang điểm rất nhiều cho thân thể ngọc ngà của cô. Đây mới là màn một.
Đến màn diễn thứ hai có phần đặc sắc hơn. Một cô gái thứ hai ra hứng tiếp. Lần này, chàng trai mưu mẹo hơn (con trai là thế đó)” Anh ta thả xuống một lúc hai quả dừa to và nặng thật nhanh. Và thế là hai quả dừa quá tải này đủ để làm tụt váy cô gái ra trước thanh thiên bạch nhật. Cô gái bàng hoàng xấu hổ, vứt cả dừa, vội vàng vơ váy lên, mặc lại váy rồi chạy một mạch về phía đình làng.
Bọn trẻ xúm lại, tranh nhau hai quả dừa mà cô gái không nhận này. mang về nhà. Đó là điềm may lớn.
- Chúng tôi được trận cười vui vẻ.
Ông cụ Quýnh nói cười rung cả chòm râu bạc.
- Thưa cụ. Có thể vì vậy mà các cụ sống lâu đấy ạ.
- Tôi không biết. Nhưng không hiểu sao, năm nào cũng như năm nào mà bọn con gái không biết rút kinh nghiệm, cứ để bị tụt váy nhỉ? Phụ nữ họ nhẹ dạ, cả tin chăng? Cứ vui lên là quên không coi trời đất là gì. Lạ thật chú nhỉ? Dạ. Có thể là như vậy.
- Mà thế mới sướng chứ?
- Vâng…
 
MẤY BÔNG HOA NGHỆ THUẬT

Những năm 1976-1977, tôi đi cùng với mấy nhà nghiên cứu âm nhạc người Bun-ga-rỉ đến dự một buổi ca trù và biểu diễn nhạc cổ tại một căn gác nhỏ trên phố Trần Hưng Đạo.
Đào nương là bà Quách Thị Hồ, ông Trúc Hiền đánh trống chầu. Ông Chu Văn Du đánh đàn đáy. Ông Đinh Khắc Ban thỉnh thoảng hoà vào mấy tiếng đàn nguyệt đầy kịch tích. Tiếng phách dạo lên giòn giã tung tăng như có gió, có mưa, có tiếng lòng tha thiết. Bà Hồ hát lên:
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngày biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ, âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm Ô quan bà
Cỏ vàng, cây đổ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương

Những giọt đàn đáy rung lên: từng… tưng… tưng… tưng… Nghe như tiếng đàn từ ngàn xưa vọng về. Chát… chát… chát… tom, mấy tiếng trống chầu của ông Trúc Hiền vang lên. Ông lim dim đôi mắt say sưa, ngây ngất về bài thơ của Tản Đà và giọng hát đổ hột mà rất "hàng hoa" của đào nương. Nghe yêu quá. Chính trong cái trạng thái tâm hồn chạng vạng ấy mà ông Trúc Hiền mới góp được vào những tiếng trống hào hoa, xuất thần. Mấy người bạn nước ngoài cũng như mấy chuyên gia âm nhạc Việt nam ngồi nghe chết lặng. Các bạn cảm ơn, vái ông Trúc Hiền. Tôi cũng khen ông: "Tiếng trống của ông hay quá". Ông Trúc Hiền nói ngay: "Năm nay tôi 70 tuổi. Trong tiếng trống của tôi có cả những tiếng khóc và những điều ân hận của tôi. Tôi đã mất mấy chục năm phiêu bạt, ăn chơi. Đời tôi đã mất cả vườn ruộng. Đã làm khổ vợ con vì những tiếng trống này đó. Tôi đã mất đi tất cả. Chỉ còn lại có vài tiếng trống…"…

Qua đi chừng vài năm, tôi đã học được nhiều điều mới thấy lời khen ông Trúc Hiền của tôi năm xưa là dốt nát. Đối với những tiếng trống nghệ sĩ đem lại cái đẹp cho cuộc đời, làm cho người ta trở nên trong sáng như buổi mới sinh ra của một lão nghệ nhân vào cỡ tài hoa bậc nhất Hà thành mà khen một câu như vậy là vụng về. Với ông Chu Văn Du, tôi chắp tay vái ông. Ông cho biết Ông học đàn đáy từ năm 13 tuổi. Đàn đáy là cây đàn thiêng, cần dài lm2, có dây gọi là ba dây tình tang đục. Ông thường theo cha vác đàn đi xin hát cửa đình, hát tế thần, hát giỗ tổ… Đến năm 16 tuổi, ông đã dám đến với các giáo phường Thú Khối, Bát Tràng dự thi đánh đàn đáy với những bậc cao thủ. Giới cầm ca Thăng Long hết sức ngạc nhiên, ông đã chiếm ngay ngôi vương cầm, đáng được ghi vào bảng "Phong thần" nếu ông là một kép già.

Một nhà hát ả đào nổi tiếng ở Khâm Thiên cứ người đi săn các danh cầm, đã 10 lần đến tận nhà ông để mời ông về đàn cho nhà hát. Thực tình, ông không muốn dừng gót phiêu lưu. Nhưng buổi ấy, ông đã gặp một con người phi phàm. Con người này, ở nhà hát đi ra tiếp ông. Đó là ả đào Đàm Mộng Hoàn. Một đào nương ca trù số một của Hà Nội mà lại hát được của những làn điệu tuồng, chèo, cải lương. Còn về ngâm thơ thì ông Du, nhà báo Phùng Bảo Thạch, nhà văn Vũ Trọng Can… bảo rằng chưa từng thấy ai ngâm thơ hay bằng Đàm Mộng Hoàn. Thế là, không chút do dự, ông ở lại nhà hát, đàn cho Đàm Mộng Hoàn hát và ngâm thơ. Ông đã mấy lần được mời cùng với các ông Ngô Thế Tuấn, Đinh Khắc Ban, Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm, Đàm Mộng Hoàn sang Hồng Ông đàn, hát ca trù và ngâm thơ để thu vào đĩa cho mấy hàng Pa thé, Asia, Colum-bia. Sau đó, riêng Đàm Mộng Hoàn và ông còn được liên tục trình bày nhiều bài hát, bài thơ để ghi vào những đĩa nhựa, bán trong cả nước và cho nước ngoài (Hồng Kông, Pháp, Thượng Hải). Trong làng cầm ca tính từ hơn 60 năm trở lại đây, chưa có giọng ca trù nào vượt được Đàm Mộng Hoàn. Chị đã làm "lên hương" được những điều chính trong ca trù như: Bắc phản, mướt, hát nói, gửi thư, ngâm vọng, nhịp ba, cung bắc, tỳ bà hành, đọc thơ, đọc phú, hát ru, hãm, kể chuyện, xầm nhà trò, 36 thứ giọng… cũng chưa hề có giọng ngâm thơ nào vượt được Hoàn. Hơn nữa, Đàm là nhan sắc của làng hoa khôi Khâm Thiên (người ta quen gọi như thế): Một sắc đẹp hơi lẳng lơ, gợi cảm… ông Du bảo: "Tiếng đàn của tôi chỉ thực sự là tiếng đàn khi tôi đánh cho riêng tôi nghe hoặc khi đệm cho Đàm Mộng Hoàn. Ngoài ra, là tiếng đàn để vụ sinh nhai…"

Ông Bùi Trọng Đang ngâm lên mấy câu sổng tả nỗi thất vọng của Lưu Bình khi vừa mới thi đỗ, về đến nhà thì không thấy bóng người đẹp: Nàng bỏ đi đâu? Lạnh ngắt phòng loan Trông lên bức gấm… nhớ tới tay ngà Cây kia ai xới… cho thắm giò hoa… Giọng ông ấm áp, âm vực rộng, lúc bổng lúc trầm, như phun châu nhả ngọc. Ông Ban phơi đàn đáy, đàn nguyệt, đánh trống chầu, hát chèo… Cả mấy môn đó, ông đều được xếp vào loại siêu việt. Nhà báo Phùng Bảo Thạch rất mê ông, biết ông từ cái dạo ông lên 13 tuổi, đeo cây đàn theo ông chú đi đến các đền làm cung văn. Một hôm, ông chú đang chầu văn thì lăn ra ốm. Không tìm được người thay thế, mọi người đành phải để chú bé 16 tuổivừa đàn, vừa hát. Kết quả, ông hát và đàn còn hay hơn cả ông chú. Hát rất nổi "màu". Mọi người rất đỗi mừng rỡ, gọi ông là cung văn “Kim Đồng, Ngọc Nữ" của Mẫu. Cho đến tận bây giờ, ông đã dạy trực tiếp và gián tiếp cho hàng ngàn học trò về đàn, trống, hát trong mấy chục năm. Trong số những học trò của ông, nhiều người đã trở thành những nghệ sĩ, những diễn viên tài ba. Họ có mặt trên khắp miền đất nước. Họ lấp lánh như những vì sao trên bầu trời ca nhạc truyền thống Việt nam. Ông sống trong nghèo nàn, thanh bạch cả cuộc đời. Những năm còn lại, ông sống thanh bần với tiếng đàn tiếng trống và với những người ái mộ ông. Ông sống có phần ẩn dật, ít nói, tình cảm, chẳng mấy khi cười.

Các bạn đề nghị bà Quánh Thị Hồ trình bày cho nghe thêm một đoạn “Dòng phách". Tiết tấu tiếng phách thật kì diệu Lối dòng phách của bà không giản đơn là cầm hai cái thanh tre, gõ lên một mảnh tre. Phải gõ làm sao cho một bên dẹt, một bên tròn. Một bên phát ra tiếng nặng, một bên tiếng nhẹ, một bên trong, một bên đục, một bên cao, một bên thấp, lúc khoan, lúc dồn. Hơn nữa, bà là ngươi vừa dòng phách vừa hát. Tiếng hát thanh tao là bà ngân lên, quyện với tiếng phách nao nao với tiếng đàn trầm ấm, ngọt ngào. Trong khi đó, những tiếng trống chầu hùng biện đệm vào. Chúng tán thưởng, khen ngợi và ra tuyên ngôn: "Kẻ này đã gặp tri kỷ. Kẻ này yêu tiếng hát và tiếng phách của đào nương lắm lắm"!

Đúng như trong quan họ bảo: "Ta yêu người lắm lắm người ơi!"… Chỉ có 3-4 người ngồi trên một chiếc chiếu hoa, cùng với mấy nhạc cụ: phách, trống, đàn… đã làm cho những người Phải nghe say mê: say thơ, say nhạc, say tiếng hát, say tình bạn, say đời… Nghệ thuật ca trù của ta có sức sống trường tồn. Không chỉ riêng Việt nam ta yêu thích mà nó còn làm cho nhiều nhà nghiên cứu "âm nhạc trên thế giới say mê đến nỗi đứng ngồi không yên.
 
VẼ MẶT TÀO THÁO

Nghệ thuật hoá trang là một phần không thể thiếu, được của điện ảnh và sân khấu. Cứ thử hình dung mà xem, 25 tập phim Tây Du Ký làm say mê hàng triệu khán giả màn ảnh nhỏ mà không có hoá trang thì Điện ảnh Việt nam cũng đã nhiều lần giới thiệu với các bạn những thành công của nghệ thuật hoá trang trong phim truyện. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu với các bạn cách vẽ mặt Tào Tháo, nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết trường thiên Tam Quốc Diễn Nghĩa của Trung Quốc. Nhân vật này cũng đã từng nhiều lần từ văn học bước lên sàn diễn sân khấu và điện ảnh… Kép hát tuồng nổi tiếng suốt vùng Bưởi và Hà Nội những năm 1935-1946 là Kép Thuyên. Ông là nghệ sĩ tuồng toàn diện, được các cụ trong nghề khen là "toàn thân giai nghệ ", nghĩa là nghệ thuật đầy mình. Các đoàn tuồng phải mời ông đến diễn mới mong bán được nhiều vé, nhất là vai Tào Tháo lại càng cần đến ông. Tôi vốn là người yêu thích tuồng từ thủa bé và thường được ở trong buồng trò những khi Kép Thuyên sắm vai. Tôi say mê các động tác diễn xuất, hát và nhạc. Nhưng tôi say mê hơn cả là nghệ thuật vẽ mặt các nhân vật tuồng. Cho đến bây giờ, sau nhiều nam được trang bị một số kiến thức về hội hoạ, tôi lại càng say mê nghệ thuật này, nhất là nghệ thuật vẽ mặt Tào Tháo của Kép Thuyên. Tôi cho rằng nửa thế kỷ nay, chỉ có hai người đóng thành công vai Tào Tháo là Kép Thuyên và nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Quang Tốn. Những người vẽ mặt Tào Tháo một cách nghệ thuật cũng chỉ có Kép Thuyên rồi đến ông Tốn. Cái khéo của việc vẽ mặt không chỉ là vẽ đẹp nét mặt về phương diện tạo hình mà phải vẽ sao cho lột tả được tính cách của nhân vật Tào Tháo. Người ta gọi là mặt trắng Tào Tháo. Thật là khó khi bộ mặt nhân vật tuồng không có nét đỏ, nét đen, không có dằn di, lốm đốm. Mặt Quan Công đỏ, mặt Bao Công đen, mặt Trương Phi rằn ri v.v… đều dễ vẽ. Mặt Tào Tháo rất khó vẽ, lại là cái màu trắng độc đáo. Nó không phải là cái trắng nhễ nhại của các cô gái trong phòng the, không phải là cái trắng kiểu bạch diện thư sinh; không phải là cái trắng tang tóc mà phải là màu trắng của bụng con cá. Thường thường, màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, cao đẹp, nhưng ngoài cái màu trắng ở bụng con cá lạ lùng này, không một màu sắc nào lột tả được cái thần của Tào Tháo. Trong văn học, Tào Tháo được miêu tả: hùng tài đại lược túc trí, đa mưu, văn võ kiêm toàn, vũ phi phàm, anh hùng đủ mặt, đa nghi, ghen ty, khẩu phật tâm tà, gian trá, hung ác, ích kỷ hại người, gian ngoan cùng cực v. v… Một nhân vật như vậy thì phải dùng màu gì để vẽ mặt cho thật khớp với cái chất của con người ông ta thật là khó. Bất kỳ màu sắc nào vẽ lên mặt ông ta đều mờ nhạt và vô duyên không tài nào lột tả được cái, "thần" của ông. Cái khoan dung hơn người cũng trùm lên cái lòng ghen ty vô kể, cái khí khái khác thường che đậy cái lòng riêng quá quắt. Cái mưu lược thiên tài đi liền với cái gian tà khôn xiết tả. Cái chí khí đại bàng lại chứa đựng chút nhỏ nhen, khôn ngoan giảo hoạt, thịnh tình và giả dối, khẳng khái và hèn mạt, hào hoa và cay độc… Tất cả những thứ trái ngược với nhau đều khó có ranh giới rõ rệt trong con người, Tào Tháo. Tất cả quyện lại rất hài hoà trong một thể thống nhất. Màu sắc của tính cách Tào Tháo phức tạp nhiều màu vẻ khôn lường. Do vậy, chỉ có bộ mặt trắng mới có thể bao quát được. Màu trắng là không màu mà cũng là tất cả mọi màu cộng lại. Ve mặt Tào Tháo vì thế phải dùng đến màu trắng của bụng con cá.

Cụ thể đó là nét độc đáo trong nghệ thuật hoá trang mà nhiều người chưa biết.
 
CA TRÙ DÒNG NHẠC DÂN CA HÀ NỘI

Nguyên lý của ca, nhạc cổ kim là nhằm khai thác những nhân tố tương phản về âm sắc, âm chất để đi tới sự hài hoà qua những phức điệu đan kết lại với nhau. Ca nhạc ca trù phù hợp với nguyên lý đó. Tiếng đàn đáy vừa cứng vừa mềm, đục, khàn (giọng khàn là giọng được giải phóng). Cây đàn đáy dài lm2, có ba dây chùng. âm thanh của nó phát ra là sự chắt lọc của đàn nguyệt, đàn tứ, đàn thập lục, đàn tỳ bà hợp lại. Một mình chiếc đàn đáy thay thế được cho nhiều nhạc cụ. Thùng đàn không có mặt hậu. Tiếng phách khô giòn, tung tăng, ấm, nặng tình. Tiếng hát của đào nương dẻo, mềm, mượt… Tiếng trống chầu thảng thốt, bâng khuâng, xa vời… Tất cả quyện lại với nhau tạo nên cái thao thức ngàn năm mà người Trung Quốc gọi là "Thiên cổ chi mê"? Giản đơn hơn gọi là sự hấp dẫn lớn.

- Ba loại nhạc cụ: Phách, đàn đáy và trống chầu là những nhạc cụ 100% Việt nam. Năm 1980, chuyên gia văn hoá của tổ chức A.C.C.T là ông Zakpa đã phát biểu sau khi dự một buổi ca trù Văn Miếu: “Buổi biểu diễn ca trù đã cho tôi hưởng một loạt những: nước mắt, tình cảm, dữ dội, tình yêu, sự vuốt ve âu yếm và tâm linh… Ca trù có đủ các thể loại: trữ tình, lãng mạn, sử thi anh hùng ca, giáo huấn… Các bài hát ca trù giàu chất thơ, ca. Chúng thoáng có nét thơ Đường, tranh thuỷ lạc, lại thấm chất dân gian, nhiều nhạc tính và kịch tính. Ca trù có chút buồn. Nhưng chất buồn này không phải là cái buồn bình thường mà là cái buồn to lớn: trầm ngâm, sâu lắng, suy nghĩ, cảm xúc nó làm cho những công việc bề bộn của trái tim được hài hoà. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã bỏ ra nhiều năm tháng để nghiên cứu và học ca trù. Năm 1940, ông viết trên báo Ngày Nay. "Đứng về phương diện hoà âm mà xét, lối hát ả đào là không thể chỉ trích vào đâu được. Ta chỉ nên lắng tai mà nghe sự hợp nhất, đối chiếu, thăng bằng hoàn toàn của mấy loại nhạc khí góp vào với lời ca. Năm 1944, ông lại viết trên báo Thanh Nghị: Chúng ta có thể tự hào rằng, không một tiếng hát nào trên thế giới có thể đẹp như tiếng hát của đào nương ca trù! ông lại thêm: "Đào nương là con chim hoạ mi của thơ ca Việt nam"

Suốt cả chặng đường gần 1000 năm trở lại đây, người Hà Nội không bao giờ sao lãng nghệ thuật ca trù kể từ khi dòng nhạc này còn là hát ở cửa đình, hát ở thành thị rồi vào kinh đô. Và rồi nó lại từ kinh đô mà trở về với thành thị, với các xóm làng. Nó không ngừng được cải tiến, hoàn thiện cả về hình thức lẫn nội dung để trở nên lối hát ca trù ngày nay. Nó được lan toả đi mọi nơi và cũng đi nhiều nước trên thế giới. Ở đây, thanh và sắc của nó cũng được nâng niu, kính nể. Từ những năm 1980 - 1940, ở Hà Nội luôn tổ chức những cuộc thi hát ca trù và đánh đàn đáy với sự tham gia của nhiều đào kép quái kiệt, hạng nhất ở Hà Nội và từ các tỉnh Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Sơn Tây, Thanh Hoá, Hà Tĩnh v.v… Các cuộc thi được tổ chức long trọng tại đền giáo, phường Lỗ Khê, Đền Hàng Quạt, đền Phố Huế, đền Ngọc Hà, Hàng Giấy, Thủ Khối, Gia Lâm, Bát Tràng… Người đoạt giải nhất được phong làm thủ khoa. Người đoạt giải nhì được gọi là á khôi. Phải là người được giải trong các cuộc thi này ở Hà Nội mới là tuyệt mỹ, là đáng mặt. Họ bảo nhau: “Phi Hà thành bất xứng cầm ca".

Có một lần, cụ thân sinh ra bà Quách Thị Hồ là người Kinh Bắc, có tài ca nhất Kinh Bắc, lại có nhan sắc lộng lẫy, đã chắc mẩm được thủ khoa. Nhưng không may, bà chỉ được á khôi, bà ăn năn mãi và quyết tâm rèn luyện cho con gái cố đoạt danh hiệu thủ khoa thay bà. Đó là cả một sự ân hận truyền kiếp. Từ những năm 1930, thành phần nhóm trình diễn ca trù luôn được các nhà nho, nhà thơ, học giả cùng với các tài năng dân gian hoàn thiện để nhóm được rút thật gọn nhẹ đến nỗi không phải thêm một thành viên nào mà cũng không thể rút đi được một thành viên nào. Những năm 1930 - 1935, các danh ca Đàm Mộng Hoàn, Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm và các danh cầm Đinh Khắc Ban, Ngô Thế Tuất, Phí Văn Thọ… thường đến Hồng Ông để ghi những đĩa hát về ca trù. Danh cầm Phí Văn Thọ là thầy dạy của Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Tính đến năm 1942, ở Hà Nội có nhiều xóm ca trù nổi tiếng, như các xóm Hàng Giấy, Hai mươi bốn quan, Vạn Thái, Khâm Thiên, Thái Hà ấp, Ngã Tư Sở, Phùng, v.v… Xa một chút có các xóm Gia Lâm, Thủ Khối, Bát Tràng, Bắc Ninh, Quốc Oai, Từ Liêm…

Năm 1977, ở Hà Nội có nhóm câu lạc bộ ca trù ở đền Bích Câu Chủ tịch câu lại bộ là người Lỗ Khê. Nhiều khách nước ngoài cũng đến tham gia câu lạc bộ. Năm 1979, tại Liên hoan nghệ thuật các dân tộc Á Phi tổ chức tại Ran, bà Quách Thị Hồ đã được bằng danh dự với bài ca trù: "Xuân rồng chắp cánh rồng bay" Lời bài hát của Chu Hà.

Năm 1983, tại Mông Cổ, trong cuộc thi nghệ thuật của 29 nước, bà Quách Thị Hồ lại đoạt bằng danh dự và đặc biệt về “bài ca trù "Tỳ Bà Hành, " Một thành viên trong ban giám khảo quốc tế đã bình: "Tiếng phách của bà Hồ là một tiến hành khúc của tâm hồn". Nhạc sĩ Trần Văn Khê rất say mê ca trù, ông đi khắp thế giới. Đến đâu, ông cũng giới thiệu ca trù. Hồi tôi gặp ông ở Paris, ông nhờ tôi nhắn lại với các bạn trẻ: "Giờ đây, chúng ta không được nghi ngờ về giá trị cao siêu của ca trù"…

Ở làng Lỗ Khê, còn có đền giáo, phường ca trù. Nơi đây thờ tổ sư ca công và tổ giáo phường. Trong đền còn giữ lại được các bản ghi chép về sự tích các vị thần do Nguyễn Bính là tiến sĩ đời Lê Hồng Phúc soạn. Trong đền còn bức hoành phi, bức cửa võng chạm trổ tinh vi, có khám thờ hai pho tượng gỗ sơn son thếp vàng ngồi uy nghi. Đó là tượng ông Đinh Dự và bà Đường Hoa là tổ sư nghề đàn, phách, ca, múa và lập giáo phường. Nay ở Lỗ Khê còn hơn một chục "họ" ca trù. Các ca nương và các danh cầm của Lỗ Khê vẫn đi khắp nơi trình diễn. Cũng như xưa, họ đều có mặt trong các cung đình vua chúa. Nơi đây còn nhiều gia đình giữ được nhiều bộ phách và nhiều cây đàn đáy gia truyền. Họ thường tổ chức hát ca trù trong ngày lễ tổ sư, trong các dịp lễ, Tết của hai mùa xuân thu. Khách ở các nơi đến thăm họ trong những ngày này rất đông như thể người ta rủ nhau về thăm làng quan họ vậy. Ở Từ Liêm cũng còn đền thờ tổ ca trù. Ở phố Hàng Trống có đền thờ một đào nương từ đời Lê. Nàng tên là Huệ. Ở ngay gần chợ Hôm cũng còn đền thờ tổ sư giáo phường ca trù. Chúng ta đều biết, dòng nhạc ca trù của Hà Nội đã có rất nhiều đệ tử. Trong đó có những vị lừng lẫy như: Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tản Đà, Hoàng Tích Chu, Xuân Thuỷ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xuân Khoát, Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Khắc Viện, Ngô Linh Ngọc, Hồ Tùng Mậu, Trần Huy Liệu, Trần Huyền Trân, Hồ Duyếch, Lê Hồng Phong, Tôn Quang Phiệt, Trần Văn Khê, Văn Cao, Nguyễn Tuân v.v… và v.v… Họ là những nhà nho, nhà trí thức, nhà văn hoá. Họ yêu mến ca trù và sáng tác ra những bài hát cho đào nương.

Mấy thập kỷ nay, đã có một số nhạc sĩ vớt được một chút hương hoa ca trù và kết nạp họ vào làng ca trù. Họ là: Nguyễn Cường, phó Đức Phương, Văn Thành Nho, Huy Thục, Đoàn Bổng, Nguyễn Ngọc Ninh. v.v… Người xưa đã cho họ ăn “lộc”. Ca trù là dòng nhạc truyền thống, dân gian được nâng lên mức bác học của Hà Nội. Nó cũng như dân ca quan họ của Kinh Bắc, ví dặm của Nghệ Tĩnh, ca Huế của Huế, ca tài tử của Nam Bộ v.v…

Ca trù là của Hà Nội.
 
GIỌNG HÁT XẨM BÂNG KHUÂNG

Xẩm là loại hình hát nói dân gian ở Việt nam do những người mù tài năng, có nhiều tâm tư, mang tiếng đàn, giọng hát góp vào với cuộc đời. Đó cũng là cách kiếm ăn duy nhất của họ. Người hát xẩm thường vừa hát vừa đàn (đàn bầu ống bơ). Cũng có khi anh ta kéo nhị, kéo hồ hoặc sử dụng nhiều loại nhạc cụ. Bạn hoặc vợ xẩm đánh trống một mặt và đánh cặp kè. Các bài hát xẩm thường mang tính chất tự sự, kể về những nội dung phản ánh hiện thực xã hội. Có bài lên án những hiện tượng không hay. Có bài lên án, phê phán, than vãn, khuyên răn… Theo lời văn, giai điệu được biến hoá trên những âm hình, tiết tấu chủ đạo từng đoạn hoặc kéo dài, sâu lắng, lúc sôi nổi, rộn ràng, lúc buồn thảm. Thỉnh thoảng lại có những đoạn “Lưu không”: Xẩm không hát mà chăm chú, say sưa biểu diễn nhạc cụ. Anh dồn cả tâm lực, trổ hết tài hoa rồi tạo đà để hát đoạn sau. Đến những đoạn trữ tình, huê tình, bi hùng… anh xẩm rượn mình, ngẩng cao đầu. Đôi mắt không nhìn thấy gì cứ hướng vào xa lắng mênh mông. Tay gấy đàn hoặc kéo nhị nhấn nhá, vuốt ve và ca lên nồng nàn, sôi nổi, đầy kịch tính. Những lúc này là những giờ phút xuất thần của xẩm, gây được một sự vương vấn lâu dài trong lòng người nghe.
Do vậy, những người thưởng thức thi nhau vứt tiền vào chiếc chậu thau bẹp để thưởng cho xẩm. Các làn điệu của xẩm thường toát lên tính cách tiêu biểu của tâm hồn Việt nam: Quý trọng nghĩa tình, chung thuỷ, yêu lẽ phải và đạo đức, lạc quan, tintưởng vào tương lai. Mặc dù, xẩm luôn luôn ở vào một cuộc sống đầy vất vả, gieo neo. Những bài hát của xẩm dễ hiểu, dễ thuộc, thuộc rồi càng muốn nghe. Cái hay của xẩm là "đàn ngọt, hát chín", lột được tình cảm, có kèm cử chỉ, dáng điệu sống động, giàu chất biểu diễn. Có những đêm khuya thanh vắng, xẩm ca, kể chuyện chồng con đã làm cho nhiều người chảy nước mắt. Để nhớ đến chiến công của các chiến sĩ trong Trung đoàn Thủ đô ngày nào đã vượt sông, anh dũng chiến đấu để rồi trở về giải phóng Thủ đô, anh xẩm thay mặt một người dân, hét lên khúc tráng ca:
Khăn gói trên vai, kẻ giang hồ chậm bước
Nghe hát bài: "Anh khoá bâng khuâng"
Hồn nước mang theo gót vạn trùng
Người đi, không mấy người trở lại…
Non nước ta, ngày nay tưng bừng vĩ đại.
Ơn người một buổi… đã qua sông…

Bài xẩm "Thập ân" là một làn điệu trong những làn điệu chính của xẩm. Nó ngang thưng với những làn điệu đặc trưng của xẩm như: xẩm chợ, xẩm xoan, chênh bong, riềm huê, phần huê, hát ai… Nó mang một sắc thái riêng. Nó dân dã, được quần chúng nhân dân bao giờ cũng tán thưởng một cách say sưa, xúc động. Bao giờ nó cũng cộng hưởng với tâm tư, tình cảm của con người ở nhiều cung bậc. Nó nói về tình mẹ con muôn đời. Người ta đón nghe “Thập ân” rồi mở rộng chân trời suy ngẫm. Nó buồn rầu, thực cảm, hùng hồn, khêu gợi, hao hao cái chất "oán thập điều” trong chèo. Nó lại có họ hàng với nhạc và Phật, kể lại công lao của cha mẹ. Nhưng nhất là mẹ đối với đứa con từ lúc đứa con ra đời cho đến khi được nuôi dạy lớn khôn. Đứa con là trái tim, là linh hồn, mà cũng là giấc mơ của mẹ. Bài hát cũng nhắc nhở một cách khéo léo đến nhiệm vụ làm con đối với công lao trời biển của mẹ. Lại còn có ý nghĩa nữa gài vào là đối với người con xứng đáng thì mẹ đẻ cũng là quê hương, là đất nước. Có thể lầm lạc đối với cha mẹ sẽ dẫn đến lâm lạc với quê hương.
Con người hãy coi chừng! Mẹ đẻ và mẹ Tổ quốc bao giờ cũng thương yêu và rộng lượng với những đứa con. Chính vì những ý này gắn bó với nhiều ẩn ý sâu xa làm cho bài hát xẩm "Thập ân" đã có từ rất lâu đời mà vẫn còn tươi mãi đẹp đẽ và ấm áp đến tận bây giờ và mai sau. Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, xẩm tài năng dùng thủ thuật hát và nhạc lúc tươi màu, oán màu, lúc lại thắm màu… Số lời hát của xẩm thường theo lời sáu, tám, có sân si đôi chút. Xẩm hay đưa bốn chữ của câu sau lên đầu để nhấn mạnh và phát triển:
Mẹ mới có thai
Kể từ mẹ mới có thai
âm dương, trai gái, trúc mai đều… (là) tình.

Những nhóm xẩm phiêu lưu, xê dịch hết nơi này đến nơi khác. Họ sống rất kham khổ mà yêu đời, mang tiếng đàn, câu hát đi lang thang nhân thế, nhận tiền thưởng và sự cưu mang của người đời. Xẩm thường hoạt động ở những nơi có đông người tụ họp, bên cạnh một cái quán hàng, mái chợ, bến tàu, bến xe, bến đò, ven sông hoặc những nơi có hội hè, đình đám… có khi, vài nhóm xẩm họp lại với nhau. Trường hợp này xẩm có thêm nghệ sĩ, thêm nhạc cụ: tiêu, sáo, thanh la, hồ v.v… có khi thêm cả đàn thập lục. Họ diễn tả hẳn cả một tích chuyện lớn và tập trung vào nhiều đoạn lâm ly, làm xúc động lòng người. Có khi họ hát thâu đêm suốt sáng. Hát xẩm là một loại hình nghệ thuật dân gian, phản ánh được hơi thở của cộng đồng lao động, những biến cố lịch sử bi hùng, tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Nó góp phần đưa thêm vào nền văn hoá dân gian Việt nam một chút hương sắc của hoa ngâu, hoa mộc.
 
CHUYỆN VỀ NHẠC HIẾU XƯA

Xưa kia (và cả bây giờ), những đám tang thường mời phường hiếu đến giúp đỡ. Phường hiếu còn gọi là phường kèn hát, phường bát âm. Mọi người rất coi trọng điều này, bảo: "Sống dầu đèn, chết kèn trống". Nhà nghèo thì mời phường nhỏ, chỉ có kèn, nhị và trống cơm. Phường bát âm gồm đủ tám nhạc cụ: hồ, nhị, hồ gáo, sáo, đàn tứ, trống cơm, tiu cảnh, kèn; kèn lại có kèn đại, kèn pha. Mỗi nhạc công điều khiển một nhạc cụ. Có người điều khiển 2, 3 nhạc cụ. Người chỉ huy tối cao là ông trùm phường, ông trùm phường đảm nhiệm kèn. Vì kèn giữ vị trí "soái âm". Nhạc hiếu truyền thống của ta có 10 làn điệu chính là: Lâm khốc, Nam Ai, Nam Xuân, Nam Thương, Ngũ Đối, Lưu Thuỷ, Con nhạn lạc đàn, Điếu Quân, Xuân Nữ, Mã đáo vô nhân. Nhưng mỗi làn điệu lại có nhiều biến tấu và những đoạn đệm, đoạn chuyển màu của nó. Do vậy mà trở nên có rất nhiều làn điệu vô cùng phong phú, mang sắc thái truyền thống sâu sắc và có giá trị cao. Chính những nét nhạc Xuân Nữ đã gợi ý để chúng ta có được những “Lỡ bước sang ngang” của nhà thơ Nguyễn Bính, những " Cô gái Việt nam" của Hồ Dzếch.

Những năm 1975 - 1980, người viết những dòng này đã đưa những nhà nghiên cứu âm nhạc của Hunggari, Bulgarie, Nga, Pháp đến thăm một vài phường ở Bưởi, Sài Sơn Hà Bắc. Họ đều đánh giá rất cao nhạc hiếu Việt nam. Họ rất cảm động khi được tiếp xúc với những ông trùm phường như ông Kha, ông Sinh, ông Côn. Họ đã vái các ông. Làn điệu Lâm Khốc còn gọi là Lâm Khốc, Lấm là từ cổ, có nghĩa là cũng khóc. Điệu Nam Ai buồn, bi thống. Nam Xuân đỡ buồn hơn. Ngũ Đối và Lưu Thuỷ nhẹ nhàng, lăn tăn, vồ vập. Con nhạn lạc đàn miêu tả sự cô đơn, tan tác. Điệu Quân tả cái chết bi hùng của một tướng quân chết trận. Xuân Nữ buồn cho tuổi xuân của một thiếu nữ. Nó nhắc đến những giấc mộng ban đầu rất xa. làn điệu này rất hay và rất đẹp. Mã đáo vô nhân mô tả sự bi thương, hùng tráng khi con ngựa chiến trở về mà trên mình nó không có người… Xưa kia, ở nhiều nơi có những phường hiếu do một số người tập hợp lại.
Họ mời thầy về, luyện tập với nhau trong những lúc nhàn rỗi. Mỗi phường thường có một, hai chàng trẻ học nghề. Họ phải hầu hạ rượu, thuốc, nước cho những người được gọi là quan viên của phường. Nhạc cụ do phường tự mua sắm. Nhà có đám đến mời phường. Một nhóm người đi theo nhà đám, gọi là đi nhận đám. Người chết nằm xuống được liệm đặt vào áo quan. Cả gia đình, các con, cháu, họ hàng túc trực sẵn quanh áo quan. Lúc này, phường kèn cử lên đoạn Lâm Khốc với sự hoà tấu náo nhiệt của tất cả các nhạc cụ. Nhưng tiếng kèn vẫn là chủ đạo. Chính vào lúc này, nhà đám tiến hành phát tang… Tiếp theo, phường kèn tấu những điệu Nam Ai, Nam Xuân, Lưu Thuỷ, Ngũ Đối v.v…

Phường kèn ngồi tập trung vào một hai chiếc chiếu bên cạnh bàn thờ. Phía trong bàn thờ là áo quan người chết. Khi có đoàn nào hoặc người nào đến phúng viếng, ban nhạc gõ mấy tiếng trống báo tin khách đến rồi cả ban nhạc cứ những làn điệu: Con nhạn lạc đàn, Điếu quân, Mã đáo vô nhân hoặc Xuân Nữ sao cho phù hợp phần nào với thân phận và sự nghiệp lớn hay nhỏ của người chết. Trên đường đưa linh cữu người chết ra mộ, đám ma phải qua cái cổng làng. Lúc này linh cữu phải khiêng hạ xuống thấp, và ban nhạc cử bài "con nhạn lạc đàn" để người chết có lời cáo biệt. Ra đến mặt trước cổng làng, linh cữu phải quay lại 180 độ để mặt người chết được nhìn cái cổng làng lần cuối. Lúc này, ban nhạc rúc lên bài Điếu Quân hoặc Mã đáo vô nhân. Tiếng kèn nổi lên rất hùng tráng, bi thương mà cũng tiêudao, sương khói.

Sau đó, trên đường ra đồng, ban nhạc cử những nét nhạc bồng bềnh, thanh thản không buồn lắm mà tung tăng, hao hao cái vị "Đường trường tiễn đưa” của chèo… Lúc hạ huyệt, phường kèn biểu diễn hầu hết cả mấy làn điệu chính có biến tấu và xen kẽ vào nhau. Lúc thật buồn, lúc lại nhẹ nhàng như gió thoảng, mây bay với những Kim Tiền, Lưu Thuỷ… Đến chiều tối, nhà đám cúng vong, khách đến phúng viếng đã vãn, phương kèn dạo đi, dạo lại một số làn điệu để chuẩn bị cáo từ nhà đám. Nhưng, lúc này lại là lúc sôi nổi. Một số người thân thích của người chết mượn một người trong phường có giọng hay, khóc hộ mình. Những tiếng khóc đó được cả phương đệm nhạc, nghe thật thấm thía, não ruột. Nhưng lại là tiếng lòng. Cô em gái người chết làm ăn ở nơi xa, lận đận về chịu tang người anh. Cô ta nhờ bác trong phường khóc hộ mình, bác Giáp của phường kể lể trong tiếng nhạc: "Em có ngờ đâu, em định bụng về thăm làng… lại được tin nhắn… anh lạc đường mệnh chung… tưởng đâu nhớ họ hàng… Lại thành ra chuyện… em về chịu tang…". Tiếng nhị ngẩn ngơ vuốt theo: "Cò cò… cư… cư ư"
Người nhờ khóc hộ biếu phường một số tiền nhỏ, đặt vào chiếc đĩa giữa chiếu. Việc làm này gọi là "thưởng". Rồi cứ thế, tiếp tục với những đoạn khóc hộ như: Cha ơi! các anh các chị vuông tròn Đời con rách nát, mỏi mòn cha không hay Hoặc: Bây giờ hồn thác không còn Thì thím trông cậy vào ai bây giờ…? Lại như: Cây rầu rầu, cỏ rầu rầu Chú đi đê nhớ, để sầu cho ai? Hoặc: Ai làm cho phấn xa hương Cho duyên lìa phấn, cho tôi mất chồng v.v… Trời đã về khuya, phường kèn rúc lên hồi kèn "Tế vong" rồi xin ra về. Nhà đám đưa chân phường ra ngoài ngõ, biếu phường một số tiền lót tay, nói lời cảm ơn, biếu phường 1 chân giò, một đĩa xôi và một nải chuối. Tất cả những thứ này được cậu bé đi theo học nghề cho vào tay nải.

Đến đây, tôi phải kể về một ông trùm phường kèn. Tên ông là Kha, là con người phiêu bạt, đi theo phường kèn của cha từ năm còn 8 tuổi. Đến năm 20 tuổi, ông đã là một cây kèn nổi tiếng. Ông có mặt trong hầu hết các đám tang của cả vùng Bưởi, vùng Từ Liêm. Ông là người rất hiểu đời, thông cảm với những cảnh đời khác nhau và rất lịch lãm. Sau đó ít lâu, người các tỉnh khác phải mời ông về, dạy cho một vài miếng độc về nhạc hiếu. Gọi là những "miếng" để đời. Tiếng kèn của ông đã trở nên vô địch. Đám nào mời được ông đến là một điều vinh hạnh. Lúc này, người ta gọi ông là ông chân Kha. Tại sao vậy? Tại ông có 9 vợ, ông đi đến đâu cũng có người xin tình nguyện làm vợ ông. Ông mỉm cười: "Thì… duyên phận phải chiều ông đến thổi kèn ở làng nào thì ở lại với bà vợ ở làng đó vài ngày. Sau đó, lại phiêu lưu đến làng khác. Cứ thế… đến lúc ông chừng 60 tuổi, ông thường sai các học trò của ông đi nhận đám. Còn ông, ông ở nhà để dạy những người đến xin học kèn ở mức độ cao. Những năm 1957 - 1960, tôi được biết một số nhạc công trong mấy đoàn nghệ thuật và ca nhạc Trung ương cũng như địa phương đến học ông. Đến năm 1994, ông đã 80 tuổi. Nhưng ông còn tỉnh táo và nhanh nhẹn. Hồi đó, bà dì tôi mất. Bà là người đàn bà khổ, tận tình giúp đỡ tất cả mọi người trong họ và coi đó là hạnh phúc của mình. Bà không có chồng.
Tôi có đặc ân mời được chính ông dẫn phường đến “thổi”cho đám ma của dì tôi. Suốt hai đêm liền, phường bát âm có tiếng kèn của ông chín Kha đã làm cho cả khu xóm Ao Ngang của chúng tôi không một ai ngủ cả. Họ thích nghe tiếng kèn của ông chín Kha… Giờ đây, ông đã là người thiên cổ. Ông để lại cho cuộc đời 11 người con và cháu là những nhạc công tài hoa và nổi tiếng. Còn học trò của ông thì đếm không xuể. Thiết nghĩ, nhạc hiếu của ta cũng là một mảng quan trọng trong kho tàng âm nhạc Việt nam. Chúng tôi đã từng nghe và để ý đến những nhạc đám, những musique, funébre, những funerailles của phương Tây và nhạc hiếu của Trung Quốc. Thiết nghĩ, giới âm nhạc của nước ta cần phải chú ý hơn nữa đến mảng nhạc hiếu. Nó cũng rất xứng đáng nếu không muốn nói nó có thể làm lung lay giới âm nhạc quốc tế…
 
CHẦU Ả ĐÀO CUỐI NĂM

Đó là chuyện của Hà Nội những năm trước kia. Sau ngày tiễn ông Táo lên chầu giời, nhiều nhà hát ở phố Khâm Thiên rộn ràng, nhộn nhịp hẳn lên. Các nhà hát được gọi theo tiếng lóng là: Nhà sang, nhà phố, nhà phường. Loại "Nhà sang" là mấy nhà hát sang trọng nhất, khách là những người có "phương diện", các quan chức sắc, quan tham, quan phán, nhà báo, kẻ sỹ, kẻ giang hồ cao cấp hoặc lữ thứ, khách có chữ nghĩa nhiều. Khách của "nhà phố" là khách hang trung lưu. Còn "nhà phường" là nhà hát bình dân gọi là khách tứ xứ, thập thành. Ở những nhà hát loại sang, các nàng ai nấy đều ăn diện sang hơn hẳn mọi ngày. Những kiểu quần áo mới được đưa ra. Trang điểm cũng rất kỹ. Có cả những cô em thuộc lớp "ca-valie" đăng xinh (gái nhảy đầm) về giúp thêm việc trang điểm. Các nàng đón các ông anh, các bạn ra vào rầm rập suốt ngày để hát một chầu tất niên. Bằng nhiều hình thức khác nhau. Các vị khách đã tặng cho các cô em mà mình "say" hoặc có cảm tình những tăng vật đắt tiền hoặc một số tiền đủ để các em “chu toàn" cho cả mùa xuân. Ở góc này, người ta hát: Ai cầu phong, mà gió tự đâu sang Hay mải khách văn chương tìm kết bạn… Tom tom tom - chát… Ở một góc khác, một khách một nàng ngồi bên nhau trên ghế ngựa.
Chàng là thi sĩ, nắm lấy tay nàng, nhìn nàng đắm đuối và ngâm lên: Ôi mắt xa xôi, mắt ly kỳ Ta trông thấy cả trời ta mơ ước Thấy bóng cả vầng đông thuở trước Cả con đường sao sáng lúc ta đi Cả đường mây bao phủ lối ta về… Người ta hát ở trên gác mấy câu trong bài "Tống biệt" sao mà buồn thế: Lá đào rắc lối Thiên Thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh Một phút trân ai Đá mòn rêu nhạt Cửa động Đầu non Đường lôi cũ… Ngàn năm ngơ ngân bóng trăng chơi! Cô gái ngồi với chàng thi sĩ là một người đẹp đã lên bìa của mấy số báo Tết ở Hà Nội. Có tiếng người khóc với nhau. Mọi người kháo nhau về việc ông tham Trác đưa cho nhà hát một số tiền lớn để chuộc đào Uyển về làm vợ. Nghe đâu ông ta đã tậu hẳn một ngôi nhà cho cô. Vài cô đào chuẩn bị về quê, khách yêu các cô theo kiểu yêu lắm, yêu vừa hoặc yêu lang thang của họ cũng nhắn điều chào gửi tới những người thân ở làng quê và gửi cho họ chút quà. Bữa hát tất niên gồm tất cả chừng 6, 7 vị khách thân quen hay lui tới nhà hát nhất gọi là khách Mạnh Thường Quân và tất cả các cô em cùng dự chung.Trước hết, bằng một bữa ăn thật sang mà các cô đều trổ hết tài ba ra để tổ chức bữa tiệc, cô Tuyên chuyên môn làm món yến, cô Lan món long tu, cô Đào món vây cá. Đó là những món chính. Còn vài món phụ do các cô em khác phụ trách. Nghệ thuật làm các món ăn của họ thật tuyệt vời, kiểu cách, cầu kỳ, đúng vị. Họ nấu ngon vào bậc nhất Hà Nội, chẳng kém đầu bếp của những nhà hàng nổi tiếng như Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh. Những món ăn thật ngon miệng và bày biện thật ngon mắt được bày đầy bàn.
Tuy vậy, mọi người đều chỉ nếm tí chút, nghĩa là ăn chơi bời. Họ chú ý nhiều đến việc tâm sự với nhau, nhìn nhau và hay nhau. Các món tráng miệng cũng đặc biệt. Họ bổ cam tách múi cũng nghệ thuật. Cách mời ăn cũng lịch sự, trân trọng, yêu quí và thân tình Một vài ông bạn tôi cho rằng các tiếp viên và các đầu bếp nữ ở các khách sạn ngày nay còn thua xa chị em Khâm Thiên ngày xưa. Sau bữa tiệc, ăn tráng miệng, rồi uống trà ướp hương nhài xong vào chầu hát tất niên… Chầu hát này rất đặc biệt, hai ba cô em vào loại có thể làm cho ai khó tính nhất cũng phải "nhào" và người đứng đắn nhất cũng phải lạc đường, cỡ như Đàm Mộng Hoàn trước đây và cụ Quách Thị Hồ bây giờ, thay nhau lên hát vài khổ tâm đắc nhất. Kép đàn phải đủ ngón, vừa bay bổng, vừa hào hoa. Người cầm chầu là người được phong là "Tư mã" mới được mời ra cầm roi chầu tất niên. Đến ngày mồng một Tết, nhà hát có cắm cành đào do chính một cô em có con mắt tinh đời lên tận Nhật Tân mua về. Chủ nhà và các cô em ăn mặc lộng lẫy, ra tận cửa đón vị khách quý đến “xông nhà" lấy may. Khi đến xông nhà, khách mang theo vài anh em, chủ nhà và các em mời khách ngồi uống trà thiết quan âm. Họ chúc nhau những lời tốt đẹp. Cô em đặt lên trên bàn một chiếc sáp sơn son thếp vàng có những ô nhỏ đựng các loại mứt ngũ vị. Khách đứng dậy đặt lên giữa chiếc tráp một phong bì hồng điều đựng số tiền hào phóng chừng cả tháng lương của một công chức loại trung bình. Khách còn phong bao cho các cô em mỗi người một số tiền có thể duy trì sinh hoạt trong tháng. Những người giúp việc, phu xe, bà bếp cũng được khách mở hàng.
Khi khách đến xông nhà ra về là lúc nhà hát mở cửa đón các quan khách vào xuân.
Khi đó tiếng pháo mới nổ.
 
NGHỆ THUẬT HÁT Ả ĐÀO

Chừng những năm 1940 - 1941, ở Khâm Thiên có nhiều nhà hát ả đào. Có hạng sang, thật sang, hạng giữa và bình dân… Lúc này, ở các nơi khác như Vặn Thái, Hai mươi bốn gian hoặc Ngã Tư Sở cũng có đủ mấy hạng như vậy, nhưng thưa thớt hơn nhiều mà cũng không có hạng thật sang dành cho các quan lớn từ tri phủ trở lên, các quan chức cao cấp vào làng Tây hoặc những tay giàu có thích chơi ngông. Loại sang thường dành cho những quan nhỏm các ông tham, ông phán, một số văn nghệ sĩ có gia đình buôn bán hoặc được nhờ cậy vào cha mẹ, anh em… Loại sang ở Khâm Thiên phải kể đến nhà hát của bà đốc Sao và của danh ca Đàm Mộng Hoàn. (Nữ ca sĩ này được các hãng thu đĩa hát Pathé, Asia, Columbia tranh nhau mời thu đĩa hát nên rất nổi tiếng về ngâm thơ, ca trù… Những đĩa hát của cô đã được phát hành khắp Việt nam, tại Hồng Kông và tại Pháp). Loại bình dân gồm đủ mọi thành phần khách thông tục hơn, nhưng cũng đậm nét cuộc đời hơn… Các nhà hát thường theo yêu cầu của khách mà tổ chức những chầu hát và chầu rượu. Có khi chầu hát kéo theo chầu rượu hoặc ngược lại.
Nhà hát thường có hai tầng. Tầng dưới dành cho hạng khách trung và bình dân. Tầng trên dành cho khách sang, được bố trí như ở những gia đình quan sang, quyền quý. Thường có một hai bức bình phong ngăn cách từng khoảnh. Ở chính giữa là một giá lộ bộ sáng quắc. Sập gụ, tủ chè đều khảm những chữ: phú, quý, thọ, khang ninh; những hình tượng con dơi và đồng tiền. Một bàn thờ có chiếc đỉnh đồng lớn, một lọ độc bình cổ và một bát hương lúc nào cũng có khói bay lên làm mây gió để giữ cái màu dĩ vãng, toả mùi thơm ngào ngạt và làm nên một bầu không khí mơ màng sương phủ. Trên tường cũng treo một vài bức tranh cổ và một bút thơ pháp với những nét chữ bay bổng để gây cảm hứng mạnh với những ai có chút lưu luyến đến chữ nghĩa và nghệ thuật.

Hôm ấy, nhà hát nhận được phong thư báo sẽ có 4 vị khách quý đến mở chầu rượu vui vào lúc 8 giờ tối… Khách đến trước giờ chừng 15 phút. Cậu Phán Ngôn ăn mặc sang trọng nhất. Cô Xuyến ra đỡ mũ, áo ngoài cho khách và vắt lên mắc áo. Các vị khách ngồi xuống mấy chiếc ghế gụ có mặt đá. Gian phòng vang lên: Tom tom tom, chát… Tưng tưng, tưng… Tiếng phách chảy tung tăng như nước suối. Cô Huệ hát lên: Ai cầu Phong, mà gió tự đâu sang! Hay mải khách văn chương… tìm kết bạn Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán Cánh chim bằng, chín vạn những chờ mong Nên chăng gió cũng chiều lòng… Chỉ là vài câu thôi, nhưng ca nhi, thầy đàn và người đánh trống chầu đều là những tay cự phách nên hay lắm. Nó ngân nga, trầm bổng, da diết. Nó mang theo chất thơ Đường, những đám mây lang thang xa xôi, ảo ảnh… Cậu Ngôn làm duyên với ông Bàn một bao thuốc Craven A. Ông đã khước từ canh hát ở nhà đầu phố để đến đánh đàn cho người tri kỷ. Đào Huệ được biếu chiếc khăn san Bombay. Mấy cô đào khác được mỗi người một tá khăn mặt mùi soa. Các cô còn có thể được nhận một chút tiền biếu. Nhưng nhận vào lúc không ai biết đến. Mọi người vào cuộc rượu đầy hân hoan, phấn khởi. Ông tham Trác ngâm mấy câu thơ say của Vũ Hoàng Chương rồi nâng chén chúc mừng sự gặp mặt, chúc mừng nhà hát. Các chị em đã thuộc tính từng người. Cậu Ngôn và ông Phán toà sứ được mời hai ly rượu Tây.
Còn hai vị khác dùng hai ly rượu Mai Quế Lộ… Các nàng hát ngồi bên cạnh các quan khách, rót rượu rất khéo rồi với hai bàn tay ngà, nhẹ nhàng đưa lên miệng khách: "Em dâng chàng… rượu trường sinh…". Uống xong, họ thưởng thức một vài miếng ngon trong bát bóng như miếng bóng thủ, thịt, tôm, rấm và chút nước dùng. Và cứ thế, vừa uống tràn vừa nếm nạp. Những món nhấm nháp này do các cô em lấy từ chiếc phạng sứ Giang Tây ra rồi để vào bát con, đưa đến cho khách. Các cô gái mời, giục khách ăn kẻo nguội. Họ phe phẩy cái quạt, quạt cho khách. Họ giới thiệu khéo cho khách để cho khách biết những món mình đang ăn được chế tạo bởi những bàn tay thân yêu. Những bàn tay ấy cũng nhắc nhở đến những bàn tay của người em gái, chị gái hoặc chính người mẹ thương yêu của khách.

- Nào… tất cả… ta cạn chén. Uống cho kỳ say…
Họ đứng lên, cụng ly rồi ngồi xuống cũng cụng ly. Họ bàn với nhau về những chuyện văn, thơ. Khen người này, chê người kia. Tâm đắc với những áng văn, thơ hay. Họ nói về Lý Thái Bạch, Tản Đà, Đỗ Phủ v.v… Họ nói đến những năm 1937 - 1938 là những năm được gọi là Hà Nội vàng son. Họ bàn lây cả sang hiệu may Tây Chu Mậu ở Hàng Trống, hiệu may áo dài Cát Tường ở ngã năm Bà Triệu và không quên nhắc đến cô em vợ của hoạ sĩ Cát Tường là cô Nga - Cát Tường. Rượu vào thêm, họ lại bàn sang sắc đẹp của cô Síu, cô Síu là em gái nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Lý Ngọc Hưng. Cô Síu đã là hoa khôi Hà Thành và nổi danh trong những chợ phiên Ki mét (Kermesse)…

Ông Phán toà sứ đọc một đoạn thơ của Huyền Kiêu viết về mấy vần thơ say của nhà thơ người Pháp là Paul Verlaine. Mọi người tán thưởng ông bằng cách mỗi người uống một ly rượu. Trong 4 người khách tối nay, có một người tên là Quy Anh cao dong dỏng, lịch thiệp, đẹp trai, là con nhà giàu, mọi người thúc giục mãi mà anh chưa lấy vợ Anh đã đỗ tú tài phần một rồi bỏ học, làm công việc kinh doanh. Anh rất rộng rãi và thích làm bạn với một số các nhà văn, nghệ sĩ. Anh rất say mê hát ả đào. Hôm nay, anh rất ít nói. Người ngồi sát cạnh anh là đào Ngân. Cô cũng không nói gì mà chỉ trông nom, săn sóc cho anh. Hai người luôn nhìn vào mắt nhau. Thỉnh thoảng họ lại cười với anh đắm đuối: “Đắm say rồi, Người ơi" như người quan họ bảo vậy. Đào Ngân hồn hậu và nghiêm trang, tươi tắn mà mơ màng. Nàng hát được rất nhiều loại: hát ru, hát hãm, hát ngâm ngồi. Qua bài " 36 thứ giọng" cô hát cả Bồng Mạc, Xa Mạc v.v… Lối nào cô cũng hát được rất hay, bay bổng, hàng huê, đầy cảm hứng… Đêm hôm nay, nàng không phải hát.

Bà chủ ăn mặc sang trọng và cầu kỳ, ra với mọi người. Bà chắp tay, nói: "Chúng ta có chầu rượu sau này mừng cho gặp nhau, mừng cho em Ngân về với cậu Quỳ. Mọi việc đã được dàn xếp tinh tươm. Để em Ngân đi… tôi thực tình đứt cả ruột. Con người này được cả mọi mặt. Nhưng thôi. Phải gạt nước mắt mà chia tay. Có gặp mặt, có chia tay… Tôi nể cậu Quỳ. Cậu đối với tôi rất đẹp… Vả lại, cũng la duyên phận phù sinh…". Cậu Quỳ đeo vào cổ đào Ngân một thiếc kiềng vàng rồi ngắm nghía. Lúc này những giọng hát cất lên, tiếng đàn phách, tiếng trống chầu vang lên. Bầu không khí trở nên xôn xao. Giai nhân nản trí đắc Chót yêu hoa… i…i nên dan díu với tình…" Mọi người lại uống rượu, mời nhau… Qua tiếng hát, qua những chén rượu, những lời trao đổi nhỏ nhẹ với nhau, vừa có chút vui vẻ tiễn đào Ngân đi theo chồng, vừa có vị ngậm ngùi kẻ ở người lại đi, vừa có sự suy nghĩ về những số phận. Biết đâu đào Ngân lại sẽ bước vào quãng đời “mưa gió” nào đó… Xưa nay, số phận mỏng manh của các ca nhi có mấy khi được vuông tròn? Mấy vị quan khách say rượu, nằm cả ra sập và đi văng cùng các cô đào ngồi cạnh chăm sóc. Cậu Quỳ dắt tay đào Ngân, gật đầu cúi chào mọi người ra khỏi cửa, đưa nàng về một góc phòng riêng ở một làng vùng Bưởi. Lúc đầu, người ta vẫn nghi ngờ về mối tình của cậu Quỳ với đào Ngân. Ai lại, một trai tân đẹp nõn, tài hoa như thế lại đi lấy vợ ả đào bao giờ. Nhưng khác hẳn với mọi lời dị nghị, xì xào, họ ăn ở với nhau thật đằm thắm và có với nhau 4 mặt con. Đến lúc mấy người con của họ đã thành gia thất rồi mà lúc nào họ cũng quấn quít bên nhau. Đi đâu cũng đi hai người. Mấy người trong làng trông thấy, họ liền nháy nhau: "Họ Tây quá đấy…"
***
Năm 1997, vào một buổi sáng mùa thu, do một sự giới thiệu nào đó, cô ca sĩ L.A đến nhờ tôi giải thích cho một số điều về hát quan họ và hát ca trù…Cô L.A cũng trên 40 tuổi rồi nhưng vẫn còn sắc sảo lắm. Và cô giống hệt như đào Ngân ngày xưa mà tôi biết. Trong khi giải thích cho cô, tôi nhắc nhiều đến làng Yên Thái ở Bưởi, cô liền hỏi:
- Bác biết rõ làng Yên Thái thế?
- Vì đó là làng tôi mà.
- Thế thì cháu hân hạnh được là đồng hương với bác… Nhà cháu ở cuối làng. Nhưng đó là ngày xưa. Bây giờ, chừng một tháng cháu mới về làng một lần. Cháu có người anh chơi đàn dân tộc cho đoàn X, hai cháu gái là ca sĩ trong hai đoàn nghệ thuật. Cháu là em út, hát đủ loại nào ca trù, nào quan họ và cả nhạc mới.
- Cháu là… Cháu là con của bố Quỳ và mẹ Ngân cháu. Bố mẹ cháu đã mất cả rồi…
- À tôi biết… Tôi biết… ông Quỳ… bà Ngân.
Trước đây, tôi không thể nào tả hết được cái đẹp trong những tiếng hát xuất thần của đào Ngân. Tôi cứ tiếc mãi sợ chúng mất đi. Nhưng không, chúng được những người con lớp sau đón nhận. Chẳng hạn như L.A và rất nhiều người yêu mến chúng, làm tươi trẻ lại những tinh hoa tươi đẹp của chúng. Những tiếng hát hay truyền từ đời xưa, đã được gieo vào cuộc đời, vào những thế hệ thính giả, diễn viên nối tiếp để họ nhận lấy và tiếp nối mong mỏi giữ lại nét nghệ thuật độc đáo và đặc sắc của văn hoá Việt nam.
 
SỐNG CHẾT VỚI NGHỀ DIỄN

Ông Sỹ Tiến là một diễn viên kiêm thầy tuồng đã có nhiều vai diễn làm cho mọi người còn nhớ mãi. Với những vai như Quan Công, Chu Du, An Lộc Sơn thì cho đến bây giờ, chưa ai sánh được với ông. Là một nhà soạn vở, nghiên cứu sân khấu, ông đã soạn chừng hơn 40 vở cải lương cho diễn khắp trong nước và nước ngoài. Trong đó có chừng 10 vở rất nổi tiếng và có sức sống lâu dài. Ông dâng hiến cho sự nghiệp sân khấu từ năm lên 9 tuổi cho đến khi nhắm mắt. Ông đã đi diễn ở nhiều nơi, khắp Trung, Nam, Bắc. Trong làng cải lương, ông đã có một vị trí không gì thay thế được trong lòng khán giả và đồng nghiệp. Người ta gọi ông làcon chim đầu đàn hoặc hoàng tử của cải lương. Dạo đó, ông nằm trên giường bệnh đã gần một năm trời. Ông đã yếu rồi. Đi đâu cũng phải có người dìu, ăn phải có người bón. Trí nhớ giảm sút nhiều. Chị Kim Chung vừa mới đi diễn ở Pháp về, đến chào ông và chuyển lời cám ơn của anh em kiều bào bên Pháp tới ông. Họ đã diễn hai vở cải lương do ông viết là Mạc Tuyết Lan và Huyền Trân công chúa. Người xem chen nhau đến quá đông. Cả hai vở đều được hoan nghênh nhiệt hệt… ông đứng dậy, cố huy động tất cả mọi khả năng còn lại, cất tiếng hát. Ông hát liền mấy đoạn hay nhất trong vở Mạc Tuyết Lan làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên và bất ngờ. Vì sao ông có thể nhớ và hát hay đến như thế Trên gò má con người phiêu bạt ấy giàn giụa nước mắt. Trong ông run rẩy một tình yêu đằm thắm và nỗi khao khát không nguôi. Mọi người trong gia đình khuyên ông nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Ông còn đọc thêm một vài lời đối thoại giữa Phan Tất Chánh và "Trần Diệu Thường (vở Phan Trần) rồi mới chịu ngồi xuống. Ngày hôm sau, ông phải đi bệnh viện. Ông bị hôn mê liền trong mấy ngày rồi qua đời ngày 17 - 1 - 1982. Còn phải nói thêm: Đời ông đã no đủ mùi đói rách. Nghệ nhân Tư Liên là ông trùm một gánh chèo của chiếu chèo Hưng Yên. Ông đã tung hoành nhiều năm khắp mọi chiếu chèo quanh vùng châu thổ sông Hồng. Bất cứ một gánh chèo nào cũng năn ai ông đến tham gia, giúp đỡ. Những người trong làng chèo không ai là không biết ông. Đến lúc tuổi đã cao, ông vẫn diễn và còn truyền nghề cho các lớp trẻ không biết mệt mỏi. Đến khi không thể diễn được nữa, ông cũng không chịu vắng mặt trong các đêm diễn. Những lúc này, ông ngồi sau cánh gà để được đắm mình vào cái không khí tưng bừng của sân khấu, để nghe hát, xem diễn. Những cái đó là thức ăn của ông. Khi vở chèo kết thúc, ông mới lững thững, chống gậy về nhà. Một lần, sau một đêm diễn hay, mọi người ra về được một lúc khá lâu. Sân khấu chẳng còn một ai, gia đình không thấy ông trở về Mọi người nhớn nhác đi tìm thì thấy ông nằm trên sàn, sau cánh gà. Ông từ giã cõi đời nhẹ nhàng như ngủ trong âm vang và màu sắc của đêm chèo. Hoàng Anh là nghệ sĩ cải lương, chủ soái của đoàn cải lương Phương Đôngquang cho đoàn từ những năm 1956 - 1983. Nhân dân Hải Phòng và các vùng lân cận đều mến mộ ông, thích nghe chuyện về người diễn viên rất có duyên này. Có những người chỉ cần vào rạp nghe ông đổ một vài câu vọng cổ là mãn nguyện rồi. Hoàng Anh đã đóng góp nhiều vai có tâm trạng khác nhau mà đều thành công cả, đều để lại dấu ấn trong người xem với tình cảm hàm súc, sinh động, trữ tình. Ông đã rất thành công trong nhân vật cụ Hồng (Lò lửa diệt Tần), Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), ông già họ Trần (Hội sóng Bạch Đằng), ông Nhân (Tiền và Nghĩa)… Danh sách này còn kéo dài. Ông là một trong những nghệ sĩ hoàn hảo về ca cũng như về diễn xuất. Người ta gọi ông là Huỳnh Thái của Hải Phòng.

Ông mất vào tháng 3 năm 1983. Nằm trong linh cữu, ông được hoá trang, mang trang phục nguyên như trong vai ông Nhân trong vở " Tiền và Nghĩa" là nhân vật ông thường đóng và được hoan nghênh nhiều với hàng trăm xuất diễn liên tục. Tang lễ của ông được tổ chức ngay trong rạp. Người đến đông, kín chặt. Phía ngoài còn có chừng 800 - 900 người. Quần chúng, khán giả từ các nơi đổ về tiễn ông đều rưng rưng nước mắt, mang đến viếng ông là cả một rừng hoa. Các vị chức sắc của thành phố cũng đến tiễn ông. Một số lãnh đạo cao cấp ghé vai khiêng linh cữu của ông ra xe tang. Nhưng, một số quần chúng nhiệt tình ào đến, xô vào, yêu cầu để họ cũng được tham gia vào việc khiêng linh cữu của người diễn viên mà họ yêu mến. Linh cữu được đi thêm một đoạn đường gần 200 mét nữa rồi mới ra xe tang. Dòng người tiễn đưa ông dài hết phố Phan Bội Châu. Nghệ nhân Mầm là trùm gánh hát chèo Nguyên Xá (Thái Bình). Ông là diễn viên chèo nổi tiếng khắp các tỉnh, kể cả Hà Nội. Ông diễn chèo và chơi ác loại nhạc cụ tư khi còn rất nhỏ tuổi. Đến khi có tuổi, ông vân cố gắng có mặt trong cái đêm diễn. Ông sống trong không khí chèo cứ như cá trong nước. Một hôm, ông thấy trong người khác lắm. Ông trịnh trọng lấy hòm quần áo ra, đặt giữa nhà. Ông mặc quần trắng, áo đỏ, thắt lưng xanh, soi gương, vẽ râu rồi chít khăn lên đầu… ông nói lớn: "Này bà, đánh trống đề tôi ra vai ông Mãng"… Bà vợ ngạc nhiên đến hốt hoảng. Ông lại bảo: "Thì tôi bảo cứ gióng trống lên mà"… Thế là: tơ… rung… tung… tung… tung tung… tung a… ông Mầm chống gậy ra, ngâm: Nhà nhiều khách đến thường đem lại.:. Lộc trời luôn vật đến tay ta… Mấy cõi kiều già… Ông ngừng một lát rồi hát "! Lão say": Mấy cõi… i… kiều già Cuốn sơn làm mấy cõi i a… kiều già Điền xiên, sơn dã…t a là chủ nhân… Kỹ thuật hát của ông thật trọn vẹn: ngừng ngắt, lên, xuống, ngâm… đều tuyệt cả. Trạng thái say rượu trong cuộc sống không phải là đẹp đẽ gì. Nhưng nghệ nhân Mầm biểu diễn đã mỹ hoá. Nghệ thuật vừa sâu sắc vừa mở ra cho lòng người một trạng thái say sưa, vẫy gọi mỹ cảm trong khán giả. Vai lão say đã trình bày được cái tinh kèm theo một chút thô, cái đẹp kèm theo một chút không đẹp lắm của cuộc đời… Đã thấm mệt, ông lại nói đến: Và cha đây có mình con là gái Mà mẹ cha thì môi tuổi môi già Mong cho con có nụ, có hoa… Nhưng đến đây, ông bỗng thở gấp, khuỵ xuống, nằm ra chiếu. Ông ra đi mãi mãi. Cả gánh chèo hát lên mấy làn điệu chèo âm nhạc nổi lên sôi nổi và rầu rĩ rồi mới chuẩn bị việc tang ma theo di chúc của ông.
                                  HẾT

1 nhận xét: