Từ những câu tục ngữ xưa
Hoài Nam
Những câu tục ngữ xưa – chứ không phải tục ngữ
hiện đại – nhưng hình như tính bất nhất và tính khôn vặt của người Việt được
phản ánh trong đó không xưa một chút nào. Nó vẫn vậy, tươi rói, sống động và
đặc biệt phổ biến trong lối suy nghĩ, lối ứng xử của người Việt ngày hôm nay.
Nếu có đủ sự hiểu biết, thời gian đầm mình trong
sách vở cũng như trong thực tế đời sống, và cả sự dũng cảm đương đầu với cái
khó, có lẽ người viết sẽ phải tính đến chuyện cho ra đời một công trình nghiên
cứu đồ sộ nhằm trả lời câu hỏi: tính cách/nhân cách văn hóa thực sự của người
Việt là gì? Tuy nhiên, tài vốn sơ trí vốn đoản, vả lại trong khuôn khổ của một
bài báo, thì đó là điều muôn lần bất khả. Vì thế, người viết sẽ tự giới hạn
công việc của mình chỉ ở một nội dung thôi, đó là “lẩy” ra một vài nét trội
(tôi sẽ học theo cách của tác giả Bá Dương khi ông viết cuốn Người Trung
Quốc xấu xí), nhưng trên cơ sở đọc kho tàng tục ngữ Việt Nam. Tại sao lại
tục ngữ? Trên bìa bốn cuốn Tục ngữ Việt Nam do Nguyễn Cừ biên soạn và
giới thiệu, có viết: “Tục ngữ là sản phẩm tinh thần tập thể của nhân dân
lao động. Đó là sự tổng kết cao nhất về kinh nghiệm sống, nhân sinh, ứng xử,
đạo đức và cả trong lao động sản xuất, dự báo thiên nhiên” (NXB Văn Học,
2008). Cách hiểu này không xa mấy so với những cách hiểu về tục ngữ trong các
công trình nghiên cứu, các giáo trình về văn học dân gian có uy tín (của Vũ
Ngọc Phan, Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Xuân Kính v.v...). Nó cho thấy
rằng, không gì khác, tục ngữ Việt vừa là túi khôn của người Việt, vừa là kết
tủa tâm tính, sắc thái tinh thần, diện mạo nhân cách của người Việt. Tục ngữ
Việt, có thể nói, chứa đựng trong nó những cái gì chung nhất, mang tính phổ
quát nhất, phản ánh rõ ràng nhất những nét đậm trong tính cách của người Việt.
Chân lý có một hay có nhiều?
Trước hết, phải nói tới tính bất nhất của người
Việt như nó được thể hiện qua kho tàng tục ngữ. Bất nhất có thể hiểu là sự lệch
pha, thậm chí là sự trái ngược, trong quan niệm, trong cách hành xử của con
người, dù vẫn là tình huống ấy, bối cảnh ấy, đối tượng được nói đến ấy. Khảo
sát/ đọc tục ngữ Việt Nam, không ít phen chúng ta sẽ phải “ngớ” người ra trước
những biến đổi – như một con tắc kè hoa – trong thái độ ứng xử của người Việt.
Hãy thử đặt câu “Một giọt máu đào hơn một ao nước lã” (hoặc câu “Họ
chín đời còn hơn người dưng”) bên cạnh câu “Bán anh em xa mua láng
giềng gần”. Hãy thử đặt câu “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”
bên cạnh câu “Đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ”. Hãy thử đặt câu “Hàng
xóm tối lửa tắt đèn” bên cạnh câu “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như
vại” v.v và v.v... Cặp thứ nhất: câu đầu khuyên người ta coi trọng những
mối quan hệ cộng đồng thân tộc, câu sau lại khuyên người ta coi trọng những mối
quan hệ cộng đồng xã hội. Cặp thứ hai: câu đầu nhấn mạnh vào tính độc lập, khả
năng tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình của mỗi thế hệ, câu sau lại nhấn mạnh
vào mối liên hệ nhân - quả trong hành động giữa các thế hệ. Cặp thứ ba thì mới
thật kỳ lạ làm sao: câu đầu dạy rằng hàng xóm láng giềng phải biết quan tâm
giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn cơ nhỡ, câu sau lại “xui” người ta mặc kệ nhau
lúc xảy ra chuyện! Tôi chỉ lấy ba ví dụ, thực tế thì chúng ta có thể “lẩy” ra
vô số ví dụ như vậy từ kho tàng tục ngữ Việt Nam, nhất là ở mảng tục ngữ về
quan hệ gia đình – xã hội. Đến mức thậm chí có thể khẳng định: ở mảng tục ngữ
này, nếu có một câu mang ý nghĩa A, thế nào cũng phải có một câu mang ý nghĩa
-A, như cực đối lập không thể thiếu của A! Nếu chúng ta quan niệm rằng mỗi câu
tục ngữ là một bài học về đạo đức hoặc ứng xử, hay nói cho mạnh mẽ hơn - một
chân lý, thì chẳng phải là các chân lý đang lớn tiếng cãi lộn nhau đó sao? Và,
điều này có nhiều khả năng sẽ đưa đến một hậu quả: nếu người Việt Nam nào đó
muốn đi vào kho tàng tục ngữ Việt Nam, muốn tìm ở tục ngữ một chỉ dẫn hoặc một
niềm tin xác quyết nào đó cho hành vi ứng xử của mình trong đời sống, có thể
anh ta sẽ rất hoang mang, không biết phải theo cái nào, phải làm thế nào mới
đúng? Vậy, đâu là bí mật ở đây?
Bí mật, có lẽ nằm trong kiểu tư duy “mềm”, tư duy
với biên độ co giãn cao của người Việt. Kiểu tư duy này không cần biết đến
nguyên tắc “dĩ nhất quán chi” (lấy một cái mà bao trùm tất cả) mà đức Khổng Tử
đã dạy, và nó càng không thèm quan tâm đến tính hệ thống, tính logic chặt chẽ
như kiểu tư duy khách quan lạnh lùng của triết học phương Tây. Nói một cách hơi
vu khoát: năng lực tư duy trừu tượng của người Việt nói chung chỉ cao đến mức
có thể nắm bắt được những tình huống cụ thể, những quan hệ cụ thể, những phương
diện cụ thể mà thôi, không nâng sự phán đoán của mình lên thành nguyên tắc phổ
quát được. Vì thế mà các chân lý của chúng ta cứ cãi lộn nhau! Diễn đạt cho dễ
hiểu: chân lý chỉ có một, đã là chân lý thì trong trường hợp nào cũng đúng,
nhưng chúng ta, những người Việt, ưa thích sự đồng tồn tại của nhiều chân lý
khác nhau. Để, trong những khoảng thời gian khác nhau, những chân lý khác nhau
ấy – về cùng một đối tượng – sẽ được lấy ra và sử dụng cho phù hợp với những
mục đích cụ thể khác nhau của chúng ta. Hãy thử hình dung: một người đang gặp
khó khăn, về tiền bạc chẳng hạn, nếu anh ta được một người bà con xa giúp đỡ,
câu “Một giọt máu đào hơn một ao nước lã” sẽ trở thành câu đầu miệng,
nhưng nếu người giúp anh ta là người hàng xóm không có quan hệ máu mủ ruột rà
gì, thì không gì hợp cảnh hơn câu “Bán anh em xa mua láng giềng gần”
(trong những trường hợp như thế này, tính bất nhất tỏ ra rất gần với chủ nghĩa
cơ hội và tinh thần thực dụng: “Gió chiều nào, che chiều ấy”). Thử
thoát ra khỏi thế giới của tục ngữ, nhìn vào thực tế lịch sử dân tộc, chúng ta
sẽ thấy rằng đây cũng chính là đặc điểm trội trong cách ứng xử của người Việt.
Tôi xin dẫn ra một ví dụ. Năm Đinh Mùi 1427, sau khi chiến thắng quân Minh xâm
lược, Lê Thái Tổ đã chỉ đạo Nguyễn Trãi thảo hai bản văn cực kỳ quan trọng: Bình
Ngô đại cáo và Biểu cầu phong. Bản văn đầu là ta viết cho ta, nên
đến cả Hoàng đế Tuyên Tông nhà Minh cũng bị xem thường rất mực: “Thằng nhãi
con Tuyên Đức”. Bản văn sau là ta viết cho địch – một kẻ địch tuy thua
nhưng cực kỳ hùng mạnh – thì vẫn “thằng nhãi con” ấy, nhưng lại được ca tụng
rất mực: “Cúi nghĩ bệ hạ là bậc thánh thần văn võ, trí tuệ thông minh, đức
hiếu sinh đây đó thấm đều, lòng nhất thị xa gần không khác...” (Phan Huy
Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Bản dịch của Viện Sử học. NXB
Giáo Dục 2008. Tập II, tr. 544). Có hai chân lý xem ra tốt hơn là chỉ có một
chân lý!
Thông minh hay láu cá?
Tiếp theo, phải nói tới tính khôn vặt của người
Việt, như nó được thể hiện qua tục ngữ. Khôn vặt, nghĩa là chỉ nhìn thấy cái
lợi be bé trước mắt, và chỉ là cái lợi cho bản thân mình mà thôi. Người khôn
vặt, thường là người thông minh theo kiểu láu cá. Anh ta nhận định tình huống
rất nhanh, và cũng rất nhanh để đưa ra cách xử lý sao cho có thể thu lợi nhiều
nhất cho mình, bất chấp việc mối lợi ấy được đánh đổi bằng sự thiệt hại của
người khác. Tục ngữ Việt Nam
có khá nhiều câu “xui” người ta khôn vặt như vậy: “Trâu chậm uống nước
đục”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”, “Ăn sau là đầu quét dọn” v.v...
Không gì khác, những câu tục ngữ trên chính là sự chỉ dẫn cho người ta con
đường ngắn nhất để trục lợi: tranh cướp. Mang cái vẻ khách quan đến mức gần như
“trong suốt” – nghĩa là chỉ nêu hiện tượng, không bình luận – thế nhưng chúng
lại bày ra trước mắt người đọc một thứ quan hệ nhân quả rất sòng phẳng, rất logic:
nếu anh chỉ làm thế này, thì anh sẽ nhận được chỉ thế này. Nếu không nhanh tay,
anh sẽ chỉ nhận được phần thiệt về mình. Bằng “khôn ngoan” ra, biết đi trước
thiên hạ, anh sẽ hưởng lợi và đẩy phần thiệt cho những người khác. Để chứng
minh cho cái tính khôn vặt kiểu này, không gì tốt bằng hãy cứ nhìn vào sự phát
triển kịch phát của thị trường chứng khoán Việt Nam vài năm trước. Có mấy “nhà đầu
tư” có những hiểu biết sơ đẳng về thị trường chứng khoán? Có mấy “nhà đầu tư”
định “đầu tư” một cách tử tế, hay là chỉ nhanh tay trong việc mua cổ phiếu sao
cho rẻ nhất, rồi bán ngay khi có thể để kiếm chênh lệch, bán qua bán lại đến
lúc mớ cổ phiếu chỉ còn là đống giấy lộn? Có mấy nhà “đầu tư” đã kịp nghĩ đến
sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân?
Tính khôn vặt của người Việt còn có những biến
thể khác, in dấu trong tục ngữ. Biến thể 1: nếu không nhanh tay tranh cướp để
hưởng lợi được, thì ít ra, anh cũng phải biết cách giảm thiểu rủi ro cho mình,
bằng việc lảng tránh đương đầu với những khó khăn, quay lưng lại hoặc đi đường
vòng trước những thách thức: “Một sự nhịn, chín sự lành”, “Tránh voi chẳng
xấu mặt nào”, “Lắm người yêu hơn nhiều kẻ ghét”, “Biết tay ăn mặn thì chừa,
đừng trêu mẹ mướp mà xơ có ngày”, “Chú bạo chú khốn, tôi dát tôi trốn, tôi hãy
còn đây” v.v... (Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương từng nói về chuyện này:
tục ngữ Việt Nam dạy con
người Việt Nam
cách biết sống... hèn!). Biến thể 2: anh cần phải biết cách nắm cho chặt, giữ
cho chắc quyền lợi của mình, của gia đình mình, của cộng đồng mình, và chỉ cần
quan tâm đến điều đó thôi, mọi thứ quyền lợi khác của những người khác đều
không đáng phải để ý: “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Lệnh làng nào làng ấy đánh,
thánh làng nào làng ấy thờ”, “Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ”,
“Thừa người nhà mới ra người ngoài”, “Thương, cái xương chẳng còn”, “Thương
người thì khó đến thân” v.v... Biến thể 3: anh cần phải biết một trong
những phương cách tốt nhất để giữ an toàn cho mình, đó là xóa bỏ sự tồn tại độc
lập của cá nhân, chạy trốn vào tập thể, lấy tập thể và cơ chế chịu trách nhiệm
liên đới của chủ nghĩa tập thể làm thành lũy, làm lá chắn: “Lụt, thì lút cả
làng”, “Toét mắt là tại hướng đình, cả làng toét mắt riêng mình ai đâu”, “Dại
đàn còn hơn tốt lỏi”, “Xấu mặt xin tương, cả phường cùng húp” v.v... (Về điểm
này, nhiều nhà nghiên cứu, từ giác độ xã hội học, dân tộc học, sử học v.v...,
đã lý giải bằng cách chỉ ra căn tính tiểu nông của người Việt Nam, những con
người được cố kết và bị chi phối rất chặt bởi những quan hệ cộng đồng huyết
tộc, quan hệ Làng – Họ, nếu muốn diễn đạt theo cách khác).
Từ kho tàng tục ngữ của người Việt, nói chung, có
thể đọc ra khá nhiều nét trội trong tính cách của người Việt được “găm” vào đó.
Tôi mới chỉ nói đến tính bất nhất và tính khôn vặt mà thôi, dù rằng thực ra có
thể và cần phải liệt kê nhiều hơn thế. Nhưng chỉ thế thôi đã thấy gợn lên một
mối lo: những câu tục ngữ xưa – chứ không phải tục ngữ hiện đại – nhưng hình
như tính bất nhất và tính khôn vặt của người Việt được phản ánh trong đó không
xưa một chút nào. Nó vẫn vậy, tươi rói, sống động và đặc biệt phổ biến trong
lối suy nghĩ, lối ứng xử của người Việt ngày hôm nay. Với những “phẩm chất” ấy,
đến lúc nào mỗi người Việt Nam
mới trở thành một công dân thế giới đích thực, cho dẫu không phủ nhận được là
rất nhiều người trong số chúng ta đang sở hữu và sử dụng thành thạo các phương
tiện của nền văn minh hiện đại không thua kém gì ai? Đây là câu hỏi chắc chắn
không dễ trả lời.
(Nguồn: Daibieunhandan.vn)
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa