Văn chương Truyện Kiều (6)
Phần thứ ba - Chương I - Chất thơ của Truyện Kiều
Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát hiện của cá tính nghệ
sĩ; nhưng cá tính nghệ sĩ không phải là tư tưởng hay tâm sự hay tính khí của
nghệ sĩ. Nói cá tính tức là nói đến cái đang vươn tới của tất cả con người nghệ
sĩ. Vươn tới nghĩa là ao ước một cái chưa có mà con người nghệ sĩ đang đòi hỏi.
Sở dĩ phải ao ước cái chưa có ấy là bởi nó không thể thực hiện được với độc lực
chủ quan của nghệ sĩ. Xã hội không cho phép nó thực hiện. Nó bị dồn xuống đáy
tâm hồn nghệ sĩ và luôn luôn yêu cầu được xuất hiện. Nghệ sĩ liền phải tạo ra
một trường hợp và một thế giới lý tưởng để cung điều kiện cho cái khát vọng kia
được biến thành hình hài cụ thể. Vì lẽ đó mà các nhà phê bình theo khoa tâm
phân bệnh học (psychanalyse) định nghĩa tác phẩm là “một khát vọng bị dồn ép
được thể hiện ra” (un “complexe” réalisé – Câu nói của Baudoin). Và nghệ sĩ là
một người mang trong ý thức mình cả một thế giới lý tưởng khác hẳn thế giới
thực tại. Như Oscar Wilde đã nói:
“Không có người nghệ sĩ chân chính nào lại nhìn nhận sự vật
y như ở thực tại; nếu hắn chỉ nhìn sự vật y như ở thực tại thì hắn không còn là
nghệ sĩ nữa”. Nhà thẩm mỹ học Lalo cũng chủ chương ý kiến ấy: “Nhiệm vụ của
nghệ thuật là sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng mà cái tính cách phải có
trước nhất là dù sao cũng không giống thực tại”. J. M. Guyau quả quyết cho
rằng: “Đặc tính của những bực thiên tài là có thể dự đoán được không sai nhầm
cái hình thái sinh hoạt của xã hội sắp tới, của xã hội lý tưởng”. Ông lại còn
viết: “Thiên tài là người luận trị về những khả năng của thực tại nhiều hơn là
thực tại. Tuy vậy, cái lý tưởng mà hắn quan niệm được dù không thuộc hẳn vào
thực tại hàng ngày chúng ta chạm trán thì thật ra cũng không ra ngoài phạm vi
những cái “có thể xẩy đến” mà chính chúng ta cũng thoáng nhìn thấy được”.
Vậy có thể nghiên cứu một tác phẩm mà biết được xu hướng
tinh thần và giá trị sáng tạo của tác giả. Nếu cái xu hướng đi tới của cá tính
nghệ sĩ mà sóng đôi với cái xu hướng đi tới của toàn thể xã hội thì giá trị
sáng tạo của nghệ sĩ là giá trị thuận tiến hóa phản chiếu được sức phát triển
biện chứng của lịch sử. Nếu xu hướng ấy chỉ cần ăn nhịp với xu hướng của một
đẳng cấp phản động đang cố níu bánh xe tiến hóa lại để hưởng lợi khiến toàn thể
xã hội bị khủng hoảng vì những hành động chủ quan của nó thì giá trị sáng tạo
của nghệ sĩ chỉ là một giá trị đẳng cấp và sẽ cùng đẳng cấp mà tiêu trầm. Theo
nguyên tắc này để khảo xét Truyện Kiều, ta sẽ khám phá ra được giá trị của nó và
của tác giả nó.
Những yếu tố nào đã cấu thành (elements constitutifs) giá
trị của Truyện Kiều?
Chữ “giá trị” dùng ở đây không có một nghĩa tán dương, phê
phán; chữ ấy dùng để chỉ những thuộc tính nội tại của một vật. Thuộc tính có
thể tốt mà cũng có thể xấu. Có một giá trị tiến hóa cũng như có một giá trị
phản động.
Yếu tố thứ nhất, yếu tố cơ bản làm nên Truyện Kiều là một ấn
tượng đậm đà về sự bị thua. Ai đọc Truyện Kiều đều phải nhận thấy như thế. Thúy
Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, đó là kể những vai chính – và bao nhiêu vai phụ khác
đều là những kẻ bị thua cả. Oanh liệt, ngang tàng, như Từ Hải mà cũng ngã gục
trên một thất bại nặng nhọc và đau xót. Tài có, sắc có, tình có, liều lĩnh có
như Thúy Kiều mà cũng lao đao lận đận mười năm trời “đem thân cho thiên hạ mua
cười”[1] khi thì bán phấn son cho khách chơi hoa,
khi thì “kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi”, rút cuộc còn giữ lại được một “mảnh
trinh” với người yêu sống âm thầm đau đớn với những kỷ niệm “sợi tơ mành theo
gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch”[2]. “Phong lưu tài mạo khác vời” như Kim
Trọng, giàu sang không thiếu, chung thủy có thừa mà bao nhiêu năm “tuôn châu
đòi trận, vò tơ trăm vòng” lúc gặp được người tình mong “vớt hương dưới
đất bẻ hoa cuối mùa” cũng không xong, đáng nhẽ chỉ còn “khăng khăng vớt lấy một
phần đuôi” (Yên Đổ) đóng vai chàng Tiêu hờ hững. Còn bao nhiêu trạng thái bị
thua khác nữa: Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà, Ưng, Khuyển, Mã Giám Sinh toàn những kẻ
ba lừa bẩy lọc suốt một kiếp chuyên đầu cơ cái khổ cái buồn của người khác để
sinh nhai, đã từng sum soe vì cầu cạnh, vênh váo vì thành công, tàn nhẫn khi
hành hạ. Mà rồi cũng đến “máu rơi thịt nát tan tành” để thỏa mãn một lòng ân
oán của Trời cao lồng lộng “Thúc sinh quen thói bốc trời” khuyên Kiều thì “trăm
nghìn hãy cứ trông vào một ta” mà đến lúc về nhà Hoạn Thư thấy Kiều bị đầy đọa
vào cảnh nô tỳ chỉ còn biết hồn lạc phách xiêu, giọt ngắn giọt dài lấy cái nhẽ
“thấp mưu thua trí đàn bà” mà giục Kiều “liệu đường cao chạy xa bay”. Hoạn Thư
thâm hiểm là thế, bầy kế lập mẹo khôn ngoan là thế, mới hôm nào:
Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời.
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời.
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Mà hôm khác đã khấu đầu dưới trướng van xin kẻ hoa nô cũ của
mình: “còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!”.
Ấy là chưa kể những cảnh bị thua không đáng chú ý mấy mà
cũng cộng vào cái toàn khối của Truyện Kiều; như: Thúc ông khi thấy con trai
lấy Kiều, nào là “phong lôi nổi trận bời bời” nào là “dạy cho má phấn lại về
lầu xanh”…, rồi đem Thúc Sinh và Kiều đến phủ đường; và quan phủ mới nghe lời
trình của Thúc ông đã ra uy mắng mỏ và sai đánh đập cái “tuồng hoa thải hương
thừa” mà sau chót lại phải cúi đầu trước một tài hoa về thi phú dẹp nỗi bất
bình để “kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao” tác thành cho đôi giai nhân
tài tử. Đến cả cái bóng ma của truyện là Đạm Tiên đinh ninh đón rước người đồng
phận ở Tiền Đường, mà cũng đến “mất công mười mấy năm thừa ở đây” nép mình chịu
thua cái “âm công cất một đồng cân cũng già” của cô kỹ nữ phận mỏng đức dày.
Toàn quyển truyện không phải chỉ “thủy chung lấy bốn chữ Tạo
Vật đố tài tóm cả một đời Thúy Kiều” như Mộng Liên Đường chủ nhân đã đề tựa.
Toàn quyển truyện là một chuỗi dài những sự bị thua, không phải của một mình
Thúy Kiều mà của tất cả các nhân vật. Từ trang đầu đến trang cuối, toát ra một
ấn tượng duy nhất: đó là ấn tượng chiến bại. Nguyễn Công Trứ đã phải viết: “Ai
oán nhẽ bốn dây văng vẳng, nỗi bất bình như khấp, như oán, như than…” để mệnh
tính cái cung điệu tỳ bà ở bến Tầm Dương. Cũng như tiếng tỳ bà, Truyện Kiều là
một tiếng đoạn trường!
Thế là do yếu tố chiến bại mà nứt ra yếu tố đoạn trường của
Truyện Kiều. Đã thua, đã thất bại đến phải đầu hàng, thất bại đến phải tiêu ma,
thì sao không đoạn trường cho được? Cả một tập thơ réo rắt có giống như điệu
đàn bạc mệnh của nàng Kiều:
Rằng hay thì thật là hay!
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
Truyện Kiều quả đã chứa đựng một trời sầu thảm và ai oán
không bờ bến.
Phê bình một thi sĩ lãng mạn Pháp cuối thế kỷ XIX. Ch.
Guérin (1873 - 1907) nhà văn học sử G. Lanson đã hạ những lời dưới đây:
“Guérin là một thi sĩ thuần túy, giản dị, sâu sắc, từ ái,
lòng lúc nào cũng nồng cháy những cảm xúc, không đủ sức để chịu đựng trọng lực
của cuộc sống, rút cục sa hẳn vào một trạng thái sầu muộn âm thầm không phương
cứu chữa. Thi sĩ cũng muốn ca tụng sự sống, ca tụng sức mạnh, ca tụng sự hy
vọng, nhưng vô ích, bao nhiêu câu thơ của ông chỉ phô diễn toàn những thất
vọng, bất lực, chết chóc, và cái ý thức sáng suốt về sự thống khổ của ông. Đã
có người nhận xét một cách tinh vi rằng bao nhiêu ngày của ông đều là những
buổi chiều; tôi muốn nói thêm: bao nhiêu mùa của ông toàn là những mùa thu.
Những cái gì héo lụi, tàn vong trong vũ trụ là những cái ăn nhịp nhất với tâm
hồn ông“. (Histoire de la littérature francaise, tr. 1138).
Lời phê bình này, ta có thể gửi vào Nguyễn Du, vào Truyện
Kiều mà không cần phải sửa đổi – trừ ra cái thời gian và không gian khác nhau
của hai thi sĩ. Ta cũng có thể bắt chước lối nhận xét của Lanson về Guérin mà
nói rằng: bao nhiêu cảnh lồng khung cuộc sống trong Truyện Kiều đều là những
chiều tà, những đêm trăng u uất, những cái gì tịch liêu hoang phế.
Cảnh vật đầu tiên trong đó thi sĩ cho xuất hiện những vai
trò căn bản của tập Đoạn trường là một cảnh chiều:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh…
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh…
Trong cái chiều tà nao nao những linh cảm ấy, thi nhân lặng
lẽ đặt một “nấm mồ vô chủ” bên lề mùa xuân của nàng Kiều. “Ngọn cỏ nửa vàng nửa
xanh” mọc dầu dầu trên mô đất vắng tanh hương khói là một cái gì gắt gỏng, nhăn
nhó, héo hắt giữa khung cảnh “cỏ non xanh tận chân trời” và “thoi vàng vó rắc,
tro tiền giấy bay” bên trong cái thế giới xuân tấp nập vui tươi này bỗng hiện
lên một thế giới u tịch, lạnh lùng, khác nào tiếng vồ đập sáng của vợ thầy
Trang Tử vẳng lên ai oán giữa tiệc mây mưa của trăng xuân mộng. Đó là một câu
thách xót xa nhưng ngạo nghễ của sự chết chóc, liệng mạnh vào một vũ trụ chan
hòa sức sống.
Ở cái tương quan khủng khiếp ấy (cái sống đặt cạnh cái chết,
mùa xuân đặt cạnh chiều tà) nứt ra, rên rỉ một chuỗi nước mắt, một chuỗi thơ
viếng mộ, một lời cầu nguyện rì rầm và một bóng ma – bóng ma, hiện lên nhờ một
hành vi cảm đồng tình (acte de sympathie) của nàng Kiều. Rồi giữa trạng thái
thông cảm với sự chết ấy, bàn tay gân guốc và run rẩy của thi nhân lại âm thầm
gieo xuống một chất sống tha thiết, mạnh nhất như để làm một cái câu thách của
mùa xuân trao trả lại nấm mồ: thi nhân gieo xuống đây một tình yêu! – tình yêu
từ xa xăm tiến dần đến thực tại, tình yêu được báo hiệu bằng một tiếng nhạc
vàng!
“Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần, trông chừng thấy
một văn nhân” sức sống lại hiện lên để xua đuổi cái chết. Tình yêu trùm lấp cả
một chiều yên lặng: “bóng tà như giục cơn buồn… ” cuộn tròn yêu đương trong cái
buồn não thướt tha bên cầu tơ liễu. Hy vọng hay tuyệt vọng? Chất sống nở trong
không khí ủ rũ kia sẽ đâm bông nẩy trái hay sẽ nửa chừng xuân, thoắt… Một thắc
mắc cấu rứt bốc ra ở cái trạng thái tiêu muối ấy.
Mùa xuân - của người sống hay của người chết? – vàng vó, tro
tiền, nấm mồ, khóc lóc, cầu nguyện, bóng ma, nhạc vàng, ngựa trắng, tình yêu,
buồn tha thướt… bấy nhiêu vật liệu thi nhân đã hái lượm của mọi thế giới rồi
thu vào thành một tương quan mầu sắc phản nhau rùng rợn, làm ra cái sầu muộn
não nùng của khúc đầu truyện đoạn trường. Cái sầu muộn ấy sẽ kéo lê thê tấm màn
đen của nó suốt cả một dọc đời những kẻ bị cuốn hút vào phạm vi sáng tạo của
thi nhân.
Tấm màn đen phủ lên buổi chiều thanh minh chưa đoạn thì nó
đã vươn tay chụp lên giấc mộng nặng nề của nàng Kiều, khiến cho tấm “gương nga
chênh chếch dòm song” vừa mới đùa rỡn với ngọn hải đường nặng trĩu giọt sương
trước cửa sổ buồng khuê, vụt một cái, đã mờ đi, tối đi, để ả “tiểu kiều” ở mái
tây hiên có cơ hội dâng cuốn sổ đoạn trường, cho bàn“tay tiên” vùng vẫy mười
khúc“cẩm tâm, tú khẩu” ghi tên tuổi trong cuộc đời “bạc mệnh”. Chợt lúc“gió đâu
sịch bức mành mành” nàng Kiều bừng mắt, “giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn
nguyên vẫn gỡ chưa rồi[3], thấy hiên tà giắc bóng nghiêng nghiêng”[4] thì mới biết trong có một đêm trăng đời
mình đã tạc đến xương cốt “cái nợ sầu của hai chữ tài tình”. Nhà thi sĩ Chu
Mạnh Trinh, bẩy tám chục năm sau, đọc đến chép miệng thở dài: “Truyện đời khéo
lắm trò quanh quẩn!” (Tựa - Truyện Kiều).
Buổi chiều và đêm trăng đó là hai bề dọc ngang của thế giới
Truyện Kiều. Ta đã gặp phải hai bề ấy ngay khi ta đặt chân vào ngưỡng cửa nó.
Suốt cuốn Đoạn trường, các bạn sẽ vẫn đụng phải hai bề ngang dọc ấy. Kim Trọng
“bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, nhớ nơi kỳ ngộ vội rời chân đi” cũng là “đi”
vào một buổi hoàng hôn; “gió chiều như gợi cơn sầu” – gió ấy thổi chàng sang
nẻo Lam Kiều để chàng đi sâu vào vận mệnh của giống đa tình. Rồi đến cái phút trung
tâm của đời Kiều, của Truyện Kiều, phút “cửa ngoài vội rủ rèm the” nàng “săm
săm băng lối vườn khuya một mình”, phút ấy cũng có bóng trăng đồng lõa: “nhặt
thưa gương giọt đầu cành…”. Suốt đêm trăng ấy uống rượu, gẩy đàn, thề thốt,
nàng Kiều đã cùng bóng trăng vằng vặc mà nhai gấu ghiến trái tim và cuộc đời
mình. Vầng đông vừa đứng ngay nóc nhà thì một bàn tay độc ác đã lùa vào cái vũ
trụ yêu đương ấy một lưỡi dao tàn nhẫn: “mối sầu bẻ nửa, bước đường chia hai”
là bắt đầu sự phân lìa, sự rã rời. Mối tình nở ra, một buổi chiều, cạnh một nấm
mồ, sau một tiếng khóc, đâm nhánh thứ nhất trong một đêm trăng ghi tên vào sổ
đoạn trường, đâm nhánh thứ hai trong một đêm trăng hiện tin tang tóc - mối tình
ấy đã vỡ!
Một mình nàng ngọc đèn khuya,
Áo đầm giọt lệ tóc se mối sầu.
Áo đầm giọt lệ tóc se mối sầu.
Nàng Kiều đã cắt đứt nó để nối cái duyên lỡ làng của mình
sang đời người em gái hiền lành và để rơi vào tay họ Mã. Và sau đấy ít lâu,
cũng lại một đêm trăng nữa, bóng Hằng Nga soi đường cho nàng đi trốn với Sở
Khanh:
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
Trăng đang chiếu xuống “lối mòn cỏ nhạt mầu sương”, thì
tiếng gà đã gáy xào xạc: nàng Kiều ngã vào cặp nanh vuốt hung hăng của Tú Bà.
Sau khi “uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa”, nàng đành xin chừa tấm lòng trinh
bạch để “lấy thân mà trả nợ đời cho xong”.
Ôi! Đêm trăng! Đêm trăng đã chứng giám lời thệ hải minh sơn
ngày năm nọ nay đã đánh lừa cái trinh bạch của nàng Kiều tàn nhẫn đến thế là
cùng! Vẫn đêm trăng, không bao lâu nữa, sẽ giúp bọn Khuyển Ưng bắt cóc nàng
Kiều đem về cho Hoạn Thư. Lại đêm trăng ấy – đêm thu! – đã đồng đảng với Kiều
giúp nàng gói chuông vàng khánh bạc “cất mình qua ngọn tường hoa, lần đường
theo bóng trăng tà về tây”. Và vẫn lại một đêm trăng: “một mình cay đắng trăm
đường”, cái con người đã bị cuộc đời chà đạp tới hồi kia ngồi ủ rũ trên mui
thuyền lướt trên dòng nước Tiền Đường, xót xa nghĩ đến việc đem tấm thân bạc
mệnh của mình phó cho hàm cá. “Mảnh trăng đã gác non đoài, một mình luống những
đứng ngồi chưa xong”, nàng Kiều khêu gọn đèn tàn, thảo thiên tuyệt bút, lặng lẽ
mở rèm châu đứng nhìn “trời cao sông rộng một mầu bao la” rồi không lưỡng lự,
không thương tiếc: “Trông vời con nước mênh mông. Đem mình gieo xuống giữa dòng
Tràng-giang!” – Cái bao la của đêm khuya, của ánh trăng, cái mênh mông của sông
nước Tiền Đường đã nuốt vào trong nó cái sầu bao la, cái oán hận mênh mông của
một kiếp người!
Những đêm là đêm! Những trăng là trăng! Khúc đàn bạc mệnh
của đời Kiều đã réo rắt nỉ non qua bao nhiêu là đêm, là trăng!
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
Khéo lẩn thẩn thay câu hỏi của viên Tổng-đốc trọng thần Hồ
Tôn Hiến! Ở đâu? Còn ở đâu gẩy ra được khúc đàn “muôn oán nghìn sầu” nếu không
ở sự thất bại cuối cùng của một hy vọng cuối cùng?
Ngỡ là phú quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương?
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương?
Kiều đã bị thua, Từ Hải đã bị thua. Thì
Một cung gió tủi mưa sầu,
Bốn giây giỏ máu năm đầu ngón tay.
Bốn giây giỏ máu năm đầu ngón tay.
chỉ là một âm thanh tất nhiên phải nẩy ra. Đó là tiếng khóc
tiếng rên của những người chiến bại! Đó cũng là tiếng khóc tiếng rên của mọi
cuộc đời chiến bại trong tập Đoạn trường - những cuộc đời kết toàn bằng buổi
chiều, bằng đêm, bằng trăng, bằng nước mắt.
Thất bại, sầu oán: đó là chất sống thảm thiết của những cuộc
đời “đêm trăng” ấy. Chất sống đó đã làm ra chất thơ của Truyện Kiều. Trên cái
nền tảng này, Nguyễn Du đã kiến thiết cả một lâu đài hình thức (lời, âm điệu,
trạng thái, tâm lý, màu sắc… ) thích hợp với nó: “chất thơ” đã quy định cấu tạo
hình thức của Truyện Kiều. Ta thử xem sự quy định ấy được thực hiện ra sao.
Chương II - Vật liệu “nên thơ” trong Truyện Kiều
Chất chiến bại và sầu oán của Truyện Kiều - chất thơ - được
cụ thể hóa ra là nhờ có những vật liệu đồng một thuộc tính với nó. Vật liệu ấy
gồm có:
1. Cảnh tự nhiên
2. Cảnh sinh hoạt xã hội
3. Trạng thái tâm lý.
Trong ba thứ vật liệu đó, cảnh sinh hoạt xã hội là nền tảng.
Cuộc sinh hoạt xã hội đã tạo cho con người những trạng thái tâm lý cùng tính
chất với nó và do đấy tạo cho con người một cách nhận thức và biểu tượng cảnh
tự nhiên phù hợp với những trạng thái tâm lý kia. Mỗi nghệ sĩ mang nặng trong
tâm hồn cái chất thơ như của Truyện Kiều muốn biểu hiện nó ra mà không gặp được
một loại “trạng thái tâm lý” và một loại “cảnh tự nhiên” khả dĩ giúp được chất
thơ đó biến ra “những cuộc sống” thì sẽ phải bó tay chịu bất lực ôm mối hận bị
dồn ép trong lòng mãi mãi để đợi ngày gặp miếng đất thuận tiện. Sở dĩ Truyện
Kiều biểu hiện được chất thơ kia là bởi có một hoàn cảnh sinh hoạt xã hội nào
đó đã tạo ra cho con người những trạng thái tâm lý nào đó, khiến họ bàn cho
những buổi chiều và những đêm trăng một giá trị nào đó để làm nổi bật được chất
thơ ấy lên.
Hoàn cảnh sinh hoạt xã hội đó là chế độ phong kiến ở thời kỳ
khủng hoảng. Một đặc tính của xã hội phong kiến là trạng thái kinh tế nông
nghiệp tự nhiên của nó. Kinh tế tự nhiên tức là kỹ thuật sản xuất còn đơn giản,
yếu ớt chưa đủ năng lực để vận dụng những sức mạnh vật chất ở ngoại giới bắt
chúng phải phục tùng. Đời sống của con người trong trạng thái kinh tế ấy, bị
những sức mạnh tự nhiên uy hiếp, cản trở. Dậy với mặt trời, đi ngủ với mặt
trời, run sợ trước những trận nắng lớn, bão táp, nước, lụt bất ngờ… con người
sẽ lấy cuộc lao động nông nghiệp của mình để quan điểm sự vật và biểu tượng vũ
trụ. Mặt trời mọc tưng bừng, ấy là bắt đầu tấp nập chồng cầy, vợ cấy, con trâu
đi bừa. Mặt trời chếch bóng từ từ chìm vào chân mây, ấy là thu xếp công việc để
đắm mình trong cảnh tối tăm. Mặt trời là sức sống, là cái gì nở ra tươi đẹp.
Hoàng hôn là sự bắt đầu của cái gì tàn héo tiêu ma. Đêm là chết. Ánh trăng đêm
là ánh sáng của âm ty, của oan hồn. Lối nhận thức và quan niệm ấy chỉ phải có ở
một trạng thái kinh tế nông nghiệp và thủ công có tính tự nhiên. Muốn biểu hiện
sự tàn héo, sự chết chóc, sự ảm đạm, sự thua, sự buồn, thi sĩ sống trong một xã
hội nông nghiệp và thủ công, tất phải hình dung những trạng thái ý thức ấy bằng
những quan niệm của đoàn thể.
Không phải trong trạng thái sinh hoạt phong kiến chỉ có
những trạng thái ý thức tiêu cực ấy. Sức sống lành mạnh của những người cần lao
giúp cho họ có một quan niệm lạc quan về nhân sinh nên cuộc đời ý thức của họ
ít bị ám ảnh bởi những cảnh tự nhiên không liên lạc mật thiết với sự làm việc
của họ. Có và vun xới những trạng thái ý thức khô héo kia, đó là những con
người ký sinh không tham dự vào quá trình lao động sản xuất. Ở xã hội phong
kiến, đó là những nhà nho, những người ở đẳng cấp quan liêu sĩ phiệt. Sống nhàn
tản, bọn người ký sinh ấy chỉ có thể có được những trạng thái ý thức héo hắt,
cô liêu, vơ vẩn. Những “vật” hợp với tinh thần họ nhất là mây (vân cẩu) là
hoàng hôn, là đêm, là trăng thu, là lá vàng, là nước mênh mông, là con thuyền,
là bầu rượu túi thơ – tóm lại là tất cả những cái gì thiếu sinh khí tưng bừng,
những cái gì đang héo, đang suy bại. Sinh khí tưng bừng là của sự lao động cần
cù trong quá trình sản xuất, là của sự vật lộn với hoàn cảnh tự nhiên. Không
sản xuất, không vật lộn, chỉ ngồi yên mà hưởng thụ, bọn người ký sinh kia có
làm sao được một hệ thống tình cảm và ý thức niệm khỏe mạnh? Không có một hệ
thống tình cảm và ý thức niệm khỏe mạnh thì tất nhiên nhu cầu về hình thức, vẻ
đẹp - của họ chỉ có thể được thỏa mãn trong một hệ thống hình thức mà vật liệu
toàn những cái gì mong manh quệ kiệt - những cái gì mà các nghệ sĩ gọi là nên
thơ.
Những vật liệu đó còn ở cả cõi tâm lý con người nữa. Nếu ta
khảo sát đến cốt tính cơ bản của mọi tâm lý được mô tả trong Truyện Kiều, ta sẽ
thấy ngay rằng đó toàn là những tâm lý của những cuộc đời không dính dáng mảy
may đến quá trình sản xuất kinh tế. Một ông Vương ngoại, hai cô tiểu thư chỉ
biết sớm đàn địch tối thi ca, một chàng công tử văn nhân, vài ông quan, một vị
tướng làm giặc, một lũ lương manh (Sở Khanh, Mã Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh,
Khuyển Ưng), hai mẹ con Hoạn Thư (gia đình quý tộc), vài kẻ tu hành, một gã
“quen thói bốc rời”, một bóng ma: đó là tất cả những nhân vật của Truyện Kiều.
Phải chăng đó là những tâm hồn mạnh, chan chứa sinh lực? Phải chăng đó là những
người sản xuất trong cuộc sống kinh tế của xã hội? Hay đó chỉ là những con
trùng ăn bám vào xã hội, nhàn tản ưu du: Kẻ thì mượn thế giàu sang mà trụy lạc
cách này hay cách khác, kẻ thì năm lừa bảy lọc để cùng điều kiện cho sự trụy
lạc ấy. Toàn những tâm lý nhỏ nhen, nếu không độc ác thì ốm yếu, lần lượt xô
nhau kéo nhau quỳ phục dưới bàn chân sắt của trật tự phong kiến, của nho giáo,
- của triều đình - của cái mà Nguyễn Du gọi là nghiệp, là mệnh.
Đã thế, xã hội phong kiến ở thời Nguyễn Du – cũng giống như
ở thời Gia-Tĩnh triều Minh - lại đang bị dồn vào cảnh khủng hoảng trầm trệ.
Pháp luật không được kiêng nể, lương tâm không còn cấu rứt, tôn giáo đã bị mất
uy lực, luân lý chẳng được tuân theo. Bao nhiêu cảnh trong Truyện Kiều thuộc về
nhân sinh đều rút ở trạng thái xã hội đó ra. Có gia đình Vương viên ngoại nên
mới có cái tâm hồn của một nàng Kiều. Có thằng bán tơ, có viên quan bất chính,
có nạn mãi dâm công khai nên mới có cái hành vi “bán mình” và cái cảnh ngộ lấy
thân mà trả nợ đời của nàng Kiều. Có bọn người lạc ngũ như Thúc ông, Thúc sinh,
có ông quan tài hoa quý một bài thơ hơn cả lễ nghi nho giáo, có ả Hoạn Thư nuôi
trong nhà lũ Khuyển Ưng. Có lũ du côn này, Kiều mới đến nỗi ăn cắp chuông vàng
khánh bạc. Có được sự loạn ly mới có Từ Hải để Kiều được vinh quang một đời. Và
có tất cả những cái đó mới có sự đem nhau kéo nút đến chết phanh thây dưới ngọn
đao của họ Từ. Để rồi cái người dọc ngang trời đất này lại phải chết đứng giữa
trận tiền, trả cái nợ cuối cùng cho sự tôn ty phong kiến.
Một xã hội như thế, một đẳng cấp như thế, với những tâm lý
đó, cảnh sống đó, cách thưởng ngoạn thiên nhiên đó, lại gặp được một cá thể
sinh lý và tâm lý như của Tố Như – cũng ký sinh, cũng thất bại, cũng đầu hàng
chế độ, cũng hận mênh mông, sầu mênh mông – làm gì mà không sản ra được một tập
thơ như Đoạn trường tân thanh? Hoàn cảnh xã hội, trạng thái kinh tế đã quy định
ý thức của một đẳng cấp (nho) và một cá nhân (Nguyễn Du) ở đẳng cấp ấy. Ý thức
cá nhân này lại mượn của hoàn cảnh kia những cách biểu tượng, những vật liệu tự
nhiên và tâm lý hợp với nó, rồi cấu tạo ra một tác phẩm. Đó là quá trình sáng
tác của Truyện Kiều.
Nhưng có một cá tính rồi, có vật liệu rồi; lại còn phải có
một kỹ thuật nữa mới thể hiện được những cái ấy thành một hình thức. Cái chất
thuộc quyền chế tác của kỹ thuật, ở đây, là tiếng nói với tất cả những thuộc
tính và nội dung của nó. Chương sau ta thử xem Nguyễn Du đã dùng Việt-ngữ ra
sao để tạo ra được cơ cấu hình thức của Truyện Kiều.
Chương III - Cái đẹp của Truyện Kiều
Theo ý các nhà văn học xứ ta, đây mới là trung tâm của vấn
đề Truyện Kiều. Đây là cái đẹp của lời văn. Đây là những chữ thần tình, những
hình ảnh tuyệt diệu, những âm điệu thánh thót. Đây là những cái đẹp kỹ thuật,
tiêu chuẩn độc nhất để định giá Truyện Kiều. Ta cần phân tích cái đẹp ấy. Trước
hết, nói về cách cấu tạo những tương quan về biểu tượng, tức là cách dùng chữ,
dùng hình ảnh. Sau sẽ nói về cách cấu tạo những tương quan về âm điệu.
Tương quan là cái mối liên lạc giữa hai vật, hay hai hiện
tượng. Vật nằm trong một tương quan không còn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của
nó nữa mà phải khoác lấy một giá trị mới do sự gặp gỡ của nó với vật khác làm
nẩy nở ra. Một mầu xanh sẽ không còn là màu xanh nguyên vẹn khi họa sĩ đem đặt
nó cách nào đó bên cạnh những mầu đỏ, vàng, trắng. Các màu này biến cả thuộc
tính đi và khoác chung một tính mới do sự phối trí kia tạo nên. Sáng tác văn
chương tức là kiến thiết được những tương quan về vật liệu, về biểu tượng, về
tình cảm, về chữ, về âm thanh. Một tác phẩm là một hệ thống tương quan vậy (un
systême de rapports). Một nhà văn biệt tài là người có năng lực cấu tạo được
những tương quan mới bằng những yếu tố (vật chất và tinh thần) đang có trong
đời sống thực tại. Hắn là một nhà kiến trúc biết đem sắp đặt, phối hợp, cấu kết
những vật liệu mà cuộc sinh hoạt cùng cho hắn, để làm thành một tòa nhà. Có
điều khác là vật liệu của kiến trúc sư (vôi, đá, gạch, ngói) thì bất động còn
vật liệu của nhà văn thì có sinh hoạt nghĩa là luôn luôn biến thể. Nhà văn phải
đón được cái xu thế biến hóa của vật liệu mà sáng tác những tương quan; nếu
không, hắn sẽ chỉ tạo ra đươc những tương quan lỗi nhịp, lệch lạc, những tương
quan chết.
Sự biến hóa của những “vật liệu” kia không phải không tuân
theo những định luật đanh thép. Ở mỗi xã hội, trong mỗi giai đoạn lịch sử, chúng
lại biến hóa theo những quy luật riêng mà bổn phận nhà văn phải nhận thức được.
Nhà văn nào - hoặc nhờ sự tư tưởng công phu, hoặc nhờ sống nhiều kinh nghiệm
thiết thực – có ý thức được về quy luật tiến hóa của thời kỳ mình đang sống sẽ
có đủ điều kiện để “mô tả cuộc sống ở những trạng thái tinh túy của nó, mô tả
cái sinh thành lịch sử của nó”[5]. Thứ văn chương này sẽ “phản chiếu được
một cách sáng suốt cõi thực tại linh động”[6] và “biểu thị được xu hướng tiến triển
khách quan của xã hội”[7].
Những khí cụ độc nhất của nhà văn dùng để biểu hiện tâm hồn
mình và ý thức của thời đại, của đẳng cấp là từ ngữ. Hắn “nói” tất cả, “tả” tất
cả bằng từ ngữ - chỉ bằng từ ngữ. Cho nên những tương quan ý thức mà hắn định
cấu tạo ra bị từ ngữ quy định một phần rất lớn. Từ ngữ có hai yếu tố cấu thành:
một ý-nghĩa thuộc về sự biểu hiện của trí tuệ và một chất âm thanh thuộc về sự
xúc động của cảm tính. Thi sĩ là người kiến thiết được một cơ cấu về từ ngữ -
nghĩa là một hệ thống tương quan về âm thanh - để biểu diễn cái “điệu” của tâm
giới mình.
Ở chương trên, đã nói rõ về cách cấu tạo những tương quan về
ý tưởng, về tượng trưng, trong một tác phẩm. Chương này, diễn giải cách Nguyễn
Du cấu tạo những tương quan về âm thanh trong Truyện Kiều. Ta đã được biết chất
thơ là tinh túy của cá tính Nguyễn Du. Nó đã quy định quan niệm nhân sinh của
Nguyễn Du. Nó đã khiến Nguyễn Du tạo ra một kiến trúc cảnh trạng và ý thức làm
toàn bằng những cái hợp với nó (sự thất bại, sự đau đớn, sự đầu hàng, sự chết
chóc). Nó đã bắt Nguyễn Du sáng tác những tương quan về tượng trưng có thể biểu
hiện đúng cái yêu cầu của nó (buổi chiều, nấm mồ, đêm, trăng, tơ liễu…). Dưới
đây chúng ta sẽ thấy chất thơ ấy đã quy định rất nghiệt ngã cái phối trí những
âm thanh trong Truyện Kiều. Khi ta đã có một hình thức tư tưởng, và cảm xúc rõ
rệt thì tất nhiên ta phải đòi hỏi một hình thức kỹ thuật phù hợp với nó. Thí
dụ: nếu cuộc sống tình cảm và tư tưởng của ta đang bị đóng khung trong một hình
thức “tang tóc” (ta đang có người thân thích bị chết) thì một hình thức mầu sắc
hoặc một hình thức âm thanh không hợp với hình thức tình cảm ta lúc đó (một mầu
tươi quá hoặc một bản đàn vui quá chẳng hạn) sẽ bị chúng ta hắt hủi không thừa
nhận. Sở dĩ có cái nhu cầu về sự tương hợp đó là bởi ý thức của mỗi người chúng
ta là một khối, một hệ thống trong đó các yếu tố cấu thành phải sinh tồn theo
một điệu nhất trí. Mất sự nhất trí này ta sẽ là một người thăng bằng về thần
kinh hệ - một con bệnh.
Theo định luật vừa nói đến, văn pháp của một thi sĩ phải phù
hợp với cá tính hắn. Lối chọn chữ, dùng câu của thi sĩ theo một nhịp điệu âm
thanh nào đó đủ tố cáo nhịp điệu rung động của tâm hồn hắn. Nói như nhà văn hào
nọ:“le style c’est home même: văn tức là người” là công nhận rằng ý thức của
nhà văn quy định cách hành văn của hắn.
Ta thử xét xem trong Truyện Kiều, chất thơ của Nguyễn Du đã
quy định bút pháp của ông ra sao. Ai cũng biết rằng ông viết Truyện Kiều theo
thể thơ lục bát. Sao ông lại chọn lối phô diễn ấy? Nhiều người thường chủ
trương rằng thể lục bát là một điệu thơ thiên bẩm của người Việt Nam, một cách
biểu hiện tình cảm Việt Nam nhất, quốc tuý nhất. Nguyễn Du bởi tiêu biểu cho
quốc hồn nên đã vận dụng tiếng Việt bằng thể lục bát tuyệt diệu được đến thế.
Quan điểm này không hẳn đã đúng như mọi người vẫn đinh ninh
tin tưởng từ trước đến giờ. Không có cái điệu thơ thiên bẩm nào của nòi giống
Việt Nam cả. Điệu thơ lục bát cũng chỉ là một sản vật của lịch sử tiến hóa Việt
Nam. Nó là thành tựu theo cả một quá trình nặng nhọc, một quá trình bị những
điều kiện kiện lịch sử, xã hội quy định.
Điệu thơ, xét đến gốc, vốn chỉ mô phỏng nhịp điệu lao động
của những người chế tạo ra nó. Ta không biết người Việt Nam thời thái cổ đã
dùng đến thể thơ lục bát chưa. Chỉ biết rằng thể lục bát xuất hiện trong lịch
sử Việt Nam cũng chưa lâu gì cho lắm. Xét theo những đề tài của các câu ca dao
làm theo thể lục bát còn truyền khẩu lại thì thể thơ đó cũng mới thành hình vào
khoảng đồng thời với giai đoạn mở đầu sự độc lập của nước ta (thế kỷ X, XI)[8], và cũng đến nửa sau thế kỷ XIX, nó mới
thật hoàn hảo.
Điệu thơ đầu tiên của dân Việt Nam (lúc đã thành bộ lạc nông
nghiệp) là một điệu hát sống điệu ca hợp với nhịp lao động và nhịp ý thức của
con người trong quá trình sản xuất kinh tế. Như bài: “Lạy trời mưa xuống, lấy
nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, cho đầy nồi cơm” chẳng hạn là một bài ca có
điệu thơ tiêu biểu cho cả thời kỳ ấy. Nhịp điệu, ý nghĩa của bài đó đều có một
tính cách thong thả, giản dị, thô kệch. Nhà xã hội học sẽ còn nhận thấy ở nó
một tính cách “phù chú” nữa. Cả bài cất lên dóng một và ngắt từng nhịp rất
ngắn, rất mạnh (Lạy trời, mưa xuống, lấy nước, tôi uống…) nghe như một điệu phù
chú (incantation) mà con người cổ xưa thường dùng để “mời” hoặc “bắt” thế giới
tự nhiên phải thỏa mãn những yêu cầu của họ[9]. Những bài ca dao nào làm theo điệu ấy
đều toát ra một sức mạnh mọi rợ.
Trải qua hơn nghìn năm Bắc thuộc, dân Việt Nam tất nhiên
phải biến tính một cách bạo khắc. Bao nhiêu hình thức sinh hoạt, bao nhiêu hình
thức tình cảm và tư tưởng đều bị giam hãm trong một khuôn khổ “đô hộ” chật chội
ngột ngạt. Kết quả của sự giam hãm ấy là tinh thần của người Việt Nam bị cằn
cỗi chỉ phát triển luẩn quẩn trong những hình thức tình ý nghèo nàn, yếu đuối.
Điệu sống ý thức của dân tộc đã hạ xuống đến cùng bực ấy thì nhu cầu về hình
thức âm thanh, (nhạc, thơ) của dân tộc cũng phải ăn khớp với nó. Nghĩa là: nhu
cầu ấy thiên đến những trạng thái mềm yếu, lả lướt. Về cốt tính bi ai của Việt
nhạc, chúng ta đều đã nhận thấy, không cần phải đem chứng cớ ra nữa. Còn cốt
tính ẻo lả của Việt ngữ (kể về phương diện âm thanh) thì chưa mấy ai chú ý đến.
Nếu danh từ chỉ là những ký hiệu mà đoàn thể đặt ra để phô diễn các mối tình ý
do cuộc sống sản ra, mà cuộc sống đã chỉ sản ra những trạng thái tình cảm và tư
tưởng bạc nhược thì những “tiếng” của đoàn thể dùng để tự biểu hiện tất nhiên
cũng phải đồng một tính cách với cái nội dung mà nó chứa đựng: những tiếng ấy
phải mềm mại, mơ hồ, âm u. Và cái hệ thống “tiếng” đó cũng phải khoác một điệu
nhu mì, lướt thướt.
Cái thời gian Bắc thuộc dài đằng đẵng kia lại là thời gian
thành hình cái “quốc túy” của dân Việt Nam – cái dân tộc tính mà các nhà nghệ
sĩ duy tâm (kiểu Hoài Thanh) tưởng là cốt tính thiên bẩm, bất di bất dịch của
“nòi giống” Việt Nam. Trong thời gian ấy, nhu cầu về hình thức âm thanh của
người Việt Nam nổi dần lên cái nét chu vi quyết định của nó để thành “một bản
tính thứ hai” của dân tộc. Đoạn chót của quá trình tiến hóa đó là sự tạo ra
được thể thơ lục bát. Cũng như một phần lớn những cái “quốc túy” Việt Nam, điệu
thơ lục bát chỉ là sản phẩm của một trạng thái nô lệ của dân tộc trong một giai
đoạn lịch sử (thời Bắc thuộc). Đến khi được độc lập (từ thế kỷ XI trở đi) thì
người Việt Nam đã “đeo nặng” trong bản thể một cốt tính không lấy gì làm tốt
đẹp mà thời Bắc thuộc đã in sâu vào thớ thịt mạch máu của dân tộc.
Nếu ta xét kỹ đặc tính của âm điệu lối thơ lục bát, ta phải
nhận thấy ngay cốt cách ốm yếu của nó do một thời kỳ lịch sử của dân tộc đã đẻ
ra. Tiếng Việt vốn là một tiếng có giọng cao hạ, có tiếng bằng tiếng trắc phân
biệt. Một nhịp điệu thi ca Việt Nam chỉ là một hệ thống tương quan về tiếng
bằng tiếng trắc. Nghiên cứu đến nội dung của tiếng Việt, ta sẽ nhận thấy rằng
những tiếng bằng - đọc xuôi xuôi, thoai thoải, nhè nhẹ - là những tiếng mà
âm thanh dùng để chỉ mọi hình thức, mọi nhịp điệu mềm yếu, lả lướt, mơ hồ, bi
ai, tròn trĩnh, không có cạnh. Còn những tiếng trắc - đọc nghe gắt gỏng, khúc
khuỷu, sắc mắc – toàn là những tiếng mà âm thanh dùng để chỉ mọi hình thức, mọi
nhịp điệu rắn rỏi, vạm vỡ, gân guốc, hung hăng, cựa quậy, mạnh. Theo sự nhận
xét này ta đã có thể hiểu được thuộc tính của thể thơ lục bát. Các bạn cứ lấy
quyển Kiều giở ra mà đọc, mà ngâm, mà phân tách tiếng bằng tiếng trắc, thì các
bạn sẽ thấy rằng: bao giờ tiếng bằng cũng nhiều hơn tiếng trắc. Đoạn thơ lục
bát nào tuyệt diệu là đoạn thơ mà tiếng bằng hơn hẳn tiếng trắc một đầu một
với. Câu thơ lục bát nào mà du dương thánh thót ấy là tiếng bằng đã uy hiếp
tiếng trắc - nếu không phải là quân bình. Câu thơ lục bát mà tiếng trắc nhiều
hơn tiếng bằng là một sự bất kỳ (un accident) dùng đến rất hãn hữu để tả đến
những cái tự nó đã không thoải mái êm đềm (vó câu khấp khểnh, bánh xe gập
ghềnh). Suốt trong Truyện Kiều, cái định luật nền móng của âm hưởng lục bát là:
bằng nhiều hơn trắc.
Dưới dòng nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
hay:
Hải đường lả ngọn đông lân,
Hạt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Hạt sương gieo nặng cành xuân la đà.
hay:
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
hay:
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
Tất cả những “hòn ngọc” ấy của Truyện Kiều đều được cấu theo
định thức: “tiếng bằng nhiều hơn tiếng trắc” - định thức này đã làm ra sự
“thành đạt” tuyệt mỹ của điệu thơ lục bát. Vì thế nên đọc thơ Kiều, ta có cảm
tưởng ngồi trên một con thuyền êm đềm trôi xuôi theo dòng nước hiền lành đầy
những ánh trăng mát dịu của đêm thu; ta có cảm tưởng được vào một thế giới
trong đó cái gì cũng mong manh, mềm yếu, lả lướt, cái gì cũng như đang biến ra
chất khói, chất mây, cái gì cũng bay bổng nhẹ nhàng trên những cánh nhung của
mộng ảo. Đó là thế giới của chất thơ, của sầu muộn, của ai oán, của giấc mơ,
của tàn tạ. Âm điệu lục bát tiến đến chỗ tuyệt diệu là một âm điệu báo tin sự
diệt vong vậy. Không phải khả năng của âm điệu Việt ngữ chỉ có độc một thể thơ
lục bát. Sự vận dụng Việt ngữ theo thể cách khác, sự khai khẩn những khả năng
của Việt ngữ ngoài thể cách lục bát, cũng đã tạo ra được những tương quan âm
điệu khác (như các bài ca trù của Nguyễn Công Trứ, của Cao Bá Quát). Như vậy đủ
tỏ rằng điệu lục bát không phải là hình thức“độc quyền” của âm thanh Việt ngữ.
Việt ngữ chỉ là một cái rừng, Nguyễn Du chỉ là người khai khẩn có một khu mà
không khí và thuỷ tổ hợp với sức khỏe của ông hơn cả. Điệu lục bát hợp với
Nguyễn Du là bởi nó đủ điều kiện về âm điệu để biểu hiện chất thơ của tâm hồn
thi sĩ và phô diễn chất sầu, chất đêm, chất trăng, chất tuyệt vọng của Truyện
Kiều. Cá tính Nguyễn Du, tinh hoa của Truyện Kiều, âm điệu lục bát: những yếu
tố ấy đã khéo ăn nhịp với nhau rất tài tình để tạo nên cái Đẹp của Đoạn trường
tân thanh. Cái đẹp này kể ra cũng có thể gọi là một thứ “quốc túy” được vì nó
đã tiêu biểu được một hệ thống giá trị xã hội (về hình thức) mà đẳng cấp thống
trị đã công nhận, đã bảo vệ trong một thời kỳ lịch sử. Đó là cái đẹp của những
kẻ yếu, kẻ thua.
Trong cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều của tôi (đã xuất bản) có
câu: “Truyện Kiều chỉ là kết tinh của những cái suy nhược trong cốt tính Việt
Nam” (trang 338). Ở trang 42, tôi lại viết: “Một xã hội ốm, một đẳng cấp
ốm, một cá nhân ốm: tất cả Truyện Kiều là ở đó”. Tôi đã đến kết luận ấy sau khi
nghiên cứu cái ý thức hệ được biểu hiện trong Truyện Kiều. Lần này, nghiên cứu
cái hệ thống hình thức của Truyện Kiều, tôi vẫn lại thấy đi đến kết luận ấy. Ý
thức của nghệ sĩ quy định hình thức của tác phẩm thật là chật chịa. Tôi thành
thực hiến câu kết luận này cho sự suy nghĩ của những ai đã nhầm tưởng rằng giá
trị một tác phẩm chỉ là một giá trị kỹ thuật, một giá trị về hình thức.
(còn tiếp)
Nguồn: Văn chương Truyện Kiều. Khảo luận của Nguyễn
Bách Khoa (Trương Tửu). Tạp chí Văn mới, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội 1945.
Bản điện tử: talawas thực hiện.
Bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa