Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Tinh thần thể dục

Có lính huyện mang trát quan về làng:
Quan tri huyện huyện X.X.
Sức hương lý xã Ngũ Vọng tuân cử.
Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Mars này, tức 29 tháng Giêng An Nam, tại sân vận động huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ.
Vậy sức các thầy phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện.
Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được miễn.
Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.
Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.
Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữụ
Nay sức
Lê Thăng
+
+ +
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồị
- Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đóị
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấỵ
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương taọ Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêụ
+
+ +
Bác Phó gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông lý:
- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêụ Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vộị
- ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!
- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt saụ
- ốm gần chết cũng phải đị Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à?
- Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêụ Nhưng, thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan giạ
- Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâụ Vợ chồng thu xếp với nhau thế nào, đây mặc kệ!
- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?
- Không! Phải là đàn ông kiả Chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.
Người đàn bà thở dài:
- Thế thì con biết làm thế nào được!
+
+ +
Bà cụ phó Bính, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên:
- Thì lòng thành, ông lý cứ nhận đi cho cháụ Cháu hôm ấy không bận đi ăn cưới thì cháu cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. ông ngơ đi là được.
- Thế ngộ quan biết, có chết tôi không!
- Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.
- Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơị
- Thì cũng như ông làm phúc ấy mà lị.
- Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấỵ
- ông không phải lo việc ấỵ Nó đã dạm mượn được đủ cả rồị Cháu mặc cả và đã khoán đủ với nó như thế.
ông lý nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi:
- Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.
- Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế chứ gì.
- Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đị
- ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Đá bóng ít ra ba bốn giờ chiều mới bắt đầu kia mà. Tôi tưởng mười hai giờ ở nhà đi cũng vừạ Buổi sáng, tôi còn mượn nó cuốc mảnh vườn.
- Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưạ Để ngài điểm. Mà quan sức mười hai giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủạ Vả lại, tôi còn phải mang cờ lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nàỏ Cho nên, mọi người phải chờ tôi ở đình từ gà gáỵ
- Thế thì sớm quá.
ông Lý gắt:
- Tôi không lôi thôị Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà. Mặc kệ!
Bà phó sợ hãi:
- Không, lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghẹ Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.
- Mấy lị bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm cơm từ chiều hôm trước, chứ sáng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâụ
- Vâng.
+
+ +
Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lý quát tháo om sòm:
- Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đâỵ Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!
Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. ông lý dặn theo, tiếng oang oang:
- Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịụ Mẹ bố chúng nó! Việc quan thế này chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!
Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậỵ Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong biển sương mù.
Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này:
Hai người tuần, một người cầm đuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà thằng Cò. Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống bếp, chọc tay thước vào cót gio và bồ trấụ Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệụ
Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người trốn: Thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.
Nó bị lôi ra ngoàị Nó van lạy:
- Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.
- Sao anh đã hẹn với ông lý, lại không đi, để ông ấy chửi địa lên kia kìạ
- Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đóị
- Tôi không biết!
- Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áọ
- Không biết! Anh ra đình mà kêu với ông lý.
Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữạ Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi sềnh sệch đị
+
+ +
Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh nạn.
Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói:
- Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
Rồi ông ra lệnh:
- Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm chung quanh giúp taọ Đứa nào mà trốn về thì ông bảọ
Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.
- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!
Tiểu thuyết thứ bảy, số 251; 1939

Hết

Thịt người chết

Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấỵ
Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu, nên chọn vào đêm thứ sáụ Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báọ Và đến chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hữu đi đưa đông. ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được.
Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết đến lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch.
Nhất là anh Xích, một dân quê vô học, nên càng ngu dại nữạ Anh đã vô ý mà chết đuối ngay vào đêm thứ bảy vừa rồị
Nguyên cha anh, ông Cứu, thầu của làng cái đầm sen ngay giáp lũy trẹ Ðến mùa này hoa nở, ông phải làm chòi nhỏ ở giữa đầm, hai bố con cắt lượt nhau ra ngủ đó để canh.
Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ. Ðến xẩm tối, anh vừa về đến nhà, đã bị ông Cứu giục mang điếu và gối ra chòị
Anh lao đao đi, rồi không hiểu sao, sáng sớm hôm sau, không thấy về. Và đến độ tám giờ, xác anh đã nổi lên, trôi lềnh bềnh vào gần bờ.
Người ta đoán nhiều cớ về cái chết nàỵ Nhưng tựu trung, chỉ hai thuyết có thể hợp lý được:
Một là, anh Xích vì say quá, loạng choạng chở thúng bị ngã vào chỗ sâụ
Hai là, đang đêm anh ngủ mê, vô ý cựa, đến nỗi anh lăn tòm xuống nước.
Chứ những tiếng đồn anh ta tự tử vì việc gia đình, hoặc bị kẻ thù đánh chết đều không thể tin được.
Hương lý tò mò, hỏi dò hai bên hàng xóm nhà ông Cứu, xem hôm trước hai cha con có to tiếng gì với nhau không. Họ cố ý nhận xét rất kỹ lưỡng cái thây người xấu số. Nhưng không ai tìm ra được một chứng cứ gì khả nghị Và khi được tin dữ dội con ông Cứu bị nạn, cả làng ra tận bờ đầm xem. Ai cũng phàn nàn, thương tiếc người con trai tử tế, hiền lành. Và trông cái xác chết còng queo ngâm dưới nước, đố ai cầm lòng cho đậụ
Bà Cứu tru tréo lăn lộn, mấy lần toan nhảy tùm xuống ôm lấy con. Nhưng bà bị người ta giữ lạị Trong lúc như điên cuồng, bà chửi cả ông lý trưởng không cho bà vớt anh Xích lên, để đặt lên bờ. Bởi vì bà mếu máo và chắp tay lạy lấy lạy để mọi người và nói:
- Nó đau lòng lắm, các ông các bà ơi!
Nhưng người ta khuyên:
- Ðể quan về khám, làm biên bản xong, bà muốn làm ma to cỗ lớn thế nào mặc bà. Chứ bây giờ, bà đừng nên đụng đến anh ấỵ Ngộ độc anh ấy lên bờ, rồi mình mẩy xây xước chẳng hạn, thì quan nào cho chôn? Vả chết đuối, sao nằm trên bờ được?
Bà Cứu không tin, gắt:
- Không cho chôn thì quan giữ làm gì?
- Giữ để chờ đốc-tờ về khám. Như thế, lại lâu rạ
Bà nghe hiểu, xỉ mũi, lau nước mắt, và ngồi xổm cạnh cái quan tài rỗng không, dưới bóng cây, đành lòng chờ đợị
Bà mong được phép chôn con như mong mẹ về chợ. Người nhà bà lên huyện trình quan ngay từ sáng, nhưng đến bây giờ, không hiểu sao, chưa thấy về. Ðường lên huyện không xa, chẳng rõ vì sao lại có sự chậm chạp thế này được.
Nhưng một giờ. Lại hai giờ. Lại ba giờ.
Bà Cứu không còn sức và nước mắt để chờ, để khóc nữạ Bà hết đứng lại đi loanh quanh, không dám trông chỗ con nằm.
Rồi bà ngồi xổm xuống đất, gục mặt vào đầu gối để nghe ngóng. Bà đợi một hiệu còi ô-tô của quan. Những lúc có tiếng xay lúa ù ù, bà khấp khởi lắng tai, và thở dài vì mừng hụt.
*
* *
Mặt trời chói lọi, rọi tia lửa xuống đất.
Thây anh Xích bắt đầu đổi khác. Chân tay co quắp hơn. Tóc lỏa tỏa như món rễ bèo Nhật Bản.
Gió hiu hiụ Làn sóng rập rờn liếm vào thân anh kêu óc ách. Anh rập rình như nằm trên giường lò xọ
Rồi tự nhiên, cái xác lật ngửa lên. Con người trước kia hiền lành là thế, nay biến thành con bò thui: bụng phềnh to, má phềnh to, mặt phềnh tọ Ðôi mắt híp lại, như bị kéo dài ra tận mang taị Tứ chi rúm ró. Ai trông thấy bộ dạng nhăn nhó, dọa nạt của người chết, mà khỏi rợn tóc gáy được?
Từ lúc ấy, người thân thích đến thăm thưa dần. Rồi sau hết, không ai dám lại gần đấy nữạ Những khách đi đường vì vô tình hoặc bất đắc dĩ phải qua, đều che nón, ngậm miệng, và đến chỗ xa, rùng mình một cái mới nhổ toèn toẹt.
ông Cứu ở nhà để chờ quan về khám, cũng chẳng kém nóng ruột. ông như chết một nửa người mà vẫn phải tiếp khách đến hỏi thêm mỗi lúc một đông. ông chỉ muốn được yên, để nằm nhoài ra mà kêu gào, vật vã cho hả nỗi phụ tử tình thâm. ông lại lo lắng, không hiểu vợ ông ngồi ngoài bờ đầm, có ai canh giữ cẩn thận, hay lại chẳng nén nổi lòng thương, mà liều mình quá, thì ông thêm một nỗi ân hận nữa suốt đờị
Họ hàng chạy đến mỗi người giúp một việc. Người bầy ở dưới nhà ngang một bàn thờ cỏn con, lấp láy có đôi nến trắng. Người lược may đồ khâm liệm và xé khăn cho lũ em.
Rồi đến khi được biết rằng là ngày chủ nhật, cả buổi hầu sáng, quan không ra công đường, vì đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn giờ sáng mới về. Và đến chiều, cổng huyện đóng, vì là ngày nghỉ; thì ở nhà ông Cứu trợn mắt, kêu rú một tiếng, và ở cạnh lũy tre, bà Cứu ngã vật xuống đất, ngất đi đến năm phút đồng hồ.
Cả làng phải chờ.
Họ hàng sắp sửa việc ma chay xong, ai nấy về nhà để sáng hôm sau lại đến làm giúp. Người không thân thích lại bắt đầu công việc như cũ, chờ lúc kèn trống nổi lên thì đưa anh Xích ra đồng. ông Cứu cho người vực bà Cứu về. Hai vợ chồng già nằm chết gí ở hai giường, chờ cuộc khám xét của quan phụ mẫụ Tử thi chờ chôn, mỗi lúc một trương to, rập rềnh cạnh cái quan tài đang ngoác miệng chờ việc. Cảnh vật im ả như cũng chờ để nghe ngóng tin. ánh nắng cứ lẳng lặng rọi xuống. Cây cối mệt nhọc, cành gục lả.
Nhưng giữa nơi yên lặng, chìm đắm trong sự buồn thảm ấy, có một chỗ đầy vẻ hoạt động. Ngay ở quãng tử thi mà người đồng loại kinh tởm khi nhìn thấy, hoặc ghê sợ khi đến gần, thì những loài vật khác giống tỏ vẻ âu yếm, thiết tha lạ lùng. Dưới nước, lũ cá mương vui vẻ, nô giỡn với nhau, chui vào kẽ nách, lỗ tai, đớp thật nhanh, rồi chạy nhào biến mất. Rồi lại đớp. Rồi lại chạỵ Trên không, vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân tay, mải miết hút chất đồ ăn bổ. Thỉnh thoảng, chiếc lá tre vàng vằn vèo từ trên đâm bổ xuống, làm động cuộc kiếm ăn đang bình yên, thì vò một tiếng, lũ ruồi nhặng bay tản đị Nhưng khoảng khắc, lại bậu vào, làm thành những quầng đen trên tấm xác xám ngoẹt.
Rồi buổi chiều, một mùi nồng nặc, hăng hăng đã bay thoang thoảng đến được chỗ xa xạ Trên ngọn tre, xào xạc tiếng cánh bay, con quạ đen cố quặp hai chân vào một cành ẻo lả, vẫy đuôi để giữ thăng bằng cho vững chãi, rồi chao mắt thèm thuồng xuống mồị Rồi một con nữa cụp cánh, đậu ở cành cây khác, lên tiếng khàn khàn gọi nhaụ Chẳng mấy chốc, hai ba con nữa bay lạị
Một con vỗ cánh, bay sà xuống trước, đứng lên bụng thây người để thám hiểm. Thấy được bình yên, cả lũ theo nhau, mổ rỉa từng nơi một.
Như thế, anh Xích vô tình là ân nhân của đàn cá, ruồi, nhặng, quạ. Chân tay vẫn co quắp như dọa, mặt mũi vẫn nhăn nhó như nát, nhưng anh vẫn bị rỉa, bị hút, bị đớp như thường.
Thịt người chết, ai hay cũng là món đồ ăn quý hóạ
*
* *
Cho đến tận chín giờ sáng hôm sau, còi ô-tô đằng xa bỗng thét váng.
Ðàn quạ hết vía, vừa bay vừa kêu xa xả. Lũ ruồi nhặng, hốt hoảng vội trốn cho xạ Ðàn cá mương thấy nguy, lộn nhào mỗi con chui vào một xó.
Thì lúc ấy, trên bờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai, cậu lính lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, và cùng trịnh trọng khạc nhổ. Cậu lệ cầm gậy, lật đi lật lại tử thị Quan và nha ghé mắt xem xét từng li từng tí và biên chép. Hương lý, vợ chồng ông Cứu, cùng họ hàng, người làng, ai nấy khoanh tay im lặng, nuốt đờm, nhìn chằm chặp vào xác chết. Người thở dàị Người lau nước mắt.
Khám nghiệm xong, quan truyền lính đuổi cả người tò mò ra xạ Và trước cảnh thương tâm, ngài ôn tồn hỏi ông Cứu:
- Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến dăm trăm không?
Thấy quan hỏi câu phiếm, không dính dáng gì đến vụ chết đuối, ông Cứu đành phải đáp:
- Dạ
- Anh cấy hai mươi mấy mẫủ
- Lậy quan lớn, hai mươi hai mẫụ
Quan gật gù:
- Thôi được, để cho anh biết rằng tôi rõ gia tư nhà anh lắm. Còn việc khám xét hôm nay, thì tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên Xích, có nhiều vết khả nghị Tôi phải bẩm tỉnh xin đốc-tờ về khám cho cẩn thận.
ông Cứu như sét đánh, run cầm cập, nhăn nhó kêu:
- Lạy quan lớn...
ông huyện lắc đầu:
- Nó bị bức tử. Phải có đốc-tờ mổ xẻ nó ra mới rõ được.
Bỗng có một tiếng tru lên, bà Cứu ôm mặt, lanh lảnh khóc:
- ối con tôi!
Tiếng khóc của người mẹ trước thi hài đứa con chết đuối đã chương, làm ai cũng phải cảm động. Nhưng trái lại, nó không làm chuyển nét mặt của quan tư pháp. Ðến đây, ông là đại diện cho Pháp luật. ông đã từ người bằng thịt bằng xương biến thành pho tượng bằng sắt đá lạnh lùng.
Vậy là sắt đá, tất không thể cảm được những tiếng khóc ẻo lả của người mẹ mất con, hoặc những tiếng kêu nài mềm yếu của người cha oan uổng. Cảm được sắt đá, duy chỉ có một vật. Vật ấy cố nhiên phải rắn, tuy chẳng được rắn bằng sắt, cũng phải rắn hơn đá. Mà vật rắn ấy, nhà ông Cứu không thiếụ Nó làm bằng loài bạc.
Thấy ông huyện lặng nhìn tử thi đương xông lên một mùi khắm lằm lặm, ông Cứu não ruột nói:
- Xin rước quan về nhà nghỉ cho đỡ nắng.
ông huyện chẳng biết vô tình hay cố ý, lấy tay xua ruồi, và khạc nhổ, rồi đáp:
- ừ, kẻo ở đây tởm lắm. Nó đã trương to, mà ruồi, nhặng, cá, quạ cứ xán vàọ Lại còn phải phơi nắng, đợi thầy thuốc mổ xẻ nữa, thì biết bao giờ mới được chôn!
Rồi vừa đi, ngài vừa bảo ông lục sự:
- Ðích là một án mạng, chứ không đúng như những lời trình trong giấy đâụ
ông Cứu tiến lại gần, nhỏ nhẻ thưa:
- Lạy quan lớn, còn vong hồn con con kiạ Nếu có thế nào; con cam chịu tội trước cửa quan lớn. Xin quan lớn cho phép con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan quay lại, nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người có trái tim dễ cảm. Ngài hỏi:
- Anh định tạ tôi bao nhiêủ
- Lạy quan lớn, con xin khấn một nén.
Quan cười:
- Anh phải biết cứ tiền dầu xăng khứ hồi ô-tô tôi về đây cũng đáng một nén rồị
ông lục sự đi rảo cẳng lên, nói:
- Bẩm quan lớn việc này to chứ chẳng phải vừạ
Rồi ông cau mặt, trách ông Cứu:
- Cơ nghiệp anh như thế, mà anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách hay saỏ
Rồi luôn mồm, ông thưa với ông huyện:
- Bẩm quan lớn, nghề dân ta họ vẫn ngu dại làm vậy, muốn chạy việc, lại cứ muốn không mất tiền.
ông Cứu nhăn nhó, nói khẽ với ông lục:
- Nhờ cụ bẩm với quan hộ, một bách thì tôi không sao lo được. Tôi xin tạ một nửạ
ông lục xua tay và trợn mắt, như ngăn cản một câu nói dại dột:
- Chết! Anh nói mới dễ nghe làm sao!
Rồi ghé tai ông Cứu, ông thầm thì:
- Này, chỗ thân, đằng này cam đoan xin hộ cho bằng được. Nhưng ít ra anh cũng cứ lo lấy bát thập, còn thập nguyên, cho đằng này ăn với chứ?
ông Cứu cũng thầm thì:
- Khốn như hiện hay không có đủ.
Thì hãy cứ hứa đi, mai kia lên tạ sau cũng được kia mà. Ðằng này nhận chọ Chứ anh đang tâm để con anh thế được à?
ông Cứu yên lặng, thở dàị
Quay lại phía sau, ông thấy vợ ông đương lăn lộn. ông không thể cầm được nước mắt, vội vàng mặc cả mấy câu nữa, rồi bằng lòng khấn quan bảy mươi đồng.
*
Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngợ
Chúng nó biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của chúng.
1938

Hết

báo hiếu: trả nghĩa mẹ

Đây có phải nhà ông chủ ôtô "con cọp" hay không?
- phải, ông hỏi gì?
- thưa cụ, ông chủ có nhà không ạ?
- Ông ấy đi vắng chưa về.
- thưa cụ, tôi hỏi thế này khí không phải, cụ có phải là cụ sinh ra ông chủ tôi không ạ?
- không phải, con vú già đây!
người khách đương luống cuống, sượng sùng, vì sự mình lầm con vú già với mẹ ông chủ, thì trông thấy một người đàn bà béo tốt và trẻ ở nhà trong đi ra đến sân. muốn cho khỏi lầm lần thứ hai, người khách vội hỏi ngay người vú:
- kia có phải là bà chủ không?
- không phải, đấy là mẹ đấy!
câu trả lời dấm dẳn, đáng lẽ làm cho người khách phải luống cuống sượng sùng lần thứ hai, thì trái lại, người khách nhận thấy vẻ mặt uất ức những sự giận dữ của bà cụ tự xưng là vú già và người được giới thiệu là mẹ, nên nhanh trí, hiểu ngay rằng không những mình không lầm lần thứ hai, mà lần thứ nhất mình cũng hỏi đúng. tất là trong gia đình này, đương có sự xung đột mẹ chồng nàng dâu chi đây.
+
+ +
- tôi lấy cậu, là vì ái tình của tôi đối với cậu, thì tôi chỉ biết có cậu, ngoài ra, tôi chẳng biết thằng nào con nào ở nhà này cả! cậu ngu lắm, cậu không biết bảo bà ấy!
- thôi, người già vẫn hay trái tính, mợ nên biết nhịn. mợ ở với tôi cả đời, chứ bất quá bà ấy sống được mấy nữa!
- bà ấy ở đây ngày nào, tôi ê chệ ngày ấy. Đấy cậu xem, hôm qua đấy, một suýt nữa mà bà ấy vào cửa trước, thì có họa mặt mình là mặt mo! cậu chỉ nói dối tôi. cậu đuổi bà ấy, sao bà ấy còn đấy?
- tôi không đuổi thì tôi chết! mợ cứ chửi đứa nào nói dối mợ! chẳng tin mợ hỏi lại thằng bếp mà xem. nhưng chắc bà ấy phải đi bộ mà về nên lạc đường, mới trở lại. tôi đã bắt bà ấy mai phải về rồi.
- Đồ mặt dày! thế mà không biết nhục! sao nó không chết đi cho người ta nhẹ nợ!
- thôi, mợ nói vừa chứ.
- tôi không nói vừa, cậu bênh mẹ cậu à! ối giời ơi! Đây, cậu giết tôi trước đi! ối hàng phố ơi! con gái già nó hại tôi!
- tôi xin mợ! tôi van mợ! tôi lạy mợ!
- cậu buông tôi ra. tôi không để con mẹ ấy yên đêm nay được!
+
+ +
sáng hôm sau, ở cửa nhà ông chủ xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "con cọp", người ta trông thấy căng cái màn đen diềm trắng. mà đi trên hè, ai cũng ngửi thấy mùi khói hương, khói trầm, thơm phức.
trong nhà có đám tang?
phải, bà cụ sinh ra ông chủ mới tạ thế hồi đêm. trong nhà trong, thằng bếp thì thào hỏi con vú:
- cụ tức bà, rồi cụ uất lên mà chết, phải không chị?
con vú nháy mắt, trỏ tay vào cổ, nói:
- thắt!
thằng quít nghe thấy, bĩu môi, trỏ vào mồm mình:
- chỗ này đen những máu, trông ghê quá, đích là thuốc độc.
uất lên mà chết? thắt cổ? uống phải thuốc độc?
chẳng đúng! chúng nó nói láo toét hết! quân bạc thế đấy! Đem cắt lưỡi chúng nó đi!
ai muốn rõ nguyên nhân vì sao bà cụ tạ thế, thì hãy đọc tờ cáo phó sau này, sẽ biết:
chúng tôi lấy làm đau đớn, cáo phó để các cụ, các quan, các Ông, các bà biết cho rằng thân mẫu chúng tôi là:
cụ trần thị y
hưởng thọ 67 tuổi,
chẳng may thụ bệnh, đã tạ thế ngày 15 tháng giêng, năm quí dậu, tức là ngày 9 février 1933, tại nhà riêng chúng tôi, phố p, số 15.
chúng tôi định đến ngày chủ nhật 12 février 1933 hồi 8 giờ sáng, sẽ làm lễ an táng tại nghĩa địa hàng tỉnh.
cô ai tử: nguyễn văn d.
hôn tử: nguyễn thị n.
Đồng gia đẳng khấp bái.
lời cáo phó ấy đăng lên mười tờ báo hàng ngày, lại in riêng thêm một nghìn tờ nữa. thành ra ngót bốn vạn tờ ở nhà bưu điện bay ra như bươm bướm khắp các nơi, khiến các cụ, các quan, các ông, các bà, ai thấy cái tin đau đớn bà cụ thụ bệnh mà tạ thế, cũng phải giật mình mà vội vã đến thăm viếng, và chia buồn cùng người gặp lúc vận hạn.
+
+ +
rồi đến đúng 8 giờ ngày 12 février, đám tang cử hành.
Đầu tiên, năm lá cờ ngũ hành phấp phới theo chiều gió. rồi đến ông thiên lôi, bà la sát, cao lênh khênh đi hai bên. một đoàn trống cà rùng, rinh tùng rinh, đi xung quanh chiếc trống cái, mà những phu đều áo nỉ đỏ, nón dấu sơn. kế đến một cái kiệu long đình sơn son thếp vàng, thong thả tiến từng bước, trông rất uy vệ chững chạc. theo sau long đình, là bốn chiếc xe nhà bóng nhoáng, trên có bốn vị sư, mỗi vị đi hai lọng. rồi ước trăm bà vãi đội cầu dài dằng dặc, mỗi bà tay cầm phướn, miệng tụng kinh ầm ầm. một cái minh tinh cao ngất ngểu đi trước một bức trướng vóc như căng ngang đường, có bốn chữ quen quen là dĩ sơn vân ám to tướng. Đoạn đến hàng hai trăm câu đối, cái vàng, cái trắng, cái đen, cái tím, cái xanh, cái bằng xa tanh, cái bằng vóc, cái bằng lượt, cái bằng dạ, xếp hàng đôi, mà trẻ con cầm đứa nào cũng mặc áo dài trắng. những câu đối ấy toàn chữ nho khó đọc cả. duy chỗ lạc khoản thì dễ nhận hơn. có chữ giống như thẻ bài ngà của cụ thượng. có chữ trên thì rậm rì khó đọc, nhưng dưới thì là chữ lâm muốn chừng là hàn lâm. có câu thì người ta bảo là của cụ lớn bố chánh. có câu thì trông rõ ba chữ bắc kỳ nhân, rồi có ba chữ cuối mới đến tên. nói tóm lại, nhiều quá, không ai nhớ hết. vì còn những câu của ông phủ, ông huyện, ông tham, ông phán chi chít những chữ nho là chữ nho.
sau đoàn câu đối thì là bốn năm cái bàn độc, rước đồ tam sinh với các phẩm vật. cứ đồ mặn lại xen đồ chay, mà cuối cùng, là con bò thui to kếch. bàn nào bàn nấy chằng chịt những dây vải trắng tinh.
Đương mỏi mắt về nhìn các nghi vệ, thì khách qua đường lại đinh tai về nghe đội kèn tây thuê tự hà nội về. họ ăn mặc như lính tây thổi những bài rất hùng hồn, như muốn giục người hăng hái ra trận. cái linh xa tám người khênh, thong thả đi nối ngay sau phường kèn. trong linh xa, khói hương trầm bay nghi ngút, giữa có bức truyền thần vẽ sơn, mới xong tối hôm trước, để kịp rước. bà cụ thì mặc áo gấm và đi giày vân hài. nào hoa tai, nào hột vàng, nào tráp đồi mồi, nào ống nhổ sứ, ai trông cũng đoán được nhà giàu. Đi sau linh xa, phường bát âm đưa những bài lâm khốc, như than, như khóc, như oán, như hờn, nỉ non, rên rỉ, nghe buồn chảy nước mắt được! một người khăn trắng, thắt lưng xanh ra ngoài, giơ cái phèng lên mà đánh, để ra hiệu cho bọn khênh cữu. thỉnh thoảng, để trả lời tiếng phèng rè, một hồi phách nổi lên, lách cách như tiếng nhái kêu. cái nhà táng thửa mấy hôm trời, thợ cả phố làm suốt ngày thâu đêm mới kịp và mới vừa lòng ông chủ. vì nghe đâu đắt đến trăm hai! bốn mươi hai người khênh đòn cữu, khi tiến khi quành, đều đều tăm tắp. trong nhà táng là quan tài, sơn son thiếp vàng, rất đẹp. người ta bảo sắm mất hơn sáu chục. trong cái phương du đi sau nhà táng, thì họ hàng thân thích, chen lách mà bước từng bước một. tiếng khóc than kêu gào thảm thiết, ai nghe thấy cũng phải não lòng. người ta bảo là bọn khóc mướn, nhưng lấy gì làm chứng? rồi đến hàng nghìn người, các cụ, các quan, các ông, các bà, rặt những chỗ thân thuộc, đi theo sau. cuối cùng thì ba bốn chiếc ô tô, sình sịch tiến dần. và hai ba chục chiếc xe nhà, như nêm khúc đường chật hẹp.
Được xem cái đám ma linh đình uy vệ là thế, thì ta nên khen người hiếu chủ đã khéo trả nghĩa mẹ. mà nhất là nếu trông thấy người ấy, ta lại càng tâm phục cái bụng hiếu thảo, không bến không bờ.
người ấy mặc đồ sô gai. chứ còn bụng dạ nào mà nghĩ đến áo quần cho chải chuốt! Đi trước cữu thì giật lùi từng bước. lúc nào cũng bưng miệng mà khóc, còng lưng xuống mà khóc, đến nỗi phải chống gậy! vậy mà có đủ vững được đâu? mấy hôm nay, vì thương mẹ quá thành ra ốm yếu, họ hàng sợ người ấy ngã lăn ra, cho nên phải cử người đi kèm, vừa che ô, vừa ôm chặt lấy ngang lưng cho đỡ khuỵu. người ta lại sợ hiếu chủ thương mẹ quá đập đầu vào quan tài, lỡ chết thì hoài, vì lúc trong bụng bối rối vẫn hay sinh liều, nên phải bện cái nùn rơm để chít quanh đầu. thì dù có đập mạnh đến đâu, cũng không đến nỗi vỡ sọ.
người con dâu mới lại đáng ái ngại nữa chứ! khốn nạn, mấy hôm nay, người này kêu khản cả tiếng, khóc hết cả hơi. mà ông trời độc địa, cứ khăng khăng bắt bà cụ, hơn một ngày không ở, kém một ngày không đi, để bây giờ dâu con không có mẹ mà hầu hạ. lắm lúc lại như thù giận lũ phi nhân đạo, họ cứ nhẫn tâm khênh cữu đi, thì nàng dâu lại nằm lăn ra đường mà chắn lối, rồi lại kêu gào rầm rầm. lúc hạ huyệt mới càng thương tâm. áo quan chưa ngắm đúng hướng, người ấy đã nhảy đánh tụp xuống mà nằm thẳng cẳng ra, ôm chặt lấy mà hờ, mà khóc. rồi quá lắm, đến nỗi ngất đi. nếu bốn năm người không lôi dậy và không tốt khuyên, thì có lẽ người ấy còn muốn sống làm gì! thà đi theo mẹ còn hơn chịu bơ vơ như chim mất tổ!
não lòng thay! bà cụ ở dưới suối vàng, có thiêng chăng tá? giá bà cụ biết rằng mình được con nó báo hiếu, làm đám ma long trọng dường này, thì hẳn cũng ngậm cười. mà nhất là giá bà cụ lại trông thấy trước rằng con trai và con dâu mình nó thương mình quá thế thì chắc lúc "thụ bệnh", cũng chẳng đành tâm mà nhắm mắt!
kép tư bền
tiểu thuyết thứ bảy xuất bản - 1935

báo hiếu: trả nghĩa cha

mưa phùn. gió bấc. rét buốt đến tận xương.
nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "con cọp"? bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. cho nên cố mời cho kỳ được. vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
chuông sáu giờ vừa dứt. khách đến đã đủ. một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
- xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. xin rước các quan xơi rượu.
- chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường! kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúng tôi ở trong nhà quê ạ. nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! sung sướng thay! củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
+
+ +
mưa phùn. gió bấc. rét buốt thấu tận xương.
ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên cẩm thì sao? dòm chán rồi lại hỏi thăm. mà hỏi chỉ độc nói trống không. khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. hai mắt thì toét nhoèn những dử. cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. trông lại càng xấu. cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. không biết nói những gì? tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- alê! chạy! chốc nữa hãy đến. người ta vừa mới ăn!
nói xong người ấy đi.
bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- alê! không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? không biết! alê! Đi!
thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. người ấy vào trong mất.
bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
một người đứng hầu chạy ra mở cửa. có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! chốc nữa...! dạ!
cánh cửa lại đóng đánh thình. bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
bà lão không hiểu ra sao. hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. nhưng may, không sao đẩy được. nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.
bà lão bước xuống thềm, đi theo. vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. người ấy bảo:
- bà cụ ngồi tạm đây.
bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. vả muỗi và hôi thối quá. nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. bà lão nóng ruột quá.
nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. bà lão cố nhìn xem ai. mừng quá.
thật đích là ông chủ.
Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! ai bảo bà ra làm gì?
bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! bà về đi! mặc kệ bà! bà phải về ngay bây giờ! mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- thằng bếp đâu rồi! mày đưa bà ấy ra! mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
bà ấy là ai? bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. nay giàu đến hàng mươi vạn. thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "con cọp" vậy.
bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. quần áo mặt mũi lấm bê bết. cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. bà lão cố sờ soạng. khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
mưa để khóc, gió để rên. rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
kép tư bền
tiểu thuyết thứ bảy xuất bản, 1935

Cụ chánh bá mất giày

Phải hiểu rằng cụ chánh bá có thương nhà này thế nào, cụ mới quá bộ đến xơi rượu, chứ như nhà khác, dễ mà mời nổi cụ đấy hẳn? cụ lại không mắng cho vô số, chứ lại thèm đi à? ấy thế mà mới chập tối, họ đã để ngay đứa nào nó xà lọn mất đôi giày mới của cụ, có chết không! ừ thì đông người thì đông chứ, nhà có việc, nhà nào chả có nhiều kẻ ra vào! nhưng cụ ngồi chơi tận trên nhà trên thăm thẳm, thì còn kẻ gian nào dám lẻn vào đó? vả riêng mình cụ ngồi ở sập giữa, thì còn ai ngờ đi lẫn được giày? chẳng qua là lỗi tại chủ nhà không biết trông nom cẩn thận người nhà người cửa, trong khi chúng hầu hạ mà thôi! mà đứa nào lấy đôi giày ấy cũng to gan thực! hỗn với ai thì hỗn, chứ sao được hỗn ngay của cụ chánh bá! thực là vuốt râu hùm!
may thay cho nhà chủ, là tự nhiên lại biết ngay rằng cụ mất giày. chứ đợi đến lúc cụ ra về, hay vô phúc cụ đi giải, mà tìm giầy không thấy, thì không biết làm thế nào? lại cũng may nữa, là cụ chưa biết rằng đôi giày mới của cụ không cánh mà bay đấy. chứ mà cụ biết, thì chết với cụ! xưa nay cụ chúa ghét những thói gian giảo. ngay như đầy tớ cụ, đứa nào mà lảng vảng ra chợ, tắt mắt đồ đạc của người ta, người ta có bắt được và trình cụ, thì cụ cũng không tha. cụ nhất định giữ lấy đồ ăn cắp, rồi sai đánh cho một trận thật.
thế cho nên cụ chánh bá mất giày, nhà chủ sợ xanh mắt:
- Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?
- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng.
+
+ +
Độ một tháng nay, cụ chánh bá bực mình vì đôi giày của cụ nó móm quá. anh người nhà nói rằng nó mới, kiểu gia Định, đế cờ lếp, là anh đã làm một lối văn "cổ điển" đẹp lời, chứ nếu theo giọng "tả chân" thì phải nói rằng nó xấu và cũng không có chữ để tả nữa!
Đôi giày ấy, chẳng biết cụ mua từ khải Định mấy niên, đến bây giờ, đóng lại đế là lần thứ bốn, mà nó vẫn hoàn không đế. mũi thì nứt rạn và vá nhiều nơi. cái cá đã đóng thêm lượt nữa, nhưng nó vẫn thủng. lượt da thì ải và bật dây gần hết. bọn thợ khâu giày phải trốn như chạch, vì lỡ ra không nhẹ tay mà chọc mạnh cái dùi vào, là nó toạc ra - vì tất nó toạc ra - thì oan gia.
cho nên chiều hôm ấy, trước khi đi ăn cỗ, cụ đội khăn, mặc áo chỉnh tề, mà cụ ngắm đến đôi giày, thì cụ phát khùng lên. cụ cầm cái giẻ, nhổ tí nước dãi, lau lại cái mũi cho đỡ mờ, nhưng cụ ngắm, cụ vẫn phải nhăn mặt.
cụ đi đi lại lại vài lượt, ra ý nghĩ ngợi, rồi gọi anh đầy tớ thân và sai rằng:
- Đội khăn, đi hầu tao.
anh đầy tới gẩy cái bã điếu, lau qua cái tráp, rồi đứng khoanh tay chờ lệnh. cụ bá nhìn vào đôi giày, nghiêm sắc mặt lại, gắt:
- mày làm tao xấu hổ về đôi giày!
thấy khí giận ngầu ngầu trên mặt chủ, anh này gãi tai không dám trả lời.
- tao bực lắm! làm thế nào bây giờ?
anh đầy tớ không biết nói tiếng gì hơn là tiếng "dạ" đỡ đòn. nhưng cụ bá lại gắt:
- tao không thể đi đôi giày được nữa. kệ chúng bay! muốn làm thế nào thì làm!
câu gắt khí lạ, các ngài nhỉ! giá chúng mình làm nũng vợ, hay bắt nạt em gái, thì dùng câu ấy được đấy. nhưng bắt đền người nhà thì kém "logic" lắm!
nhưng mà cụ chánh bá tôi nói thực đấy! Đôi giày của cụ cũ và xấu, là lỗi tại đầy tớ ngu. nay cụ bắt phải có đôi khác thay vào, thì không đứa nào được trái ý.
anh đầy tớ lo lắm. nếu anh bẩm cụ mua giày mới, thì khổ anh. vì cụ cứ ừ, nhưng không đưa tiền. nếu không có giày cho cụ, thì cụ đánh đòn về tội kiệt.
cụ để cho anh luống cuống một lúc, rồi cụ mới dịu nét mặt, khoan thai vẫy lại gần, rỉ tai nói nhỏ. Đến câu chửi kết luận, anh ta mới tủm tỉm cười, phục ngầm thầy là mưu cao, và thấy nhẹ nhàng, đỡ lo đôi chút.
ấy thế rồi hai thầy trò đi.
Đến nơi, nhà chủ đón chào rất trân trọng. họ mời cụ lên nhà trên, hầu hạ kính cẩn, sợ hãi. lại còn sợ không quen tính cụ xưa nay ra sao, nên cứ phải thì thào hỏi dò cậu người nhà từng tí. và nhờ cậu luôn luôn đứng cạnh cụ, xem thiếu thức gì, thì cứ việc sai bảo tự nhiên.
cụ ngồi một mình trên sập giữa, và xơi riêng một mâm rượu đầy tú ụ. nhà chủ không dám ghép ai ngồi hầu, mà cũng chẳng ai dám ngồi hầu. vì lỡ ra có sơ suất hay thất thố, thì thà cụ cứ mắng chửi ngay cho lại là phúc. Đằng này, cụ cứ im, rồi để bụng. thế là mất làm ăn.
lúc chập tối, trong khi có hai thầy trò cụ chánh bá ở nhà trên, thì cụ khẽ gật tên đầy tớ, và liếc mắt một cái. anh này hiểu ý, ra hiên đứng nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt... rồi thu thu vào trong bọc. rồi len lén ra ngoài ao. rồi giơ thẳng cánh tay, ném xuống nước. tõm!...
vì thế cho nên cụ chánh bá nhà tôi mất đôi giày mới nguyên.
+
+ +
cụ chánh bá mất giày! may mà cụ không biết đấy! chứ giá cụ mà biết, thì chết nhà chủ! vì cụ xưa nay chúa ghét những thói gian giảo! to gan thay, đứa nào dám vuốt râu hùm!
lúc cụ xơi cơm xong, nhà chủ mới lên mời cụ đánh tổ tôm. cụ vui vẻ cho phép ngồi, và hỏi dăm ba câu chuyện. nhà chủ ngồi xổm ở cạnh sập. và trong khi hầu chuyện, anh ta vớ lấy cái điếu để hút. Đấy, chính lúc ngọn đóm lập loè dưới gậm, anh ta mới nom rõ bốn xung quanh giường, không thấy đôi giày nào cả. anh ta tái mét mặt, đến nỗi chưa hút được xong hơi thuốc, thì mối lo đã đùn đùn đưa lên đến ngực, đến nỗi anh ta sặc và ho sù sụ! sợ quá! nhưng không dám nói ra, anh ta mới lẳng lặng soi khắp nhà. quái! không tìm thấy đâu cả.
nhà chủ xin phép cụ cho bốn người lên hầu bài, rồi đi xuống. lúc gặp cậu người nhà, anh ta mới hỏi khẽ:
- Đôi giày của cụ, cậu có cất không?
- không! sao bác hỏi lố bịch thế?
- vậy thì mất à? Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?
- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng!
hỏi xong, nhà chủ sai người đổ đi soi đèn, tìm khắp mọi nơi, sau nhà, bờ giậu, xó bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, cũi chó. nghĩa là những chỗ có thể ngờ là kẻ gian giấu được, hoặc các nơi mà đàn chó con mọi khi vẫn chơi đùa.
càng không thấy, nhà chủ càng lo. cậu người nhà thỉnh thoảng lại nói một câu dậm dọa:
- hay là tôi lên trình cụ xem nhé!
trình cụ! coi không cụ biết thì cụ chửi cho ủng mồ! nhà chủ cứ bắt gia nhân đi tìm mãi, nhưng vẫn chẳng hy vọng gì, bèn đánh liều bỏ phí một đồng bạc để treo giải thưởng cho người tìm thấy.
nhưng có mà trời tìm! giá có cao đoán rằng cụ đã mật sai người nhà cụ vứt bõm xuống ao rồi, mà mò, thì cũng vô ích. vì từ nãy đến giờ, thì giờ cũng đủ cho đôi giày rữa ra và tiêu hết rồi, chứ còn gì!
nhưng mà mất giày cụ chánh bá! việc to! chết!
ấy, ở trên nhà, cụ vẫn đương vui vẻ gọi phỗng, và tính nước bài. chứ nếu ai mà hót với cụ rằng đôi giày mới của cụ, có đứa nào thó mất, thì hẳn cụ quăng bài đó, rồi cụ tra tấn cho ra. vì xưa nay cụ dữ như con hùm, khét tiếng trong hàng tổng là quyền hành, hách dịch, thét ra lửa!
cụ thét ra lửa thật hay dối? ấy là tán rộng thế cho nó hay đấy. chứ nếu biết rằng mất giày mà cụ thét ra lửa thực, thì cháy tiệt cả nhà, còn gì nữa? mà nhà nước thấy cụ có phép lạ, thì đã gửi toách cụ sang tây từ đời nào, để viện hàm lâm khoa học, các ông bouvier, caulery, gravier, joubin, marchal, mesnil khảo cứu. và như thế thì chắc chắn cụ được đôi giày tây để đi, chứ cụ có còn ở nhà nữa đâu mà mất đôi giày gia Định, đế cờ lếp! nhưng nói cho cụ đỡ oan, là từ ngày cụ có chân sơ học yếu lược tới nay, được đổi ngạch bá hộ sang văn giai, thì cụ cũng hiền lành hơn trước một chút. cho nên, giá cụ có biết rằng cụ mất giày, thì cũng mặc kệ cho nhà chủ tự xử trí.
tìm mãi không thấy, hai vợ chồng nhà chủ trợn mắt trợn mũi, luống cuống, chỉ trỏ bàn nhau. không biết làm thế nào cho êm chuyện. rồi thở ngắn than dài, hối mãi vì sự trông nom không cẩn mật để xảy ra sự mất mát đáng tiếc ấy.
rồi đến hai giờ sáng, xong ba hội tổ tôm, mọi người mời cụ chánh bá nghỉ, kẻo mệt. nhà chủ sai đốt đuốc để tiễn cụ lại nhà. khi chỉ còn một mình cụ ở lại, cụ mới quàng cái khăn vào cánh tay, rồi lấy đóm soi đôi giày dưới đất. Đôi giày của cụ thật mới, bóng nhoáng, kiểu gia Định, và đế cờ lếp, được để cận thận bên gậm sập. cụ hiểu ý, liếc mắt nhìn nhà chủ. nhưng cụ lại thấy nhà chủ cũng nhìn trộm cụ, thì cụ lại phải soi đóm xuống lần nữa, và làm như ngạc nhiên, không hiểu, nên nói:
- ớ! không phải...
nhà chủ, trống ngực thình thình, vội vàng đáp để đánh trống lấp
- dạ! bẩm phải đấy ạ.
thế rồi cụ làm như vô tâm, và hay tin người, cụ vươn vai, ngáp, rồi cót két đôi giày mới, đi về, lấy làm vừa lòng lắm...
ptbns số 5; 1-4-1937

Chiếc Quan Tài

Chiếc quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu. Một người đàn bà, quần áo nâu bạc, ngồi phệt ở bên, úp mặt vào cánh tay khoanh cạnh ván thiên, thỉnh thoảng hé vuông vải nhỏ mới, ghé ra ngoài xỉ mũi xuống nước. Gần đó, một thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch với những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn.
Bỗng bốn người đóng khố, lực lưỡng, đẩy chiếc mảng chuối áp đến hè, rồi cùng nhau vào, khỏa chân để rửa, nói mấy câu, và đứng lên phản, bắt tay vào cỗ ván.
Họ còng lưng, ưỡn ngực, để khênh cho thăng bằng. Song, họ không thấy nhọc nhằn, vì chiếc áo quan ấy nhẹ quá. Nó bằng gỗ tạp, lỗ chỗ những vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay. Họ chép miệng, phàn nàn với nhau, thương hại anh Cu xấu số, khổ cho đến lúc chết, chết ngay vào độ trời làm vỡ đường.
Mảng chuối chở chiếc quan tài lềnh bềnh theo tay bốn người đẩy ra cổng. Chị Cu trùm khăn lên mặt, khóc thảm thiết. Cứ cả quần áo thế, chị lội bì bõm, đi sau chồng.
Giá không có mảnh vải trắng che mặt, đố người lạ nào bảo chị là người nhà người chết. Và giá không có tiếng khóc, đố ai đoán là ngoài đường có đám ma. Thằng Cu thì chẳng biết gì. Nó thấy người ta ghé lưng, bảo nó ôm cổ để cõng. Nó ngơ ngác làm theo, hình như thích chí vì được đi lội.
Bốn người đẩy mảng, dò từng bước. Đi dưới nước đã chậm, thế mà đường lại trơn. Những bọt nước tóe bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm trên khúc chuối, bị gió, không sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả hương lẫn nến, nhưng vẫn tắt như thường.
Xung quanh, làn nước đỏ mênh mông, từ sáng đến bây giờ, mỗi lúc lên một cao. Chị Cu gào mãi nên rát cổ. Chị phải thôi khóc. Và cố bấm đầu ngón chân xuống đất, cho khỏi ngã.
Mực nước chỗ thấp thì đến bẹn, chỗ cao thì đến thắt lưng hoặc đến ngực. Cả làng chỉ còn có mỗi một nơi cao nhất, là khu giữa vườn nhà ông Lý, may quá, chưa bị ngập. Cho nên ngay từ khi anh Cu ngáp cái sau cùng, chị Cu phải kiếm cơi trầu lên xin với chủ đất, để nhờ chỗ chôn chồng. Ông Lý thương hại, vui lòng nhận lời, lại khuyên chị nên đưa ngay anh Cu "ra đồng" kẻo chỉ một giờ nữa, vườn ông cũng tràn nốt. Thật thế, cả làng, hiện nay chỉ có khu vườn ấy là hở. Còn thì từ ngoài đồng cho đến khắp các xóm, chỗ nào cũng những nước là nước. Nói đúng ra, giữa đồng cũng còn vài ba cái gò là còn nổi lên. Nhưng những đường ra đấy, từ khi mới có tin vỡ đê, tuần đã chặt tre rấp ngang lối, vít kín cả lại rồi. Chỉ còn một lỗ con con chui khe luỹ, người ta vẫn đánh trâu qua để thả cho nó bơi đến các gò, đứng nắng và ăn bèo Nhật Bản, thì lối ấy nhỏ quá. Vả trừ trâu ra, ai dám bơi qua những nơi ruộng sâu đến một con sào.
Chiếc mảng lênh bênh độ một lát, thì quàng vào ngõ xóm Trung. Tuy đường hẹp, nhưng lối đi cao dần. Nước đến thắt lưng, sau đến bẹn, rồi sau đến đầu gối. Rồi sau cùng, mảng chuối chịt lại, mắc cạn, không đi được nữa.
Người ta ghé tay bê áo quan. Chị Cu vác vồ cuốc lên vai, đi theo. Nước rẽ qua những cẳng chân đen thủi, kêu rào rào, tóe bọt trắng sang hai bên.
Chị Cu giục mọi người mau tay lên, vì chị lo ngại quá.
Quả nhiên, mới từ nãy đến giờ, nước đã láng gần khắp vườn nhà ông Lý. Chỗ đất vừa đào cách đây độ một giờ đã có những dòng nước ngòng ngoèo bò theo nơi thấp, và rỉ vào, ngập đến lưng huyệt.
Bốn người rảo cẳng, rồi đặt quan tài xuống. Họ nhảy vào hố, hai tay bốc nước, thoăn thoắt tát ra. Nhưng vô ích. Nước ra bao nhiêu, lại vào bấy nhiêu. Mà nước vào lại mạnh hơn nước ra. Tát cũng không kịp.
Bốn người thất vọng, bảo nhau khênh bốn góc cỗ ván. Hai người tiến, hai người lui, rồi cùng đứng ngay ngắn ở hai đầu huyệt. Họ cúi lưng, đưa thấp dần dần tay xuống. Chiếc quan tài hạ từ từ. Cảnh đau đớn làm chị Cu đứt từng khúc ruột. Chị muốn khóc cho hết nước mắt, gào cho hết hơi, để được chôn theo chồng. Nhưng bỗng chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới đội nổi lên. Tiếng khóc im bặt.
Bọn người nhìn nhau lo sợ. Lúng túng. Làm thế nào? Bàn tán hồi lâu, hai người nhảy xuống, đứng ở hai đầu áo quan để lấy sức nặng, thì nó mới chìm được. Nhưng nước vào huyệt đã nhiều, nên khi người ta vừa nhảy xuống, nước ở dưới dềnh lên, tràn qua ván thiên. Quan tài như chiếc thuyền đáy phẳng, nó bập bềnh. Hai người mất thăng bằng, ngã khuỵu, thụt cẳng xuống huyệt.
Cách ấy không được. ỳ ộp, mỗi người nói ra một kế. Chỉ làm sao thắng nổi có mỗi một tí nước, mới chôn được dễ dàng. Chị Cu tưởng tượng đến chồng bị ngâm sũng, chị thút thít, kể lể, thương con người đến chết còn vất vả.
Chẳng mấy chốc, chiếc quan tài vì nhẹ, lại tự nhô lên đến gần mặt đất. Cả huyệt đầy những nước mất rồi. Bây giờ mới là lúc khó khăn. Họ vẫn luẩn quẩn bàn bạc.
Sau hết, ba người phải lấy lưỡi cuốc, hếch kẽ ván cho nước ồ vào thực nhiều và cùng nhau đứng về một đầu cho sức nặng đủ dận được xuống đất. Một người lấy vồ chêm vào thành huyệt, ghì chặt lấy. Một người cuốc đất, và chị Cu khuân vội vàng, vứt xuống hố. Thấy thây chồng đầu cao đầu thấp, chị đau đớn lắm. Nhưng biết làm thế nào?
Họ lèn đất vào thành huyết và áo quan, rồi quẳng những tảng to lên trên. Cho đất đủ sức dìm một đầu quan tài, họ lại đứng sang đầu bên kia. Và cũng làm như trước. Họ thở ì ạch, khó nhọc như một cuộc vật lộn. Khi cỗ ván đã bị chèn chặt hai đầu, họ bèn rủ nhau lên, để hết sức đào đất cho nhanh chóng mà quẳng xuống. Nhưng họ vừa bước chân khỏi, cỗ áo quan đã bềnh lên theo. Song, được cái nó không nổi cao quá. Biết rằng sức phấn đấu có công hiệu, họ huỳnh huỵch làm một lúc nữa thật mau. Chiếc quan tài lần này chịu nằm gí xuống tận đáy huyệt.
Bây giờ họ đã đỡ vất vả. Chỉ còn việc đắp đất lên cho thành nấm mà thôi. ấy thế mà khi ngôi mả đắp vừa xong, nước đã láng vào khắp vườn, không còn hở một chỗ nào nữa.
Những con giun đất màu đen to bằng ngón tay út nổi lềnh bềnh, dập dềnh theo đà sóng, trôi với đám bọt rác.
+
+ +
Một giờ, lại một giờ. Mực nước lên cao dần, cao trông thấy.
Xung quanh mả anh Cu, có những lá tre khô bám vào. Rồi có bèo Nhật Bản. Rồi có cả bọt rác nữa. Thứ này bám vào chốc lát, rồi bị sóng lôi đi. Thứ kia ôm lấy nhau, nhảy nhót, chạm óc ách vào nấm đất mới đắp. Nước dập dờn liếm mãi vào khe những mảng đất, làm cho nó mủn ra. Rồi nó lở thành những cục con con, lả tả rơi từng tý một.
Độ nửa ngày, nước tràn qua mặt mả.
Gió hiu hiu. Bụi tre cót két như nghiến răng. Những lá vàng rào rào bay xuống, chạy trên mặt nước như thuyền buồm thuận chiều. Lúc nào sóng cũng dập dờn làm ải đất mả đắp dối. Hòn to không mấy chốc thành hòn nhỏ. Hòn nhỏ không mấy chốc bị cuốn đi. Nấm mồ bị vẹt dần. Rồi nó không cao hơn mặt vườn nữa. Rồi chẳng bao lâu, tự nhiên, ở dưới, nhô lên một tầng đất mới.
Tầng đất này cũng mỗi lúc một tý, bị sóng đánh, bị ải, và bị cuốn đi. Rồi hết lượt này đến lượt khác, đất ở dưới cứ nhô lên và cứ bị cuốn đi từng hòn nhỏ cho đến hết. Rồi sau hết, ục một tiếng, cả chiếc quan tài tự nhiên nổi bềnh lên. Nó nghiêng đi, hất tảng đất cuối cùng trên mặt ván trơn bùn như mỡ. Tảng đất rơi tõm xuống nước. Cỗ áo quan tròng trành, rồi đứng yên trên huyệt như chiếc thuyền bị cạn.
Chiếc quan tài nổi theo mực nước lên cao dần. Sóng bập bềnh cứ vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị vướng gì nữa. Nó quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc trôi ngang, lúc trôi dọc.
Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn, cạnh bờ lạch. Đến đây, nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó. Rồi một bè ngổ bám cạnh nó. Rồi một cụm bèo bám cạnh nó. Rồi cả một mảng vừa ngổ, vừa dừa, vừa bèo. Cả tảng bị nước đẩy ra lạch, nhưng không nổi.
Chiều gió đổi làm nhích dần mọi vật, mỗi lúc một tý. Nhưng cỗ ván gặp cành giong tự nhiên, rúc đầu vào bụi. Rồi lái ngang, hẩy mảng bèo ra cho nó chui qua khe rặng tre và theo dòng lạch trôi nhanh như mũi tên. Rồi một mình chiếc quan tài cựa quậy, như cũng muốn tìm lối ra chỗ rộng. Nhưng nó nặng nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất chậm chạp, vì thỉnh thoảng có gióng tre cản lại.
Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt cỗ ván và cong vênh một phần nắp lên. Cả người nằm trong, trương phềnh ra, cũng hình như không chịu được chỗ quá chật hẹp.
Chiếc quan tài như con thuyền không chủ, bập bềnh, lách theo lũy tre. Lúc nó dừng lại. Lúc nó nhích đi. Lúc nó giúi nghiêng, lại bạt vào bụi. Rồi sau hết, nó tới một chỗ có khe rộng. Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh vào tre hai bên, rồi đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy vòng, rồi lừ lừ, nó trôi dọc theo dòng nước...
Tiểu thuyết thứ bảy số 180; 1937.

Hai thằng khốn nạn

Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã rút rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi nữa.
Cỏ tàn khắp cánh đồng xa,
Bên làng hoang huỷ mấy nhà lơ thơ,
Đầu đường mẹ bế con thơ,
Người tìm sang Bắc, kẻ đưa về Đoài.
Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm. Gia tài tuy chẳng được là bao, nhưng đến cái cảnh tai bay vạ gió mà sạch sành sanh, thì dẫu ông vua đời xưa mất nước, hay thằng bé bây giờ mất tiền, cái tâm lý cũng đau đớn ngang nhau vậy.
Không những thế, vợ bác lại mới chết về bệnh dịch, để cho bác một dứa con trai mới biết ngồi. Cái cảnh gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy.
Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Của chìm của nổi đã không còn gì, nhịn cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. Nếu mai cũng thế này nữa, thì bố chết đói, con chết đói. Âu là trong nhà còn một thứ của nổi nữa, đem bán nốt đi chăng?
Bác Lan nghĩ thế thì làm thế. Bác xin được cái thúng sứt cạp bện đôi quang và chẻ cái đòn gánh. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Một bên quang là một tảng gạch để thăng bằng thúng hàng bên kia. Một bên quang là một cái thúng đựng hàng. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.
Bác đi lang thang làng này, làng khác, qua chợ nọ, chợ kia. Nhưng chỉ thấy có người xem, mà không thấy có người mua.
Bác Lan đói quá, mắt đã mờ. Thằng bé con trần truồng trong thúng, nằm ngả ra, mồm miệng bê bết những dãi, mũi và vỏ khoai lang. Đi đường, bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. An ủi nhau cũng chỉ có một câu:
- Này, bác đến nhà ông nghị Trinh, may ông ấy hiếm hoi, thì ông ấy mua cho.
Đi lần mãi mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng, trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng.
Bác Lan đánh liều gọi cổng. Anh bếp ở trong chạy ra:
- Nhờ cậu vào bẩm với ông bà rằng có người bán con đương ở cổng.
Cậu bếp hỏi han một vài điều ra dáng tử tế, săn sóc, nhanh nhẹn lắm, rồi mới đi vào.
Bác Lan, vì cái đói khát cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no đầy. Nhưng tưởng tượng thế là lầm. Độ một giờ sau, bác thấy một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ môi trề mà không râu, mặc quần áo lụa, phe phấy cái quạt, ra vườn chơi.
Bác đoán là ông Nghị, bèn đánh tiếng. Thì quả là ông Nghị thực. Vì nghe giọng nói hách dịch lắm:
- Sao không giật chuông gọi người nhà nó vào bẩm?
Bác Lan kể nỗi cơ cực, và ngỏ ý dạm bán đứa con. Ông Nghị nhìn qua bác, nhìn qua đứa bé, rồi nói:
- ừ, để rồi tao nói chuyện với bà sẽ hay. Chờ đây, tao ra ngay.
Nghe câu ấy, bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như được no một nửa vậy.
Hơn nửa giờ nữa, ông bà Nghị mới ra.
Bác Lan chào, rồi cũng những câu khi nãy, bác nói với bà Nghị. Bà Nghị ra ý cảm động. Bà bế đứa con vào lòng, ngắm nghía mãi.
Ông Nghị thấy bà có vẻ vừa ý, bèn hỏi giá:
- Mày định bán bao nhiêu, nói cho thực.
- Bẩm tùy ông bà cho.
Người bán không nói giá, người mua không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người như chúng ta đấy, khéo nuôi, khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!
Ông Nghị thấy bác Lan lưỡng lự, không muốn nói giá, thì đương ngồi xổm ở trước cái thúng, bỗng ông đứng phắt dậy:
- Đáng lẽ anh cho không tôi, tôi cũng không lấy, vì tôi phải nuôi nó cho anh. Nhưng thôi, việc phúc đức, tôi cho anh ba hào, cầm lấy!
Vừa nói, ông vừa móc túi lấy tiền đưa. Bác Lan gãi tai thở dài. Có lẽ không ngờ đâu cái giá trị một thằng bé con có thế mà thôi.
- Thưa ông...
- Tôi không nói lôi thôi. Ông với ênh gì! Tôi không quen mặc cả. Ba hào không bán thì thôi!
Nói xong ông quay lưng vào, gọi bà đi, và đóng cổng lại.
Bác Lan vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Chờ mãi cũng không thấy có người ra trả thêm xu nào.
Nửa giờ sau, bác không thể nào nhịn nổi được cái dạ dạy rỗng tuếch từ hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường. Nghĩ vậy, bác giật chuông. Một lát, ông Nghị ra.
- Thế nào? Anh có định bán như thế không mà gọi?
- Thôi, lạy ông, ông thương phận nào, con nhờ phận ấy.
- Thương là thế nào! Nói cho dứt khoát. Bằng lòng bán ba hào không?
Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát:
- Vâng!
Ông Nghị đưa bác vào trong nhà. Làm giấy má xong, ông còn xem xét đứa bé rất kỹ càng. Khi thấy sau lưng nó có nhiều nốt ruồi quá, thì ông có ý không bằng lòng, chê bai mãi rằng xấu. Xấu thì phải bớt tiền. Cho nên khi trả, ông không cho bác cả ba hào, mà phạt hai xu nốt ruồi!
Bác Lan lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo thì bị trả tiền lại. Nghĩ nực cười, mình đã khốn nạn, lại gặp phải một thằng khốn nạn hơn, thì thôi, chịu cầm hai hào tám vậy.
Bác bế đứa con lần cuối cùng, hôn hít, dặn dò mãi, mới dứt. Khi ra ngoài cổng, bác đi không nỡ, tình cha con vướng vít, bác nghĩ muốn trả lại hai hào tám mà lấy con về.
Bác đứng lại, quay nhìn trong nhà ông Nghị, thì thấy kẻ bưng chậu nước, người lấy xà phòng, người tìm khăn mặt. Bà Nghị thì tự tay tắm cho đứa bé, ra dáng âu yếm, nâng niu. Bác nhìn mà cũng hả tấm lòng, nỗi đau đớn cũng như tiêu tan vậy.
Còn ông Nghị, hai mắt vẫn nhìn cái lưng nốt ruồi, nét mặt còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy. Một chốc, ông ra ý hối hận, nói với vợ:
- Bà ạ, hoài của, giá bớt hẳn năm xu, nó cũng phải chịu.
- Sao ông nghiệt thế! Tiền hàng vạn lo nghị viên không tiếc, mà mấy xu này lại tiếc hay sao?
Ông Nghị đang tức hơi, phát gắt mà rằng:
- Tiêu những món đáng tiêu thì còn tiếc cái gì! Thằng bếp đâu! Mày chạy đi tìm thằng bán con ban nãy, bảo nó giả tiền tao mà lấy lại con lập tức!
Bác Lan giật nẩy mình, co cẳng, ù té chạy bán sống bán chết, vừa chạy vừa đếm:
- Một, hai. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám...
Viết 7-6-1930
Annam tạp chí số 12; 1930

Hai cái bụng

hôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở lề đường. miệng nó há hốc ra mà thở.
bởi vì, cũng như hôm qua, và cũng như hôm kia, hôm kìa, nó đã đi lang thang hết chỗ này đến chỗ nọ, mà chẳng kiếm được tí cháo lưng hồ.
nó?
nó là sự đói khát, kinh tởm, kết thành hình.
nó có cái sọ đếm được tóc. không biết một thứ bệnh gì hương hỏa của cha mẹ đã làm cho cả da chỗ ấy nhẵn thín, bóng lộn, đỏ đòng đọc như cái mụn đương loét, khiến tóc nó chỉ có thể mọc lơ thơ, như vầng cỏ trên tảng đá cằn.
nó có một cái mặt - mẹ ơi! không biết có gọi được là mặt không đấy! - mặt gì mà mắt lại thế kia, và miệng lại vô dụng thế được. phải, mắt đâu có thứ mắt xung quanh là một hình bầu dục, vẽ bằng vành thịt trơ đỏ lầy nhầy, lúc nào cũng ứa ra một dòng nước vàng và giữa thì lờ đờ một hột nhãn, thứ hột nhãn non choèn, vàng ễnh. còn cái miệng nó thì dô ra như miệng khỉ, hai hàm răng to tướng, lúc nào cũng cầm cập hục hặc với nhau. nhưng thế không phải để nhai, mà để run. vì trời rét.
những quần áo nó mang vào người chỉ có một mục đích là che cho thân nó không kín. chắc là những thứ giẻ khươm mươi niên, người ta vứt đi, vì bợt quá. nhưng nay nó buộc miếng nọ với miếng kia, díu mảnh này vào mảnh khác, và vì dùng lâu ngày, nên cũng dày thêm bằng tầng mồ hôi, quện với ghét, và bụi. Đố ai đếm nổi tất cả có bao nhiêu chỗ rách và những chỗ rách ấy hình gì. Đố họa sĩ nào pha đúng được màu quần áo ấy - và nếu có cởi những thứ ấy ra, đem treo lên cho công chúng đoán - đố ai dám nói đó là đồ mặc của người.
vậy thì, với bộ quần áo xơ mướp ấy, nó biến thành một cái bù nhìn. bù nhìn là cái khung có hai tay và hai chân làm bằng ống tre, thì nó cũng là cái khung có hai tay và hai chân chẳng to hơn mấy. bù nhìn có bộ mặt chẳng thành hình, thì nó có bộ mặt cũng dúm dó, xấu xí như con ma dại.
nhưng bù nhìn chỉ làm cho chim chóc phải sợ hãi, nhưng nó thì có thể làm cho người ta không dám đến gần. vì đến gần nó, trông thấy nước da đen sạm, dăn deo của nó, người ta tưởng như đó là cái thây ma chưa tiêu hết hiện về. và cũng có mùi hôi thối xông lên. và cũng có ruồi nhặng bám vào để hút chất bẩn.
thật thế, một đống rác, chưa đáng sợ, đáng tởm bằng nó. vậy mà nó phải đi hết chỗ này đến chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày.
Để nó sống.
vì nó chưa chết.
nó đã đi ăn mày. nhưng ai cũng đuổi nó quầy quầy. người ta quen cho những người sạch sẽ, có nét mặt đáng thương, có quần áo còn dính đôi chút mỹ thuật. người ta chỉ bố thí cho kẻ ăn xin "hạng nhất". còn nó, nó đi đến đâu, người ta đóng cửa, người ta chửi, hoặc người ta mặc kệ cho chờ chán thì phải cút.
cho nên nó phải làm lấy mà ăn. nó đến các chợ, vét những tí bánh còn dính trên lá, và gậm những mẩu khoai vứt còng queo trên đất sạn. nó lạy van đứa ăn xin khác bớt cho nó chút canh cặn cơm thừa.
nhưng mấy hôm, chỉ có ngần ấy thứ tọng vào bụng, nó sống làm sao được? nó phải ăn đến thịt nó. bởi thế, nó gầy hơn, nó còm hơn, nó đét lại, không đủ sức lê nổi tấm thân đã mòn. bởi thế, chân tay nó lúc nào cũng run rẩy như cầy sấy, mắt nó giương to tướng, nhưng vẫn lờ đờ. nó không bệnh tật gì, song nó ngây ngô như người ốm.
hôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở lề đường. miệng nó há hốc ra vì đói.
nó chỉ thèm được ăn.
+
+ +
bà ấy thì đến một tháng nay, cứ phải uống thuốc mãi.
Đầu tiên, ông đốc tờ tây đi ôtô đến nhà, đem đủ các thứ đồ dùng để nghe ngực, thử máu. rồi ông bóp trán, kê cái đơn, mua mất ngót một chục đồng bạc thuốc.
nhưng uống thuốc, mà bà ấy vẫn thấy thế, bà bỏ dở không dùng.
có người mách một bác sĩ người nam chữa bệnh giỏi lắm. bà ấy cho mời liền. và cũng như bận trước, thuốc không công hiệu.
bà cho là thuốc tây không hợp với tạng bà. thuốc tây chỉ tài về khoa cấp cứu. chứ bà phải dùng thuốc bắc. thuốc bắc, tuy hiệu nghiệm chậm, nhưng khi đã ngấm vào trong tạng phủ người ta, thì nó chắc chắn lắm. nó hợp với bà hơn.
bà bèn mời một ông lang ta. quả nhiên, ông lang cũng đồng ý với bà, bảo rằng thuốc tây chữa người nam không được. vì nó chỉ làm để cho người tây dùng. vả lại, đốc tờ chỉ hay dọa dẫm, động một tí là lao, là đau dạ dày, là thương hàn, là đến một nghìn thứ bệnh nguy hiểm khác.
Ông lang rón hai ngón trên cổ tay bà, trầm ngâm. Ông lim dim đôi mắt. rồi lúc tóm trúng bệnh, ông lấy bút giấy kê đơn lập tức. Ông hẹn uống một chén, bà sẽ thấy khác ngay. uống đến ba chén, bà không còn một tí gì khó chịu trong người nữa. lúc đó, chỉ cần dăm thang thuốc bổ, là bà lại khỏe mạnh như thường.
bà cho người lên hiệu bào chế cân thuốc. bà yên trí thuốc có nhiều vị đắt tất là hay. bà chẳng tiếc tiền, bỏ ra hơn năm đồng, đổi lấy một bát nước sánh như mật.
nhưng nghe ngóng một hôm tròn, bà chẳng thấy bệnh chuyển. vẫn thế.
kiên tâm, bà lại cân chén nữa. và chén nữa. nhưng bà lắc đầu, chịu không thể tin được mấy ông lang ta chỉ khuyếch khoác cái mồm.
rồi bà mời đến ông thầy khách. thầy khoe nhà thầy đã ba đời làm thuốc ở bên an nam. thầy nói tiếng an nam sõi như người an nam, tuy thầy đã già và tứ đại đồng đường. nhìn bộ râu bạc dài dưới cằm thầy, con bệnh tín nhiệm ngay. vậy mà thầy cần làm khách hàng tín nhiệm hơn, nên hết gièm pha thuốc tây, đến chê bai các ông lang an nam. thầy rằng không ai biết gì hết. duy thầy mới khiến nổi bệnh này.
thầy cũng xem mạch, và xem cẩn thận lắm. thầy hỏi vặn từng tí, và sau hết, bảo bà cho người nhà theo về hiệu lấy thuốc. thầy cam đoan bà uống thuốc này không phí tiền.
nhưng chán chưa! thuốc ấy cũng chẳng ăn thua gì cả.
lạ quá. bệnh gì lại có bệnh thuốc không trị nổi bao giờ!
bà ấy có bệnh gì?
không biết.
vì mấy ông thầy thuốc không ông nào nói rõ.
nguyên là bà ấy béo quá - gớm! béo đâu có béo lạ béo lùng thế! - béo đến nỗi hai má chảy ra, cổ rụt lại. béo đến nỗi bụng sệ xuống. béo đến nỗi trông phát ngấy lên!
mà bà ấy lại giàu nữa mới rầy rà chứ! nhà, bà ấy có hàng dãy ở khắp các phố. ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà quê. tiền, cạnh tường buồng ngủ, cái két khổng lồ, lúc nào cũng chứa hàng tập giấy trăm lớn.
bà ấy có đủ điều kiện để sung sướng.
nhưng chỉ có một tí xíu mà trời chẳng chiều cho ai được hoàn toàn. là bà ấy yếu dạ lắm.
bà ấy chỉ phiền về mỗi chỗ ấy.
thế mà hôm cuối tháng trước, một bà bạn mời bà ấy đến ăn cỗ cưới con gái. bà ấy đã tính chối từ, song lại sợ bị trách.
cho nên bà ấy phải dằn lòng đến ngồi vào mâm cơm.
bà bạn gắp tiếp, ép ăn những bóng, những mực, những long tu, những vây cá, và đến trăm thứ khác nữa.
nể bạn, bà ấy ngắc lên đến cổ. và lo quá, vì biết rằng xong bữa cỗ này, rồi thế nào cũng có chuyện lôi thôi to đây.
quả nhiên, từ hôm ấy đến nay, bà ấy cứ thấy bình bịch cái bụng, lúc nào cũng đầy đầy, không tiêu, khó chịu quá.
khổ thật! thuốc thang chịu, uống đến thế mà bà ấy không đói cho!
bà ấy chỉ thèm ăn được.
tiểu thuyết thứ bảy số 245, 1939.

Công dụng của cái miệng

mẹ chồng chị cu sứt chết vừa nãy. tin ấy chẳng mấy chốc bay đi khắp làng.
ở nhà quê, có việc gì cỏn con xảy ra mà người ta không biết ngay tức khắc? huống hồ mẹ chị cu sứt ốm liệt giường liệt chiếu đến dăm hôm nay và cấm khẩu từ lúc gà gáy.
cho nên, cần gì phải đăng cáo phó trên báo, các cụ, các quan, các ông, các bà cùng thân bằng cố hữu mới biết?
thật vậy, trên từ "các cụ" lý trưởng, thư ký, giữa đến "các quan viên" hàng xã, rồi đến "các ông các bà" hàng xóm, dưới đến "thân bằng cố hữu" cùng đinh của anh cu ngày xưa, chỉ trong một loáng, miệng nọ truyền sang miệng kia, ai nghe tin đau đớn cũng điềm nhiên và cho là có thêm một chuyện mới để gặp người quen thì nói.
rồi họ tỏ cảm tình với người quá cố.
"thân bằng cố hữu" thì bảo nhau để sửa soạn:
- này, có liệu trốn đi không, kẻo chị ấy đến nói khó nhờ khênh đòn lại nể, mất công mà chẳng được gì.
"các ông" thì phê bình:
- già mà nghèo, không có tiền uống thuốc, thì chỉ ốm một trận xoàng cũng đủ ngoẻo.
"các bà" thì dài lời hơn. Đại khái:
- ối giời ôi thế à? thế thì bà ngồi đây nhé, để tôi chạy ù lại đằng ấy, giao hẹn với chị cu sứt là mẹ chị ấy còn vay của tôi năm đấu gạo độ trong năm đấy.
hoặc:
- ngày xưa, ông ấy (tức là chồng người chết) có phúng ông tôi ba hào thật, nhưng lúc ông ấy chết, bà tôi đã phúng lại những ba hào với một cành cau, cau dạo ấy đắt. thế mà khi bà tôi mất đi, bà ấy làm ăn còn khá, tôi chả thấy bà ấy phúng lại cái gì, thì việc gì bây giờ tôi phải phúng giả nợ.
"các quan" thì nhìn nhau, lắc đầu một cách nhạt nhẽo:
- nhà nào chứ nhà ấy thì suông, còn có cóc khô gì mà mời chúng ta nữa.
"các cụ" thì tức lắm. cụ lý bảo cụ ký:
- mẹ kiếp, không khéo cụ lại mất giấy mực khai báo toi. làm thư ký mà từ đầu năm, trong làng chỉ rặt những đám chết thế này thì lấy gì mà hút. thật là quá quắt, cụ nhỉ?
+
+ +
nước ta là nước văn hiến. ai cũng bảo thế. bởi vậy, những việc quan, hôn, tang, tế, đều phải làm theo lễ nghi. trong nhà, lỡ ra có người chết, đố ai không mở sách ra tra, hoặc hỏi han người quen việc, xem phải làm những gì.
- chẳng may bà cháu nằm xuống, nhờ bác bảo hộ tôi nên thế nào.
chị cu, nước mắt chạy quanh, rẽ hàng rào râm bụt, hỏi bác đĩ tư câu ấy. bác đĩ nghĩ một lát, rồi đáp:
- thôi thì tùy gia phong kiệm, mà tử đắc táng vi vinh. nhà bác chẳng có gì, thì kiếm bộ áo cho tốt, rồi ngày mai, rước cụ ra đồng.
- vâng, nhưng mà tôi ăn mặc ra làm sao.
- thì cứ phải xổ gấu chứ, bởi vì ông cụ về trước bà cụ kia mà.
- thế còn các cháu?
- thằng cu phải xô gai để chống gậy thay bác giai, và cũng phải trở ba năm đấy.
chạnh nhớ chồng và nghĩ đến cảnh goá bụa, chị cu sụt sịt. bác đĩ ngăn:
- ấy, chớ, phải may xong áo, lập xong bàn thờ mới được khóc. bây giờ trong nhà cứ phải im phăng phắc như lúc bà cụ hãy còn mới được.
+
+ +
người quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu sứt, thì ngoài bác đĩ tư ra, cố nhiên là còn có cụ thư ký.
nghe tin bà ta chết, cụ thở vắn thở dài, gắt gỏng vợ con ỏm tỏi. song, cụ chưa thất vọng hẳn.
cụ chiêu một hớp nước vối nóng, thở phì một cái, khói thuốc phiện loãng phi thẳng ra miệng. cụ tháo diện tẩu, và, trong khi chờ cho nguội để nạo, cụ vén quần lên, gãi đùi sồn sột.
- Ơ hay, nó đi đã về chưa, mày?
cụ hỏi vậy. nhưng không ai trả lời.
nóng ruột, cụ lấy cái giẻ để đệm tay, rồi vừa ngước mắt lên xà nhà để nghĩ ngợi, vừa cầm móc để nạo. tiếng xái sào sạo long, rồi đến tiếng sắt quèn quẹt ở phía trong tẩu đã nhẵn thín. cụ dốc miệng tẩu vào chén, gõ vào diện cồm cộp, rồi lại đánh. cụ nạo, nạo mãi, nạo quèn quẹt, dễ thường đến chảy máu tẩu.
cụ lập bàn tĩnh lúc này khí thất thường. mọi ngày, cụ vẫn xơi thuốc vào lúc cơm xong.
nhưng hôm nay, cụ cần hút ngay buổi sáng. một là để khuây khoả sự buồn bực về chức vụ: Độ này, sinh chả có, giá thú chả có, chỉ độc một số tử "chó chết". hai là còn mấy điếu xái của khách thuốc thết cụ chánh tổng tối qua, có lẽ vẫn còn dùng được, cụ hút đi cho đỡ phí của. ba là cụ để cho chị cu sứt đến trình khai tử cho mẹ chồng, cụ lấy sự ăn tiêu xa xỉ ra làm chứng, để bảo ngọt chị phải biện cái lễ xứng đáng.
bỗng anh người nhà về, nói:
- thưa cụ, đích là chết rồi.
- mày thấy tiếng khóc chưa?
- chưa.
- sao mày biết là chết?
- con hỏi thăm.
- thăm ai?
- ngay chị cu sứt ạ.
- tốt. thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình à?
- không ạ.
cụ cau mặt:
- Đồ khỉ!
+
+ +
trong tang gia đã nổi lên những tiếng khóc thảm thiết.
người đàn bà góa xõa tóc, gục đầu bên cạnh cái thây ma mà tru lăn tréo lộn.
cái thây ma ấy bây giờ đã cứng đờ trong lần vải liệm trắng, bên cạnh đặt bát cơm, quả trứng luộc, có cắm chiếc đũa bông và dăm nén hương.
- ối mẹ ơi, cực nhục lòng con, mẹ đi đâu mẹ bỏ con bơ vơ như chim mất tổ...
rồi nhớ đến chồng, chị gào:
- ối anh ơi, anh đi đâu để vợ con anh mất trông cậy, để thân tôi cực nhục trăm chiều, anh ơi là anh ơi!
nhưng bỗng một tiếng quát:
- im miệng.
chị cu ngẩng dậy, hếch cái mũ mấn ra để nom. chị xỉ mũi, lau vào gót chân rồi quệt đôi mắt đẫm lệ:
- lạy cụ ạ.
cụ thư ký - không biết đã sẵn sàng ở đó từ lúc nào - mặt hầm hầm, trỏ ba toong vào mặt chị, hất hàm hỏi:
- ai cho phép mày khóc?
- lạy cụ, mẹ con chết thì con khóc.
rồi không nhịn được nỗi thương tâm, chị ti tỉ:
- mẹ ơi!
hai mắt long lên, cụ ký giơ năm đầu ngón tay:
- Ông thì vả vỡ tan họng mày ra bây giờ! mẹ mày chết, mày đã trình báo gì tao chưa, mà đã dám khóc?
- ối mẹ ơi, tôi có miệng thì tôi khóc, chứ ông cấm thế nào được tôi.
cụ ký cáu tiết, hung hăng đập gậy vào chiếc quan tài, còn rỗng không, nhìn tên người nhà, quát:
- thằng xiệng, mày vả vỡ miệng nó ra cho ông. lôi nó ra đình kia. khóc à!
tiểu thuyết thứ bảy số 306; 1940

Răng con chó của nhà Tư sản

Lúc ấy, độ sáu giờ chiềụ Một cái ô tô đằng xa chạy lạị ánh sáng hai ngọn đèn pha chiếu tóe đến chân trờị Xe qua cầu, đến trước cái nhà tây có giậu sắt thì còi bóp ran như ếch kêu và dừng lạị Khi ô tô chưa đỗ hẳn, thì đã thấy con chó nhảy vọt từ trên xuống đất, ngoe nguẩy đuôi vừa sủa, vừa chồm lên hai người đương bước xuống. Hai người đó, một người là chủ nhà này, còn một người là khách.
Đèn xe tắt. Cửa xe đóng. Chủ khách bước vào nhà. Họ đều âu phục, mặc lối đi săn, trên đôi ghệt còn bê bết những bùn, vai đeo súng, tay xách xâu chim nặng trĩụ Con chó chạy trước, vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa vẫy đuôi, vừa ẳng.
Chủ mời khách vào xa lông. Buồng này bày biện đúng kiểu tân thời, toàn đồ bằng gỗ lát đánh bóng nhoáng. Tường nhà quét vôi xanh, gạch chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. Cứ trông buồng khách, cũng đủ đoán tất ông chủ nhà này là một nhà giàu, ăn chơi lịch thiệp.
Bà chủ vừa trang điểm xong, ra ngồi đó để tiếp khách. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lưỡi, nhìn hết người nọ đến người kiạ
Người đời ai được phú quý cũng hay khoe củạ Cho nên, dù khôn ngoan khéo léo hơn người, ông chủ nhà này cũng mắc phải cái bệnh ấỵ Nay cái dinh cơ này, cái ô tô này, cái bộ buồng khách, buồng ăn này, đối với ông, đã là cũ rồi, khoe lắm cũng chán miệng, cho nên ông nói đến cái mớị Cái mới đây, là con chó Lụ
- ấy, chính nó là giống Bleu d Auvergne đấy, bác ạ. Tôi mua nó mất ba trăm bảy mươi đồng. Cái người Tây bán nó cho tôi, vì nể tôi lắm, mới để rẻ thế. Cứ kể ra thì những hơn bốn trăm kia! Cũng có con đẹp hơn thế này, những hơn năm trăm. Nhưng kể ra An Nam mà đã dám bỏ ra ngót bốn trăm bạc để mua chó, thì đã là ngông lắm rồi! Vả lại, người mình mấy ai chơi chó sành, cho nên mua con nhiều tiền quá cũng phí mất. Này, bác ngắm kỹ nó mà xem. Giống chó này tai to, mũi lúc nào cũng ướt ướt, chân cao và to, lốm đốm. ấy, không biết nhận xét thì lầm với giống khác đấỵ Con này, tôi chỉ yêu về cái đầu vuông như chữ điền, này, nét ngang đây nhé nét sổ đây nhé,, thần tình không? Con nào được cái bụng thon, mõm ngắn, nhất là hai lườn phình ra như lườn dê thế này, là khoẻ và nhanh lắm đấỵ Hẳn ban nãy, bác đã thấy cái dáng nó oai vệ là ngần nào rồi đấy nhỉ. Có phải bao giờ nó cũng đi trước tôi mười thước không? Cứ lấy thước mà đo, cũng chả sai mấy tí đâụ Lúc đi như thế, cái mắt nó đưa đưa cái mũi nó ngửi ngửi, trông đẹp đáo để. Khi nào nó đánh hơi thấy chim nấp ở trong bụi, thì nó gục đầu xuống, khẽ ngỏng ngỏng cái đuôị Thế là tôi biết hiệụ Lúc tôi lắp đạn xong, tôi "chutt!" một tiếng, thì nó chồm ngay vào con chim. Anh chim bay ra, "Pan!" thôi còn chạy đằng trời! Mười lượt như thế cả mười, chẳng sai một lượt nào!
Lúc ấy, con Lu ngồi trên ghế, đối diện với chủ, chúm chúm cái mõm để nghe chuyện.
- Không những nó săn giỏi, mà giữ nhà, tìm đồ đánh mất cùng tàị Bây giờ bác thử đưa cái kính của bác cho nó ngửi hơi một lúc, rồi bác giấu vào trong vườn, tôi bảo nó tìm cho mà xem.
Được ông bạn cũng là người hâm mộ chó, cho nên thử biệt tài con Lụ Quả nhiên, chưa được năm phút, con Lu đã ngoạm cái kính, ngoe nguẩy đuôi, đưa trả khách.
ông chủ đắc chí, cười ha hả, vuốt ve, vỗ mãi má nó, rồi bế nó vào lòng, hôn lấy hôn để, vui thú như được cậu con hay chữ vậy!
- Tôi nuôi nó cẩn thận lắm. Tôi không cho nó ăn dưới đất bao giờ. Cho nên nó quen thói sạch sẽ và khôn ngoan lắm. Thế mới biết cái giống chó Tây nó cũng hơn cái giống chó An Nam mình thực. Chó An Nam thì lông đã xấu, lại hay ăn bẩn, đã ăn bẩn lại hay cắn càn. Lắm bận, nó lừ lừ ở đằng sau mình, rồi đớp trộm ngay một miếng vào quần, mới nan du chứ! Con này, hễ đã lên tiếng thì y như có kẻ gian vào nhà. Nó chồm hẳn lên mặt mà cắn, thằng trộm nào vô phúc vào nhà này thì hẳn là mất chỗ đội nón! Nhưng chỉ từ mười giờ đêm trở đi, nó mới sủa mà thôị
Lúc ấy, cơm bưng lên, để trên bàn ăn. Chủ khách đang mời nhau lại ngồi, thì con chó đã nhảy tót lên bàn, chồm chỗm ngồi trước chủ.
- Con Lu này được cái lễ phép lắm. Tôi dạy mãi mới được đấỵ Này, đĩa đồ ăn của nó đây nhé, cơm trộn với thịt, ngon lành thế này, nhưng tôi chưa cho ăn, thì đố dám ăn. Ngay khuất mắt mình cũng vậỵ
ông chủ cầm đĩa đồ ăn của con chó, mang ra sân đằng trước. Khách và con vật đi theo saụ
Con Lu vẫy đuôi, ra dáng mừng rỡ. ông chủ để đĩa cơm ở giữa sân. Con Lu cúi cổ xuống ngửị Nó sắp ăn, thì chủ nó mắng ngay bằng tiếng tây:
- Tăng xông1
Thấy không được phụng dưỡng tử tế như mọi khi, con Lu từ từ lui rạ
- Ta không cần phải coị Lúc ta ăn xong, mà đĩa này nó vẫn không dám đụng đến đâụ Thôi, mời bác vào xơi cơm.

--------------------------------------------------------------------------------
1. Liệu hồn.
--------------------------------------------------------------------------------

Lúc bấy giờ, giá ông chủ có ý một tí, thì chắc đã thấy một vật gì đen đen, lù lù ở ngay ngoài cổng. Đó là một người ăn mày, ngồi bó giò ở đấỵ Người ấy đội cái nón toạc tung cả cạp, đã đóng khố, lại mặc cái áo rách cụt cả taỵ Thành ra bốn chân tay khẳng khiu, đen thui thủi, dài ngoằng ngoẵng. Cái bị bẹp há hốc miệng, nằm chờ bên cạnh cái dạ dày lép kẹp.
Người ăn mày chờ đấy từ lâụ Thấy trong nhà lạch cạch tiếng đũa bát, mùi đồ xào theo chiều gió đưa ra, hắn gào lên xin, mà cũng chẳng có ai nghe tiếng. Lúc hai người ra sân, hắn lạy van vã bọt mép. Nhưng hai ông còn đương dở bận chơi với chó, không ai để ý đến ngườị
Người ăn mày biết thế, nên lại cố lấy sức để gào tọ Nhưng cái tiếng hết hơi của hắn đập đến màng tai ông chủ, thì ông chủ trợn mắt, hầm hầm quát:
- Làm gì mà léo nhéo lên thế? Làm át cả câu chuyện của người ta! Bước ngay! Không ông đá cho một cái thì chết bây giờ!
Người khốn nạn im thin thít. Chủ khách bèn vào buồng ăn cơm.
Lúc ấy, hai con mắt người ăn xin chòng chọc nhìn vào đĩa cơm của con chó. Hắn thèm quá. Nước dãi chảy ròng ròng, không nuốt kịp. Muốn vào ăn trộm một miếng, nhưng chỉ sợ con chó cắn cho một miếng thì chết! Hắn thấy con chó cứ đứng gần đĩa cơm mà không ăn, thì không hiểu ra làm saọ Hắn tưởng con chó chê cơm nhạt, không thèm ăn, thì hắn muốn đánh đổi số phận hắn cho con chó nhà giàu!
Giá con chó biết tiếng người, hẳn hắn đã lân la đến gần để đánh bạn, rồi kể lể nỗi đói khát, có lẽ, chỗ anh em, con chó cũng động tâm mà lấy tình "nhân đạo" nhường cho hắn đĩa cơm ấỵ Hay là vì hắn xù xù ngồi đó, cho nên con chó phải đứng canh chăng? Hắn liền lẩn ra sau cái cột cổng để dòm vàọ Một lúc, quả hắn thấy con chó lừ lừ ra nằm chỗ khuất bóng ở cạnh tường.
Được dịp may, người ăn mày đánh liều dồ ra, tiến gần lại mấy bước. Nhưng con chó lập tức đứng dậy, cũng tiến gần lại mấy bước, vừa đi vừa gừ. Thằng người giương hai mắt nhìn con chó, con chó cũng giương hai mắt nhìn lại thằng ngườị Thành ra đĩa cơm ở giữa, người tiến thì chó cũng tiến, người lui thì chó cũng luị Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thù không đội trời chung vậỵ
Cứ như thế, không bên nào chịu bên nàọ Độ hơn mười phút, người ăn mày cùng thế, nghĩ ngay được một kế. Tay hắn vớ được hòn đá to tướng, thu thu đằng sau, chạy tọt lại đĩa cơm, rón một miếng rõ nhanh, đút tỏm vào mồm.
Nhưng con chó nhanh hơn. Nó cũng chồm vọt lại, nhẩy xổ lên, há mồm, nhe răng ra cắn. Người ăn mày giơ thẳng cánh tay, nhằm giữa mồm con chó, uỵch hòn đá một cái rõ mạnh. Con chó ẳng lên một tiếng, rồi nhanh như chớp, nó vật được kẻ thù xuống đất, giơ hai chân ra cào mặt và móc mồm. Nhưng nó bị ngay một cái đấm nữa vào đầụ Nó chịu buông thằng người ra, nằm sóng soài, ẳng rầm lên.
ông chủ đương ăn cơm, nghe tiếng chó kêu, vội bỏ cả bát đũa, lẫn vợ, lẫn khách, ông cầm đèn hấp tấp chạy ra:
- Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng rồi! Khổ tôi quá!
Thế rồi thét người nhà váng lên, ông bế con Lu vàọ Còn mình thì chạy ra cổng xem ai đánh chó. Bỗng ông trông thấy ở đằng xa, có cái bóng đen đen, chạy nhanh tít, ông bèn bấm đèn ôtô để chiếu theo, thì trông rõ người ăn mày ban nãy đương chạỵ
- à, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!
Nói đoạn, ông tắt đèn pha, phóng xe hết sức nhanh để đuổi theọ..
Viết 12-1929
(Đăng Annam tạp chí số 23 - 1931
với nhan đề Răng con vật nhà tư bản).

Hết

Người vợ lẽ bạn tôi

Cái lần tôi đến thăm anh Quý ở Bắc Ninh, vào hồi sáu tháng trước đây, là lần tôi thấy anh ấy đối với tôi nhạt nhẽo và ngượng nghịu nhất.
Tôi không ngờ và cũng không để ý đến thái độ ấy. Vì hai chúng tôi thân với nhau từ thuở để chỏm. Có thể nói theo lối thiếu vệ sinh nhưng đầy thi vị, là "con chấy cắn đôi".
Vì chúng tôi đã lâu mới gặp nhau, nên bao nhiêu chuyện để trong bụng bấy nay, tôi lôi hết ra để nói. Và cố nhiên, khi chuyện đã hết, tôi thấy đói. Tôi ngồi yên, ngáp vặt, đợi cơm trong buồng khách tranh tối tranh sáng. Bỗng anh Quý ngập ngừng, rồi cười và bảo:
- Này, anh ạ, cái "trống cà rùng" hồi ấy, tôi mới cho về ở đây.
Nói xong, anh lại cười, bằng cái cười chữa thẹn. Mà tôi thì sực nhớ ra.
Nguyên từ ngày Quý đổi về Bắc Ninh, anh không đem vợ đi theo nữa. Anh thường phàn nàn ở bên quê lắm việc, mà cha mẹ thì già, nên vợ anh phải ở lại để trông nom cửa nhà và đồng áng.
Bởi vậy, nghề thế, được thả lỏng, anh đâm ra chơi bời. Và không hiểu tí toáy thế nào, mà cô đầu Huệ có mang với anh.
Hồi ấy, anh có cho tôi biết. Và trong thư, anh gọi Huệ là "Trống cà rùng".
Cho nên vừa nghe ba tiếng "Trống cà rùng", tôi vội nói:
- Thế à? Đã đẻ rồi kia à?
Quý thấy tôi không tỏ ý gì, cười rõ to, vui vẻ đáp:
- ồ, đã hơn hai tháng nay.
- Con trai hay con gái?
- Con trai. Tôi mới cho mẹ con nó về đây hôm qua.
Rồi bùi ngùi, anh tiếp:
- Bởi vì dưới ấy, nhà ở thiếu vệ sinh, mình trông thấy đứa bé mà không yên tâm chút nào. Gia dĩ, con mẹ chủ nó cứ doạ đuổi.
- Phải, làm cô đầu lại có con, thì ai người ta nuôi báo cô.
- Không phải thế. Từ ngày nó có mang, tôi vẫn phải cấp tiền. Nhưng mình thì tốn kém mà nó phải chịu rúc trong cái chái nhà ẩm thấp, tối tăm, cửa giả chả có. Nhất là từ ngày nó đẻ, tôi càng không đang tâm cho thằng bé con ở đấy.
- Thế chị ấy đã biết tin này chưa?
Quý thở dài:
- Chưa. Nhưng tôi giấu sao nổi. Nhà tôi chẳng bằng lòng cũng chẳng được.
Nói đoạn, anh đứng dậy, rủ tôi:
- Anh vào mà xem mặt thằng bé. Nó giống tôi lắm.
Tôi theo Quý. Đến buồng ngủ, tôi nhìn vào trong giường, nhưng Quý cười, bảo:
- Huệ nó len lét, cả ngày chẳng dám lên nhà trên.
Qua sân xong, chúng tôi cúi đầu cho khỏi đụng mái bếp. Đứng trong nhà mà ngọn lửa lập loè của mấy thanh củi cháy lom dom không đủ làm cho đỡ tối, tôi bị khói làm cay cả mắt, và rất khó thở.
Tôi dừng lại để nhận kỹ. Cạnh lò, người bếp đương thổi cơm, và tận góc phản ngả mâm, một người quần áo thâm đen ngòm, ngồi bế con. Quý đến gần, đánh diêm soi vào mắt thằng bé đang ngủ say. Tôi nhìn nó, nhân tiện liếc trộm vào mặt Huệ. Người đàn bà thấy có khách lạ, lại bị ánh sáng chiếu gần, thì bẽn lẽn, cúi gầm xuống, và cũng không dám nhếch mép để chào nữa. Vì chắc người ấy không rõ tôi là bạn hay họ với Quý, và biết chào là gì.
Không muốn đứng đó để Huệ thẹn lâu, tôi quay gót đi lên. Và bảo Quý:
- Trong bếp khói quá, thở rất độc. Anh nên cho thằng cháu lên nhà trên.
Quý chán nản đáp:
- Mặc kệ, bảo mãi chẳng nghe. Biết thế, tôi không cho về đây lại xong. Vì về đây, mà cứ cả ngày chúi xuống bếp, thì cũng thế.
Tôi nói nhỏ:
- Thì buổi đầu về nhà lạ, ai chả ngượng?
- Anh bảo ngượng với ai? Cả nhà chỉ có tôi với thằng Hương, với thằng bếp, còn thẹn thò quái gì nữa?
Viết đến đây, tôi cần ngoặc dấu chua nghĩa để nói rõ rằng thằng Hương là con trai anh Quý, đã lên năm, và người làm bếp là cháu họ xa của anh, theo anh gần mười năm nay để giúp việc thổi nấu. Anh rất tin cẩn hắn, vì hắn thật thà có một. Nội tiền nong, và thìa khóa hòm, tủ, anh vẫn giao cho hắn giữ. Anh coi hắn như cánh tay phải, như người nội tướng đảm đang vậy.
Tôi hỏi:
- Thằng Hương đối với Huệ ra làm sao?
- Nó bé, đã biết quái gì.
- Thế Huệ đối với nó?
Quý tự đắc đáp:
- Huệ sợ cả từ thằng bếp sợ đi!
Vừa lúc ấy, người bếp dọn cơm lên bàn, Quý cười, chỉ vào hắn và nói:
- Chẳng tin, anh cứ hỏi nó mà xem.
Người bếp vui sướng, khoe:
- Thật đấy, thưa cậu. Cô ấy vâng cả với con. Con bảo mãi mà cô ấy vẫn cứ quen mồm. Cô ấy chả dám nhờ con làm việc gì cả. Lắm lúc con rỗi, thấy cô ấy vừa bế em vừa đun nước pha sữa, con tranh làm hộ, nhưng cô ấy nhất định không nghe. Bất đắc dĩ, muốn bảo con làm việc gì, thì cô ấy đến tận nơi, khẽ nói: "Anh làm phúc chịu rầu hộ tôi việc này, việc nọ". Ăn cơm, cô ấy cũng mời con một cách lễ phép.
Tôi cười nói đùa:
- Phải, bởi vì anh là một nhân vật quan trọng trong nhà này.
Bữa ăn ấy, Huệ không dám ngồi với chúng tôi. Người đàn bà địa vị kém cỏi ấy không rời ra khỏi xó bếp. Vì chắc chị ta tự xét chỉ xứng đáng với nơi thấp hèn ấy mà thôi.
+
+ +
Cách đó hai tháng, một hôm tôi có việc phải qua Bắc Ninh. Nhân tiện, tôi vào thăm anh Quý.
Nhưng lúc ấy, cả Quý lẫn Huệ và người bếp cùng không có nhà. Tôi hỏi thằng Hương về em bé nó, thì nói nói:
- Vú em bế sang chơi nhà bên cạnh.
Tôi chờ trong chốc lát. Bỗng có chiếc xe đỗ phịch trước cửa. Một người đàn bà mở ví tay lấy tiền trả xong, thoăn thoắt mở cửa bước vào. Tôi biết ngay là Huệ, vì còn nhớ mặt, dù lần trước mới thoáng trông trong bóng tối.
Huệ hôm nay không phải là Huệ hai tháng về trước. Huệ hôm nay hoàn toàn là một thiếu phụ tân thời, vợ ông phán trẻ.
Chị ta thấy tôi, cúi đầu xuống chào, và nói một cách bạo dạn:
- Bác mới sang chơi? Nhà em cũng sắp về.
Đoạn Huệ vào buồng ngủ. Tôi để ý, thấy tiếng loẻng xoẻng chùm thìa khoá, và tiếng cánh cửa tủ kẹt mở và đóng đánh sình. Đoạn Huệ gọi bằng tiếng lanh lảnh:
- Vú em ơi!
Không thấy ai đáp, chị ta gọi:
- Hương! Vú em đâu?
- Thưa dì, vú ấy ở bên bà đốc ạ.
- Gọi vú ấy về đun nước bác xơi chứ? Con nhà, chẳng biết gì cả?
Rồi Huệ vui vẻ chạy ra nói với tôi:
- Thưa bác, chúng nó đoảng quá. Bác miễn trách cho. Cả thằng bếp nữa, đi tám nhăm trống canh chưa về!
Hôm ấy, thật tôi rất ngạc nhiên về sự thay đổi từ cử chỉ cho đến cách ăn nói của Huệ. Tôi không thấy tăm bóng người đàn bà sợ sệt, len lét ngồi dưới bếp nữa. Tôi chỉ thấy một người hợm hĩnh, cố khoe tài nội trợ. Người ấy mắng vú em không coi nhà, sai đầy tớ quạt than để là quần áo, và xuống bếp làm giúp đồ ăn. Rồi khi người bếp bưng cơm ra buồng khách, thấy tôi, anh ta ngó cổ vào trong nhà. Khi yên trí rằng không có ai, anh ta mới đứng cạnh tôi, thở dài, bĩu môi, thì thầm than thở:
- Động có khách lạ đến, là làm ra dáng chăm chỉ lắm. Còn lúc không, cả ngày chỉ nằm ăn vạ trên giường để nhổ vặt. Đến nỗi con cũng không nuôi nổi, phải thuê vú em. ấy thế mà còn đài các, lắm lúc mắng vú em như tát nước vào mặt. Thưa cậu, cậu con bây giờ ăn ở khác lắm, không được như trước nữa. Cậu con cả nghe cô ấy lắm, nhiều lần mắng cả anh Hương lẫn con. Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu. Thế mà bây giờ đã giao thìa khoá tủ cho rồi. Con tính nay mai cậu con đưa nốt lương tháng cho cô ấy chi tiêu nữa, là cửa nhà tan nát.
- Thế mợ phán đã biết cậu có vợ lẽ chưa?
- Cũng đã có người nói đến tai. Mà từ lúc cô ấy hỏi dò, biết mợ con hiền lành, thì lại càng giở ra nhiều cái nực cười. Cô ấy làm nũng cậu con, có ý giữ cậu con, chẳng muốn cho đi lại chơi bời với ai. Thỉnh thoảng, đối với con, cô ấy cũng không coi vào đâu. Tưởng chừng như cô ấy muốn coi con như hạng đầy tớ khác. Từ ngày cô ấy về, cậu con không tin cậy con như trước nữa. Mà con làm việc gì, có cô ấy xen vào, con thấy khó chịu lắm. Hình như cô ấy tước cả cái tự do của con vậy.
- Cô ấy thay đổi chóng lắm nhỉ.
- Vâng. Trước kia ai chẳng tưởng cô ấy chỉ cả ngày loanh quanh dưới bếp, sợ hãi từ con trở đi. Chứ có ngờ đâu. Nhưng độ một tuần, cô ấy đã mon men hay lên nhà trên. Rồi đi đứng, nói năng quen đi, không ngượng nghịu nữa. Và đã mấy lần có bạn đến, cô ấy tiếp, nhưng chỉ thì thầm với nhau trong buồng trong. Cô ấy có dám ló mặt ra đến phố đâu. Mà động thấy có ai lạ vào nhà, là thụt cho mau xuống bếp. Nhưng dần dần, độ ngoài một tháng, thì khi vắng cậu con, cô ấy đã mời khách ngồi ở xa lông, nói năng, cười đùa rầm rầm. Song cô ấy sợ con mách, nên nói lót, ngọt ngào lắm. Bây giờ thì bà ấy công nhiên mời khách ngồi ghế bành thả cửa, dù cậu con có nhà cũng vậy. Và thỉnh thoảng lại sĩ diện, quai mồm ra gọi "Bếp ơi!". Con hầu cậu con, chứ con việc gì phải làm đầy tớ đồ đĩ ấy. Con chẳng ra gì cũng là cháu cậu con. Con gọi cô ấy là cô đã là quá đáng. Vì con sợ cậu con mà nhận cô ấy là vợ lẽ, chứ bất quá cô ấy chỉ ngang hàng với con là cùng!
Bữa cơm hôm ấy, Huệ cùng ngồi ăn với chúng tôi. Nàng cử chỉ lễ phép, không dám nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng săn sóc cơm nước, sai bảo người bếp một cách ngọt ngào mà thôi.
+
+ +
Nhưng hôm nay thì không thế nữa.
Hôm nay, vì anh Quý viết giấy mời tôi về Bắc Ninh để anh hỏi ý kiến về chuyện gia đình, nên tôi đến thăm anh.
Anh nhờ tôi nuôi thằng Hương để dạy dỗ nó, nói thác rằng nó mến tôi, chỉ đòi được ở với tôi. Nhưng tôi biết thừa là thằng bé khốn nạn đã nhiều lần bị vợ lẽ của cha đánh đập tàn nhẫn.
Khi tôi hỏi sao người bếp không ở với anh nữa, thì Quý còn tức giận, đáp:
- Anh tính, bạc ác đến nó là cùng. Nó đi theo tôi từng ấy năm. Trước kia tôi giao cả tiền nong cho nó, mà có một lần, nó nỡ ăn cắp của tôi.
- Anh bắt được?
- Bà cụ nhà tôi, à, bà đẻ ra Huệ ấy mà, rình bắt được. Chứ tôi tin nó quá, nên không ngờ.
Lúc ấy, Huệ ở nhà trong, chạy ra, nói xen vào:
- Vâng, nó lấy của nhà tôi hai chục, giấu trong hòm. Thì ra trước kia, giá nhà tôi có bị nó rút ruột rút gan bao nhiêu cũng không biết.
Quý nhìn vợ, cười nhạt, rồi nói với tôi:
- Cho nên tôi phải giao tiền nong cho nhà tôi giữ. Mình thì bận, còn có lúc nào để mắt đến hết mọi việc được.
Huệ nói:
- Rồi, thưa bác, muốn chừng biết từ nay không thể xơ múi gì nữa, nó mới chán cảnh, và cứ sinh sự với tôi. ấy, đi ăn đi ở mà cứ hỗn với chủ nhà, thì bác tính còn trời đất nào nữa. Tôi mới bảo nhà tôi đánh cho một trận và tống đi.
Thấy Huệ nói giọng lên bộ quá, tôi hiểu tất cả ẩn tình. Đầy tớ trung thành bị đuổi, con rứt ruột phải xa lìa, không rõ Quý có hiểu hiện gia đình anh đương bị một cuộc ngoại xâm ghê gớm hay không? Nhưng vẫn không thấy tình thế nghiêm trọng, anh còn khoe thêm rất tự đắc:
- Bây giờ tôi nuôi thằng bé này, cũng như thằng bếp trước, vì nó là người làng nhà tôi đây. Nó ngoan lắm.
Tôi cười nhạt, không trả lời.
Tôi muốn nói cho Quý rõ về thực trạng gia đình anh. Muốn chừng Huệ hiểu ý. Cho nên, khi ăn cơm xong, như mọi lần, tôi rủ Quý đi chơi phố. Song, thoáng thấy Huệ đưa mắt cho chồng, thì Quý ra ý ngần ngừ, khó chịu. Nhưng đồng thời, người thiếu phụ kêu khó ở, vào buồng nằm.
Quý theo Huệ vào một lát, rồi lúc ra, anh cố tươi cười để lấy lòng tôi, và nói:
- Nhà tôi nó mệt, anh cho đến khi khác.
+
+ +
Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế, về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.
PTBNS số 48; 1-12-1939

Sáu mạng người

Thôi, cái quan bằng lòng vậy, để bận khác tôi bảo chúng nó đến chọ Cái quan cứ ngủ lại đây, sáng mai hãy về, kẻo đêm đã khuya rồi, từ đây lên châu, đi đã xa, lại qua nhiều rừng, tôi không yên tâm đâu mà.
Nghe lý trưởng Tưởng thành thực nằn nì, nói bằng giọng kéo dài và ngô nghê như thế, ông châu Phiên lấy đồng hồ ra coi rồi nhìn ra ngoàị Rừng, núi và trời lẫn lộn màu đen. ông hơi nản lòng. Nhưng thử xem còn hy vọng gì nữa không, một lần nữa, ông làm ra dáng giận dỗi, vỗ vai lý trưởng và nói theo lối người Thổ.
- Này, cái quan không bằng lòng thầy lý đâu nhé. Thầy lý không biết làm việc. Thầy lý nói dối quan. Thầy lý hứa nếu quan đến xem hội thì thầy lý gọi cho quan những cô gì cô gì kia mà. Thế mà chẳng cô nào đến cả. Để đêm khuya thế này, quan phải về không. ở vùng xuôi, những lý dịch đối với các quan tốt hơn kìạ Nếu làng mời quan ngủ lại mà không gọi được cô nào ra hầu chuyện, thì thầy lý hoặc thầy chánh phải đem người nhà thay vào kia đấỵ
Nói đoạn, ông châu yên một lát, để thì giờ cho lý trưởng Tưởng hiểu thấu cái phong tục đẹp đẽ dưới trung châu, và ngẫm nghĩ cái bổn phận chu đáo của nhà chức dịch đối với quan phụ mẫụ Rồi ông tươi cười, hỏi nửa đùa nửa thật:
- Quan nghe nói thầy lý có em gái mà?
Lý trưởng lắc đầu, đáp rất tự nhiên:
- Cho nó ra tiếp cái quan cũng không làm sao, nhưng rồi sợ nó quen đi, quan ạ.
Biết rằng không còn nước non gì, ông châu Phiên bảo thắng ngựa, nhất định về.
Đường lên châu lỵ khúc khuỷu, qua những cánh rừng rậm, nhiều đoạn chênh vênh trên khe sâu thẳm. Song, ông tin ở con ngựa ô của ông rất khôn và rất thuộc lối, và ở hai tên lính cơ lực lưỡng, can đảm, lại có đem cả súng lẫn đạn đi theo hầụ Tuy lần này về Bản Sing, ông chỉ có mục đích xem hội, nhưng ông cũng định tối đến, theo tục lệ, ông sẽ nô đùa với bọn con gái dậy thì lũ lượt kéo nhau ra đường giỡn hát bên ngọn đuốc.
+
+ +
Lúc bấy giờ, độ mười giờ đêm, ba thầy trò đã bắt đầu phải chui qua cánh rừng rậm. Lối đi ban nãy còn hơi lờ mờ rõ, bây giờ thì thật đen như mực. Không ai có thể trông thấy gì, dù đã quen làm những việc lén lút. Người ta có một cảm giác khó chịu là bị quây vào giữa một cái màn rùng rợn, chật hẹp, mà tai, mắt, chân tay hoạt động một cách sợ sệt, song vô công hiệụ
Ba con ngựa bổ móng vào những phiến đá, kêu lộp cộp. Thỉnh thoảng, một chiếc lá khô rơi, xào xạc, đụng bốn năm bận vào cành. Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ ông châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và nhấp nhổm theo nhịp kiệụ
Những cuộc đi đêm vất vả, ông đã từng trải nhiều bận, nên đã quen. Làm chức tri châu, ông tránh sao được nơi rừng xanh núi đỏ, nước độc, ma thiêng. Song, ông chỉ cố đợi vài tháng nữa, đến kỳ thăng thưởng cuối năm, ông sẽ vận động thăng tri phủ và xoay về một huyện nào tôn tốt ở trung châụ Lúc bấy giờ, ông mới có thể nghĩ đến chuyện làm giàu và sung sướng được. Chứ ở đây, tiếng là quan cai trị, mà quanh năm, ông chẳng sơ múi gì. Dân sự họ sợ uy quyền lý trưởng hoặc chánh tổng người địa phương hơn là quan phụ mẫụ Vả ở vào một nơi giáp biên thuỳ, công việc canh phòng còn khó nhọc và nguy hiểm gấp bội lần.
Rong ruổi trong khoảng tịch mịch, ông châu Phiên bỗng nhớ đến cái chức vụ tịch mịch của mình. Một hơi lạnh thoảng qua, làm ông rùng mình. ông móc túi, lấy điếu thuốc lá và bật bùi nhùi để hút.
Bỗng ngựa ông đứng dừng lạị Rồi lưng ông bị đầu con ngựa sau húc phảị ông giật nảy mình, tự nhiên ghê rợn, như có cái gì nó báo trước cho ông một điềm chẳng lành. Trong người ông nóng ran. ông vội vàng lắng tai và giơ tay trong khoảng tối đen, làm hiệu cho lính, và khẽ nói:
- Đứng lạị
Ba con ngựa cùng dừng bước, thở, vẫy đuôi xoàn xoạt, và giậm chân xuống đường đất rắn cấc để đuổi muỗị
Quan quay lại, hỏi lính:
- Có ngườỉ
Tức thì hai ngọn súng đã chĩa ngang ra đằng trước.
Mọi người yên lặng để nghe ngóng và chờ đợị Tiếng xôn xao mỗi lúc một gần. ông châu ra lệnh khẽ:
- Nạp đạn sẵn.
Gót chân nện xuống đất nghe rõ dần. Một người lính nói thầm:
- Họ nói tiếng Thổ hay tiếng khách? Đông đấỵ
ông châu ngăn:
- Thôi, im. Xuống ngựa cả, mau!
Rồi ông hỏi to:
- Ai, đi đâủ
Những tiếng xôn xao ở xa tức khắc im bặt. Thấy khác ý, ông châu ngờ vực. Trong bóng tối, ông nhận ra năm sáu cái bóng đen kịt.
Một người lính hỏi lại:
- Aỉ Đi đâủ Lấy cả thẻ ra để quan khám!
Lời vừa dứt thì không hiểu làm sao, bọn người đằng trước chạy tán loạn.
Đoán là việc nguy hiểm, ông châu hăng hái, thét:
- Bắn!
Đoành! Ngọn lửa sáng lòe, tiếng vang inh vào các khe núi, kêu vọng dài rạ Tức khắc, một cái bóng đen ngã vật xuống, giãy đành đạch, rên rỉ.
Hai người lính càng phấn chấn, đem hết sức lực, chạy đuổi bọn người gian.
Lại một tiếng đoành, rồi tiếng đoành nữạ
ông châu nắm chặt lưng ba con ngựa, trống ngực đã bớt rộn, ông lên tiếng hỏi:
- Thế nàỏ
- Bẩm trúng ạ.
Thấy người ngã đầu tiên còn phì phì thở ngay gần đó, ông châu bấm bùi nhùị Đá lửa bật ra những tia sáng lóe, rọi rõ lối đị ông tiến mấy bước, rồi dồn dập hỏi:
- Bọn mày mấy đứả
- Đau lắm, tôi làm gì mà bắn tôỉ
Chẳng để vào tai những tiếng nói thảm thiết vô ích, ông lại hỏị Tiếng trả lời:
- Sáu đứạ
ông nói to, bảo lính:
- Tất cả là sáu đứa!
Ngay lúc ấy, một tiếng súng lại nổ to, vang động cả bốn phíạ Rồi tiếng reo:
- Ngã rồị
Mừng rỡ, ông châu hô:
- Còn hai nữạ Bắt cho kỳ được!
Rồi cúi xuống, ông toan hỏi thêm. Song, người khốn nạn đã ằng ặc giãy, rồi nằm im lịm.
Trời tối quá, nên cuộc săn người rất gian nan. Bởi vậy, trong sáu kẻ gian, bốn người chẳng may bị đạn thì chịu gục xuống, còn hai người lẩn lút được. Lính đã hết sức tìm sục mọi nơi, song, không tài nào thấy được. Thực ra, họ trốn không khó gì. Chỉ cần cho người đuổi không trông thấy hút được, là họ nép vào bụi rậm nào đó, thế là thoát. Họ nằm đó cho thật yên. Bởi vậy, hai người lính đã mất công chui rúc cho đến tận tang tảng sáng.
Như khi tầng lá xanh đen đã hơi nổi ra ngoài nền trời màu sữa, thì ông châu bắt đầu hơi ngạc nhiên. Cách người chết nằm không xa, có những đống gì to lù lù. Muốn khỏi ngợ, ông buộc ngựa vào cành cây, đến tận nơi, nhìn cho kỹ.
Bỗng ông nhủn người, run lên, mặt tái mét. Đó là những bó thuốc lá, mà sáu người này có lẽ chỉ là bọn buôn thuốc.
Lương tâm ai chẳng có? Dù làm quan cũng vậỵ Thỉnh thoảng, người ta có đôi phút vụt thấy lương tâm hiện ra, mỗi khi biết rằng mình làm bậỵ Bởi vậy, ông châu Phiên hối hận việc đã giết oan bốn mạng lương dân.
Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
ông châu vốn là người có óc thực tế. Hạng người này ít thiên về tình cảm. Nên khi một việc lỡ xảy ra, họ không xoa xuýt, than tiếc, mà phải cương quyết tính ngay đến cách đối phó sau nàỵ Vì vậy, trong giây phút, ông lanh trí, nghĩ ngay được cách làm thế nào để tránh lỗi với quan trên.
Thì ông làm thế nàỵ
ông đến tận nơi từng người bị đạn để tra hỏị Khi biết đích bọn đó chỉ là người Thổ đi kiếm thuốc lá để sáng sớm mai bán tại chợ Bản Sinh, ông bèn đốt thẻ của họ đi, và bắt lính trói chặt lại, cho khỏi có người nào còn sức lê đi và trốn thoát. Như vậy, ông có thể kệ họ nằm rên rỉ một mình, không phải bận về canh gác nữạ
Đoạn ông cùng hai tên lính cơ, chia nhau đi các ngả để sục nốt hai người hiện đương trốn.
ông cao đoán lắm, bảo lính:
- Chúng nó chưa ra khỏi cánh rừng nàỵ Chúng mày cứ trông kỹ vào những chỗ rậm rạp. Tao sẽ thưởng to cho thằng nào có công.
Lúc ấy đã sáng rõ. Ba thầy trò vừa lắng tai, vừa trố mắt, dò từng bước để tìm tòị Không một bụi rậm nào họ không khua ngọn súng vàọ Không một khe đá nào họ không lách lưỡi lê vàọ May thay, trời không phụ kẻ có công bao giò. Chẳng bao lâu, chính ông châu tóm được một người nằm ẹp như con nhái bén dưới một gốc cây đổ. Và một tên lính vồ được người nữa, đương cắm cổ chạy bán sống bán chết trong khóm lau caọ
Bắt sống được hai người cuối cùng, mà hai người này không có thẻ, ông châu mới thực mừng. ông sai trói gô họ vào gốc câỵ
Rồi ông làm gì?
Rồi... đoành! đoành! ông chia cho mỗi người một phát đạn, không hơn không kém, để họ đỡ tị với bạn. Rồi... còn ba người đương ngắc ngoải, ông cũng sinh phúc cho thêm mỗi người một phát, để họ được thoát khổ, mà rủ nhau cả một lượt về suối vàng.
Rồi... khi đã làm cỏ đủ sáu mạng người, ông sai cởi dây trói ra, và phi ngựa về châụ ông làm tờ khẩn bẩm với quan trên, kể công là đã đi tuần đêm, và ba thầy trò đã giết nổi một toán những sáu đứa... giặc khách.
Và như thế, ông yên trí rằng về công trạng trị an oanh liệt này, ông sẽ được đặc cách thăng tri phủ hạng nhì...
Truyện ngắn chọn lọc - Tập II -
Nxb. Hội nhà văn - 1985

Hết

Xin chữ cụ nghè

Gần chỗ tôi ở, có một cụ nghè, đỗ khoa nào tôi không rõ. cụ nghè nổi tiếng là hay chữ. những thơ phú, câu đối, cụ làm ra, toàn là chữ nho cả, tôi ù cạc như vịt nghe sấm, nhưng thấy người vùng này thuộc nhiều và đều phục là hay lắm.
làng cụ ở cách nhà tôi độ ba cây số. những ngày rỗi việc, tôi thường đi lại để được hầu chuyện cụ. vì tính cụ vui vẻ, dễ dãi, nhất là tiếp đãi tôi, thì bao giờ cũng một cách đặc biệt. thường cụ vẫn bảo tôi rằng nếu có cần việc gì về chữ nho, thì cụ sẵn lòng giúp.
tôi vâng dạ, nhưng chửa có dịp nào được phiền đến cụ, vì chửa có dịp nào phải cần giao thiệp bằng chữ nhọ nhiều người cứ xui tôi xin cụ đôi câu đối, nhưng tôi không muốn. vì vẫn biết cụ sẵn lòng cho, nhưng chính mắt tôi thường trông thấy phàm ai muốn nhờ vả cụ về chữ nghĩa, đều phải có đem hoặc cành cau, hoặc gói chè, hoặc có khi cả đồng bạc nữa, để biếu cụ. chứ không ai chơi cái lối "nước dãi" bao giờ. như thế thực là phảị cho nên, chẳng lẽ bây giờ mình nhờ cụ, mà cũng xử như người ta, đem gì đến, thì sợ cụ cười rằng trẻ con không biết gì. nhưng nếu ngộ không tạ cụ bằng thức gì, thì cụ lại chẳng bằng lòng vì cách "tây" quá ấy chăng. bất nhược chẳng phiền cụ cho xong quách.
một hôm nhận được giấy cáo phó của một người bạn thân báo tin ông cụ thân sinh mới tạ thế, tôi cùng vài người anh em định rủ nhau sửa đồ phúng chung.
ngày thường, chúng tôi vẫn nghe lỏm nhiều người nói chuyện rằng phúng đám ma các cụ già, người ta hay dùng bốn chữ hạc giá tiên dụ chúng tôi định thửa ở hiệu bốn chữ ấỵ nhưng mặt chữ không thuộc, nên không biết viết thế nàọ mà đành phận chữ chi là cò cũng không biết, thì thà chịu dốt còn hơn. vả lại bốn chữ sẵn này, tuy hợp nghĩa, nhưng nó cũ rích, lại chẳng hay ho gì, không đủ tỏ được cái tình thân mật của chúng tôi đối với hiếu chủ. chúng tôi bèn quyết không dùng mấy chữ sáo hạc giá tiên du ấy nữạ nhân có cụ nghè ở gần, chi bằng chúng tôi lại xin ngay chữ cụ, tất được hay lắm.
chúng tôi biết tính cụ nghè thích đánh chén, mà xưa nay chúng tôi lại chưa được dịp vào hầu rượu cụ, nên nhân việc này, chúng tôi mời cụ đến xơi cơm, rồi nói chuyện xin chữ cho tiện.
dặn dò người nhà làm cơm và mua rượu xong, chúng tôi cùng thân hành đến nhà cụ nghè để đón cụ. hôm ấy, được ngày cụ thong thả và mát trời, nên cụ đi ngaỵ
cơm xong, tôi nói:
- thưa cụ, tiện đây, chúng con có một việc muốn phiền cụ.
- hừ! các ông lại muốn nhờ làm câu đối chứ gì?
- dạ.
- thế thì việc quái gì phải bày vẽ ra như thế này cho thêm tốn?
- bẩm có gì là bày vẽ. chúng con chủ ý mời cụ quá bộ đến xơi cơm để chúng con được hân hạnh hầu rượu cụ mà thôị
- câu đối gì?
- bẩm câu đối phúng.
- phúng aị
- bẩm phúng ông thân sinh một người bạn thân.
- Được! Đem giấy, bút, mực ra đâỵ
chúng tôi đưa lọ mực tây và bút sắt. cụ không nghe, cười:
- tôi có quen dùng những thứ này đâủ
chúng tôi bèn chia nhau đi mượn cho đủ bộ. khi thấy mang về, cụ bảo:
- mài mực đị ông đổ ít nước lã vào đây, rồi mài thoi mực này mươi vòng vào chỗ này, khi nào đen thì thôị
chúng tôi vâng lời cụ. khi mực mài xong, cụ để các đồ dùng trước mặt, lên ngọn kính, rồi hỏi:
- viếng ông cụ thân sinh ra bạn thân phải không?
- dạ.
- ông cụ ấy bao nhiêu tuổỉ
- bẩm ngót bảy mươị
- à thọ nhỉ? con cháu khá cả đấy chứ?
- bẩm vâng.
- ông cụ ấy còn cha mẹ già không?
- không ạ.
- bà cụ còn chứ?
- dạ.
- Được. ấy, phải biết đủ như thế, mới có thể giãi tỏ hết cả tấm lòng mình được.
cụ nằm phục vị trước tờ giấy, chống tay vào cằm, nghiêm nét mặt lại, rồi rung đùi, cơ chừng để nghĩ. chúng tôi ngồi chắp tay, yên lặng cả, để khỏi làm rối mất mối văn chương của cụ nghè.
một lúc, cụ ngồi nhổm dậy, nói:
- mà cần gì phải câu đốỉ bây giờ những đám ma văn minh người ta có hay dùng câu đối nữa đâủ Để tôi nghĩ cho bốn chữ rõ hay, các ông có bằng lòng không?
- dạ!
- Được.
cụ lại phục vị, cầm bút chấm vào nghiên, xoe ngòi cho tròn rồi viết. chúng tôi châu đầu cả vào để nhìn tay cụ.
Đầu tiên, cụ nắn nót viết một dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy, chỗ đề niên hiệu:
bảo Đại nhâm thân niên trọng hạ nhật.
rồi cụ đưa phắt tay sang mé trái tờ giấy, viết luôn một dòng chữ nữa đề lạc khoản:
tử chấp: trần văn x, trịnh hữu y, nguyễn mạnh z, đồng trang vãn.
cụ hỏi:
- có phải tên các ông viết thế không? dòng bên kia là đề ngày, tháng, năm đấỵ
- dạ.
- tử chấp nghĩa là hàng con, các ông cũng vào hàng con cụ ấỵ
- dạ.
chỗ giữa vẫn còn để trống. cụ lại hỏi:
- ông cụ có phải không nhỉ?
- dạ.
lúc ấy cụ lại ra dáng nghĩ ngợi hơn, gục hẳn mặt vào bàn tay và rung chân mạnh hơn trước. rồi ngẩng dậy, cụ đặt bút, chấm vào mực, lăn mãi ngòi vào nghiên. chúng tôi lại phải im phăng phắc, không dám thở mạnh để cụ loạn trí, mất chữ hay, chăm chăm con mắt nhìn theo tay cụ.
Độ năm phút sau, cụ đặt bút xuống chiếu, gãi chân, rồi kêu nực, chúng tôi quạt hầụ cụ cầm bút rồi rung đùị một chốc, cụ lại xoay bút, không rung đùi nữa, đặt hẳn ngòi trên mặt tờ giấy, đưa đi đưa lại cái quản, ngoáy ngoáy trên không để lấy gân, rồi dí hẳn xuống, nắn nót, viết bốn chữ nét rậm rì to tướng.
viết xong, cụ nhổm phắt dậy, trỏ vào từng chữ mà giảng cho chúng tôi được hiểu thấu cái haỵ cụ nghè giảng rằng:
- hạc là con hạc, giá là xe, tiên là cõi tiên, du là chơi, các ông hiểu chưả
hiểu rồi, chúng tôi lườm nhau, chỉ sợ có anh nào cười thì chết!...
An Nam tạp chí số 45, 1932

Hết

Bạc đẻ

..."Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng vào buồng dò xét... Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá, một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng. Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch, nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt..."
Một hôm ông Trưởng Sắc đương ngồi dưới giàn thiên lý để lau từng cái lá lan một, thì có người em họ ông là Ba Tuần buôn bán ở tận ngoài Cẩm Phả về chơi. Ông Ba Tuần đi với một người lạ mặt.
Người lạ mặt trạc độ ngót bốn mươi tuổi, khăn áo chỉnh tề, mặt mũi đầy đặn, tay xách cái va-ly da, ra dáng nặng nề lắm.
- Ông này là bạn thân tôi, ông Ba Tuần giới thiệu, bạn thân tôi là ông Cửu ấu, muốn nhờ bác một gian buồng dưới nhà ngang để ở trọ trong ít bữa.
Ông Cửu ấu đỡ lời:
- Tôi nghe ông Ba nói chuyện ngài là người dễ dãi, cẩn thận, nên tôi mới dám phiền ngài.
Thấy ông Trưởng ra ý phân vân, ông Ba nói:
- Xin bác chớ nề hà, rồi sau đâu sẽ có đó. Ông Cửu đây là người hào hiệp, rộng rãi, xin bác chớ bận lòng. Bác cứ tin ở tôi.
- Không phải như thế, tôi rất tin chú, nhưng tôi e nhà tôi chật hẹp quá chăng, chú ạ.
- Bác đừng ngại, công việc của ông Cửu là phải đi vắng luôn, rồi ông ấy thế nào, bác sẽ biết, tôi không cần khoe trước.
- Nếu ngài không sợ phiền, ông Cửu dõng dạc nói, thì sau này dù thế nào tôi cũng không dám quên ơn.
Dứt lời ấy, ông Ba bấm ông Trưởng ra đằng sau và thì thầm:
- Rồi hắn làm nên, anh em ta cũng có phận nhờ. Người này chỉ đi làm điều hay cho người khác và hay cứu kẻ nghèo. Tôi không muốn nói rõ vội. Chẳng nhẽ chỗ anh em thân, tôi lại không rủ hắn đến ở đằng bác, e rồi bác lại trách tôi là đem mối lợi cho người ngoài.
Ông Cửu trố mắt lên để nghe, thấy nói tiếng lợi, tuy chưa rõ là lợi thế nào, nhưng đã híp mắt lại, gật lấy gật để.
Ngay từ hôm đầu người khách trọ đã làm ông chủ nhà bằng lòng quá: Ông Cửu ấu mở va-ly ra, lấy một đồng bạc, đưa ông Trưởng.
- Tính tôi thích vui, nhờ ông cho làm một bữa chén; anh em ta trước lạ sau quen, khi tôi ở lâu, ông mới biết tôi được.
Rồi ông đếm mười đồng nữa, dí vào tay ông Cửu mà rằng:
- Gọi là có món tiền mọn, tôi đưa ông để đỡ ông sự phí tổn vì tôi phiền ông trong tháng đầu.
Ông Trưởng cầm cọc bạc, vui sướng quá. Nhất là khi ông liếc trộm vào cái va-ly của ông Cửu thấy đến năm sáu cọc tròn mà dài, gói giấy cẩn thận thì bụng bảo dạ: Tay này cũng sù đây, được lắm. Ông Cửu xếp lại đồ đạc trong va-ly, ông Trưởng thấy những gói ấy nặng trĩu, lấy làm thích lắm. Xếp xong, ông Cửu nhìn ông Trưởng nhếch mép cười, rồi đóng va-ly, khóa lại.
Ông Cửu ở dưới nhà ngang, nhưng thường đi vắng luôn. Song hễ ở nhà, thì ông tay hay mượn chiếc chậu thau đồng lên buồng làm gì, để hàng hai ba tiếng đồng hồ, rồi khi dùng xong thì tự tay mang ra ao, lấy trấu và cát đánh cho thực sáng, mới đem trả. Ông ta có một tính khác người thường, là hễ ở nhà, thì không thích cho ai lên buồng riêng của mình, có một lần ông đã mắng thằng đầy tớ vô ý trước khi mở cửa vào, không đánh tiếng hoặc gõ cửa, nhưng mà khi ông đi vắng thì tha hồ, ai vào cũng được, tuy đồ đạc, quần áo, ông để bừa bãi, mà có một lần ông Trưởng sợ quá, cái va-ly của ông Cửu, trong để rặt những bạc đồng, mà ông ấy quên không khóa. ấy là lần đầu, mà cũng là nhân tiện, nên ông Trưởng mới mở va-ly ra thì biết thế, chứ ông không có tính tò mò, việc ai mặc người ấy, ông không muốn để mắt vào cách hành động của ông khách trọ làm gì.
Ông Cửu ấu là một người vui chuyện, thích đánh chén, cho nên hễ động ở nhà thì y như ông đưa tiền mượn ông Trưởng làm rượu. Ông Trưởng lấy làm hả về chỗ ấy lắm. Nay thịt gà, mai thịt chó, thôi thì tha hồ mà đánh ngã từng chai bố; không mất tiền, ông uống vô tội vạ.
Một hôm, trong lúc say sưa, ông Cửu nghiêng ngả nói:
- Chẳng giấu gì ông. Tôi thì tiền bạc chẳng thiếu, duy chỉ thèm thuồng...
Ông Cửu ghé vào tận tai ông Trưởng mà nói.
Nhưng nói xong, ông Cửu giật mình, có ý hối hận vì đã quá lỡ mồm trong khi vui chuyện, bèn dặn thầm:
- Chết chửa! Nhưng tôi xin ông giữ kín cho việc ấy, chớ nói với ai mà lộ chuyện của tôi.
Song việc đời nó đi như vậy: cái gì đã cố giữ kín tức là cố để hở, cho nên muốn để hở một cách kín đáo, không gì bằng ta bịt kín nó một cách hớ hênh. Bà già thấp thoáng sau bức rèm, còn khiến bọn thiếu niên công tử sái cổ lệch mắt bằng mấy cô thiếu nữ đứng lộ ngay ra ngoài cửa. Cho nên từ hôm đó ông Trưởng phải chú ý đến cách làm việc của ông Cửu, mà cũng từ hôm đó nhà ông Trưởng có nhiều khách ra vào hơn trước mà khi qua nơi ông Cửu ở, ông khách nào cũng cố lách vào một đuôi con mắt tò mò. Họ đến chơi, mục đích chỉ có thế.
Nhưng ông khách nào đã được làm quen với ông Cửu, thì tất nhiên là được ông Cửu chèo kéo ở lại đánh chén: vì vậy không mấy chốc, mà tiếng hào hiệp, nhã nhặn của ông Cửu đã đồn dậy khắp làng trên làng dưới, cho nên bọn sâu rượu sợ vợ, nhất định không chịu bỏ phí dịp mà không đến gạ gẫm tỏ tình thân ái với cái hũ nhà ông khách quý, mà họ cho là trời đánh rơi!
Ông Trưởng nhận thấy việc ông Cửu làm, rất có vẻ bí mật. Có khi ông ta đi vắng từ sáng sớm, đến nửa đêm thì về; có bận ông đi vắng từ nửa đêm, đến gà gáy hôm sau nữa thì về; cũng có lúc trời mưa gió đùng đùng, ông cũng xách ô ra đi, rồi giữa trưa hôm sau thì về. Sự đi về rất thất thường, không bao giờ giống nhau cả. Ngày đi ông ta không nói trước, nhưng ngày và giờ về rất đúng hẹn. Một lần ông Cửu dặn 2 giờ sáng hôm sau thì về, thế mà ngay từ nửa đêm, trời nổi một cơn phong ba bão táp, vậy mà khi đồng hồ vừa điểm xong hai tiếng, thì ở cửa đã có tiếng ông ta gọi, chó tứ phía sủa vang.
Thấy ông Cửu có lắm cách hành động khác thường, nên ông Trưởng càng tò mò dữ. Một hôm, thằng đầy tớ chạy lên nhà trên trợn mắt, trợn mũi, thì thào với ông rằng:
- Con thấy cái chậu thau đen quá, ông ạ. Con không biết ông ấy làm gì mà bắt con đánh mãi không sạch.
- Thế à? Ông Trưởng cũng trợn mắt to không kém mắt đầy tớ, đâu! Ðâu? Chậu đâu?
- Con đánh sạch rồi.
- Bận sau ấy nhé, mày đem lên cho tao xem nhé.
- Nhưng mới bận này ông ấy mới bảo con đánh, mọi bận ông ấy vẫn làm lấy.
- Thế à? Bận sau, thấy ông ấy sắp đánh, mày nói với ông ấy rằng để mày đánh hộ nhé.
- Vâng, nhưng con sợ ông ấy mắng. Vì ông ấy dặn con đừng nói với ông.
- Thế à? Quái nhỉ.
Rồi tối hôm ấy, ông Trưởng luẩn quẩn cả đêm, đâm lo, không biết người này là mật thám thực hay chính là tay hội kín. Nhưng chẳng có lẽ ông Ba Tuần là em họ rất thân, rất đáng tin không khi lại nỡ lừa dối, để làm tai làm vạ cho ông như thế. Hay là ông Cửu sẽ làm lợi cho ông những gì mà ông chưa biết chăng? Ông càng cần phải dò xét ông Cửu từng bước.
Một hôm, lẳng lặng, ông thân hành đi theo ông Cửu, thì quả nhiên ông thấy ông ta xuống dưới cuối tổng vào hàng nước nhà bà Tổng ích ngồi từ sáng đến trưa, rồi đứng ở gốc đa đầu làng vơ vẩn đến tối mịt thì về. Ông hỏi bà Tổng ích, thì bà ấy cũng bảo đã đến hơn tháng nay, vẫn thấy người này vào nghỉ chân ở hàng ấy, có khi ngồi cả ngày, nhưng không nói chuyện với ai, hoặc hỏi han dò la gì cả.
Hôm sau, lúc đương uống rượu với chả cá, ông Trưởng đánh liều, hỏi:
- Thế nào? Việc ông làm sắp có hiệu quả chưa?
Ông Cửu ra dáng sợ hãi, vội bịt miệng bạn, xua tay nói:
- Chớ! Bất khả lộ ngôn! Tối bất khả!
Rồi ông đánh trống lảng ngay ra chuyện khác, khiến cho ông Trưởng càng đâm nghi.
Tối hôm ấy, ông Cửu ấu bảo thằng người nhà lấy cho mượn cái thau đồng, rồi ông đóng chặt cửa buồng lại.
Ông Trưởng nghe tin, bèn rón rén dòm qua khe vách. Ông thấy ông Cửu cởi trần ra, mở va-ly, đếm lấy ra mười đồng bạc, bầy sát nhau trong lòng thau trắng xóa. Ðoạn ông đứng chắp tay một cách rất cung kính, miệng lẩm bẩm câu gì, rồi với vào gầm giường lấy lên một cái chai lớn, đổ nước đen đen vào trong thau. Ông lắc thau đến hàng năm sáu mươi lần, rồi sau đánh cái diêm, châm lửa vào nước, thì tự nhiên thấy khói um, không trông rõ gì nữa. Ngay lúc ấy, ngọn đèn tắt phụt, trong buồng tối um, ông Trưởng không thể nhận rõ được ông Cửu làm những gì cả. Một lúc lâu đến ba bốn giờ đồng hồ sau, trong buồng lại bật sáng, thì không có gì khác thường. Ông Cửu tự mang thau đi đánh, rồi ngay lúc ấy, dễ đến mười hai giờ đêm rồi, ông ta khăn áo ra đi, dặn đến bốn giờ chiều mai thì về.
Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng vào buồng dò xét. Ông soi đèn vào gầm lấy cái chai ra xem, thì thấy có một thứ nước gì đen kịt như mực. Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá, một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng. Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch, nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt.
Ðã là thân, tôi không giấu giếm ông một mảy may, ông Cửu nói với ông Trưởng thế. Ông tính tôi không làm gì mà quanh năm được phong lưu, tức là tôi chỉ nhờ ở cái phép lạ này thôi.
- Phép gì?
- Phép làm cho bạc đẻ.
- Ồ, ông có phép làm cho bạc đẻ? Lạ nhỉ!
Thấy ông Trưởng rất ngạc nhiên, ông Cửu cười đáp:
- Phải, cho nên ai biết tôi thì biết, không biết thì thôi, tôi không cần. Rồi tôi cũng định đền ơn ông một bận.
Ông Trưởng vội trợn mắt, nói lấy lòng:
- Chết, ông nên sẽ chứ?
Không cần. Tôi có đúc bạc giả, có đi ăn trộm ăn cướp của ai đâu mà sợ.
Ông Trưởng cười ích kỷ:
- Nhưng người ngoài biết ông lắm tiền thì...
- Tha hồ cho họ cướp! Cướp bao nhiêu, tôi lại làm ra được bấy nhiêu. Tôi vẫn đi giúp người nghèo khó chả vẻ thay nữa là.
- Ông làm bạc đẻ thế nào?
- Cứ một đồng thì đẻ ra một đồng; chứ không đẻ ra hơn được. Ví dụ tôi muốn có mười đồng thì tôi làm phép cho mười đồng của tôi ở cữ. Tôi học được phép này ở trên Mường phải cầu thần chú và có thuốc.
Ông Trưởng sực hiểu, tròn miệng lại và nói:
- Ồ, thảo nào!
- Lần vừa rồi, tôi thấy bạc không đẻ, tôi biết ngay bị lộ, tất thế nào cũng có hơi người lạ mó đến nó. Vì bạc nó ở cữ phải đúng giờ cho nên hẳn ông thấy mọi khi tôi về lúc nào cũng đúng hẹn lắm. Tôi cần phải đi xa khi nó thụ thai, vì nếu tôi ở gần, thì không những nó tịt không đẻ, mà nó lại tiêu sản, hỏng cả mẹ lẫn con, nghĩa là bạc biến thành ra đất cả!
- Nhưng sao tôi thấy khi ông đi vắng lâu, khi thì ông đi vắng chóng?
- À, đó là tùy số bạc cần đẻ. Muốn làm độ hai ba đồng, thì đi vắng ít, nhưng muốn làm hàng chục, hàng trăm, thì phải đi vắng nhiều hơn. Cái đó phải tính trước chứ. Chỉ lỡ về sớm hay muộn một chút là mẻ bạc ấy hỏng toi!
Ông Trưởng tủm tỉm nói:
- Ông làm thử cho tôi vài đồng nhé.
- Ông Cửu cười, gật đầu:
- Ðược, nhưng mà...
- Nhưng mà sao? Hay là làm hộ không được?
- Không phải thế. Cái phép đẻ bạc cũng như đẻ con. Ông lấy bà ấy thì đẻ ra con là con ông, tôi không nhận là con tôi được. ấy nó như người, chẳng khác một tý gì cả. Bạc của tôi đẻ, đố ông tiêu được.
- Lạ nhỉ. Thế đi vay mà cho nó đẻ có được không?
- Ðược chứ sao lại không? Miễn là chính tay ông đưa tôi, thì thế nào tôi cũng làm được. Nhưng có một điều kỵ là bạc của tôi mà cho ông vay thì không tài nào tôi làm cho nó đẻ được. Cũng như hai người đàn bà lấy nhau có khi nào đẻ được ra con? Hà! Hà! Hà! Ông hiểu không? Hay lại bảo tôi đón đầu!
- Không, chết! Chết! Có khi nào thế! Tôi hiểu rồi!
- Phải, bởi vì tôi thiếu gì, cho ông vay bao nhiêu mà tôi hết được, vả có mất đi đâu mà sợ, nhưng chỉ tại không làm cho nó đẻ được thì tổ phí thuốc mà thôi, vì như thế cũng như lộ vậy. Ta có việc gì giấu được quỷ thần đâu? Ðến ngay như ta với nhau cũng còn không giấu được nhau nữa là! Hà! Hà! Hà!
Ông Trưởng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đứng dậy, mở hòm lấy ra năm đồng đưa ông Cửu nói:
- Nhà tôi chỉ còn từng này bạc đồng, ông làm ơn hộ tôi một món.
- Vâng, nhưng ông bảo đánh mấy đồng này rõ mới hộ tôi. Rồi tôi làm cho mắt ông trông thấy nhé.
Ông Trưởng mừng rỡ, cảm ơn ông Cửu, và tạ lòng trời run rủi cho được gặp ông thần giáng phúc, từ nay khỏi nỗi vất vả về cách kiếm tiền.
Khi mấy đồng bạc đã đánh thực sáng nhoáng, ông Cửu bèn vào buồng với ông Trưởng giải cả tiền lên mặt chậu thau, rồi miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú, đổ vào thuốc, và lắc đi lắc lại mãi. Ðoạn ông đánh diêm châm thuốc vào thuốc thì khói um tỏa khắp bốn bên, rồi đèn tắt; một lúc, ông Cửu bảo thắp đèn, thì đã thấy chậu thau khô, mà năm đồng bạc buộc với nhau bằng chiếc dây đỏ chằng chữ thập ở giữa đáy chậu.
- Thôi, bây giờ thì ông phải để tôi làm một mình tôi đi chôn bạc đây, cũng như ta dưỡng thai ấy mà, ông đừng xem mà lộ. Lộ thì không những không thành, mà bạc lại tiêu sản hết mất.
Nói xong, một mình ông Cửu ra vườn, ông Trưởng không dám dòm theo nữa. Một lúc ông Cửu trở về vội vã giật lấy cái khăn và chiếc áo, vừa đi vừa rảo bước ra cổng, vừa quay lại nói:
- Tìm được đất chôn lâu quá, nên tôi sợ muộn, tôi xin phép ông tôi phải đi ngay. Năm giờ rưỡi sáng mai tôi về. Thật là vì ông anh nên tôi mới phải lật đật đấy nhé. à, ông chớ nên nói với ai việc này.
- Vâng! Cảm ơn ông anh.
Trong khi vắng ông Cửu, ông Trưởng thấp thỏm không sao ngủ yên, trong bụng khấp khởi mong cho chóng đến sáng. Ðộng chợp mắt được một tý là đã nằm mê thấy mình trở nên nhà cự phú, có đồn điền, có ô-tô. Rồi vừa tảng sáng, ông đã ngồi nhổm dậy, tỉnh như con sáo, tay xách cái đồng hồ, ra cổng đứng ngóng, nhìn theo từng phút.
Ðến năm giờ hai mươi thì, đúng hẹn quá, ông Cửu đã ở đằng đầu làng đi lại, đến cổng nhà thì vừa năm giờ hai mươi chín. Ông Trưởng trỏ đồng hồ vội la rầm rĩ:
- Ấy chết! Sớm một phút có được không?
- Ðược, không ngại, tôi đến nhà nhưng không lên tiếng vội, cũng như tôi về đúng giờ.
- Thế ngộ muộn vài phút có được không?
- Ðược, nhưng muộn quá thì không hay.
- À, ra nó cũng như uống thuốc.
- Chính thế! Thôi, đúng giờ rồi, ông ra gốc cây cam xanh mà đào lên.
Ông Trưởng mừng rỡ, tất tả ra vườn đào đất, thì quả nhiên có hai món năm đồng buộc riêng đôi bằng cái dây đỏ, giống nhau như đúc! Những đồng tròn, trắng, xỉnh xình xinh, mới nguyên, lóe sáng trước ánh mặt trời buổi sớm, như hé một nụ cười vui vẻ để chào chủ. Ông Trưởng ngắm nghía, gõ thử, sướng lắm. Ông Cửu nói đùa:
- Hay ông cho tôi nào?
Ông Trưởng dúm miệng vào mà cười, và nói đùa lại:
- Vâng, ông có tiêu được, mời ông cứ tiêu giúp.
- Xin cảm ơn ông. Giá tôi có tiêu được thì ông chả phải bảo! Bây giờ ông có quẳng ra đường, cũng không mất.
- Thật à? Thế nhà tôi tiêu có được không?
Thấy ông Trưởng ngơ ngác, có ý sợ hãi, ông Cửu phì cười:
- Ðược, nhưng ông phải nói: ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải cảm ơn ta, đi mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.
- À, lạ nhỉ ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải cảm ơn ta, đi mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.
Từ hôm sau, không những ông Trưởng Sắc và ông Cửu ấu phải tiếp khách ăn ghẹ, mà bọn nhà giàu, ngốc, cũng kéo nhau đến chơi rất đông. Ai nấy đều muốn tỏ lòng thân thiện, và cố mời cho được ông Cửu đến chơi nhà, uống rượu. Ông Cửu cảm động, thường nói với ông Trưởng:
- Tôi đi thiên hạ đã nhiều, nhưng không thấy đâu văn vật như vùng ta. Tôi xem ra, ở đây, ai cũng trung hậu, biết quý người lắm.
Nhưng họ chiêu đãi ông Cửu để họ lợi dụng ông ấy, vì cái phép bí mật làm cho bạc đẻ mà ông Cửu dặn ông Trưởng giấu kín, nó đã hở toác ra mất rồi. Cho nên không ngày nào ông Cửu không có người nhờ làm bạc đẻ. Tuy ông cũng biết rằng đã ăn của người ta một bữa thì phải trả ơn, nhưng họ nhiễu quá, mà từ chối thì nể. Ông Trưởng thấy vậy, lấy làm ngượng, song biết làm thế nào? Nào có mất gì của riêng ông đâu mà ngại, vả lại họ nể ông Cửu thì họ nể cả ông, ông Cửu được họ chiêu đãi sao, thì ông cũng được hưởng như thế. Thôi thì được một dịp cho người làng nước nhờ vả, mà người làm ơn vẫn vui lòng, không phàn nàn, thì ông cũng mặc ông Cửu với họ. Cho nên, người đưa một đồng, kẻ đưa dăm đồng, ai nấy đều nhờ ông Cửu làm thử cho một bận. Ðồng bạc con, họ thấy như hệt đồng bạc mẹ, mà tiêu pha dễ dãi như thường, nên họ đều nghĩ như nhau, cố giấu giếm mối lợi, để găm cho riêng mình cái mỏ mà đi vay mượn chỗ xa xa cho dễ dắt. Các ông nhà giàu thì định thả con săn sắt để bắt con cá sộp, nên định chờ dịp tốt hơn để mời hẳn ông Cửu đến ở nhà mình, mà nhờ ông một chuyến.
Nhưng được độ mươi hôm, ông Cửu tuyên bố một tin, làm cho dân làng đều ngao ngán:
- Tôi không ở đây nữa. Tôi lấy làm nhớ các ngài lắm.
- Ô hay! Ông giận gì chúng tôi?
- Phép bạc đẻ như thế, hễ tôi ở đâu quá hai tháng thì không làm được nữa. Các ngài có lòng yêu mà lưu tôi lại cũng vô ích.
- Vậy ông đi đâu, cho chúng tôi biết, hoặc ông cho chúng tôi rõ quý quán về đâu.
- Tôi quê ở Hà Nội. Tôi có năm mươi nóc nhà ở các phố. Lại tỉnh nào tôi cũng có một nếp nhà. Nhưng tôi không thể làm phép này ở ngay nhà của tôi được nữa. Vì nhà nào tôi cũng ở qua hai tháng rồi. Trời ơi! Tôi còn nhớ khi tôi ở Hà Nội, sao mà bận thế. Ai cũng đem tiền đến để nhờ đẻ, đến nỗi không lúc nào được nghỉ cả.
- Vậy ông định đi đâu?
- Tôi cũng chưa định. Thôi, gặp nhau như thế là đủ, khi nào tôi nhớ các ngài, tôi sẽ đến chơi, có ngại gì?
- Nhưng mà tôi muốn nhờ ông thí cho dân chúng tôi cái ân cuối cùng.
Ông Cửu bùi ngùi cảm động:
- Lọ là các ngài còn phải nhắc. Tôi ở đây bấy lâu được nhờ vả dân làng, cho nên trước khi đứng dậy, tôi cũng muốn gọi là trả lại chút nghĩa ấy, để lưu lại cái tiếng về sau.
Ai nấy đều hởi dạ, nói:
- Vậy hôm nào ông từ giã chúng tôi, chúng tôi xin mời ông dự một bữa tiệc để tỏ lòng quyến luyến.
- Các ngài có lòng tốt, tôi không dám từ.
Cả làng, từ ông già bà cả cho chí trẻ con, ai cũng tấp nập rủ nhau đến nhà ông Trưởng để đưa bạc đi đẻ. Thôi thì có bao nhiêu bạc giấy, hào, xu, họ đổi thành bạc đồng, và đánh cho thật bóng loáng. Ông Cửu mỏi tay biên sổ trong hai ngày, vì từ thằng khố dây trong làng, cũng cố cầm cố bán trác đồ đạc trong nhà để kiếm vài đồng bạc trắng. Ông Chánh bá, giầu nhất tổng, đưa đẻ hẳn năm trăm, mà còn tiếc vì vội quá, không kịp bán nốt mấy chục mẫu ruộng, ông Lý Thới, ông Lý Sang, ông Phó Ung, ông Cả Sích, vân vân và những nhà có máu mặt, đều cùng nhau đưa hàng trăm, còn hạng đưa hàng chục, hàng đồng, thì tên biên vừa đen kịt hai mươi trang giấy. Khi cộng sổ, ông Cửu phải lắc đầu lè lưỡi nói với ông Trưởng:
- Sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, chà! Có lẽ tôi phải lánh đến bẩy tám hôm chắc!
- Ông Trưởng cười gượng:
- Chúng tôi chỉ dám phiền ông có lượt này nữa thôi đấy. Ông chịu khó vậy.
- Vâng, tôi có dám phàn nàn đâu!
Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng để được xem phép lạ.
Nhưng họ có được trông thấy gì đâu, vì phải đứng cả ở ngoài sân, mà ông Cửu thì ở tận trong buồng để làm việc. Hàng năm sáu giờ đồng hồ sau, bỗng ông Trưởng, vẻ mặt quan trọng như ông tướng chạy ra hè hô lớn:
- Bây giờ ai phải về nhà nấy để bạc dưỡng thai. Cấm không ai được dòm, vì nếu có người lạ thì bạc tiêu sản, biến ra bùn mất cả. Ai không tuân lệnh mà làm hỏng mẻ này, thì phải đền sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, một thành hai!
Mọi người thấy câu nói đều sợ thiệt đến của riêng, bèn kéo ồ cả ra về. Ðộ năm phút sau, sân nhà vắng vẻ, ông Cửu bèn đi dò la chung quanh hàng rào, rồi một mình, khênh bạc ra vườn, lúi húi làm nốt công việc.
Lúc chôn xong, thì vừa hai giờ sáng, ông Cửu mệt nhoài, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng theo phép, ông phải lánh xa chỗ bạc dưỡng thai, nên ông vội vã khăn áo ra đi, và dặn lại ông Trưởng:
- Bốn giờ kém năm sáng hôm thứ bảy sau, tôi sẽ trở lại. Trong chín hôm tôi không có đây, ông phải cấm không được cho ai lai vãng ra vườn nhé.
Chẳng phải nói thì độc giả thừa hiểu rằng ông Cửu ấu đi lượt ấy thì thôi không trở lại cái làng văn vật này nữa, mà số bạc ngót bảy nghìn, không những không làm mẹ đồng nào mà lại thành ra con ông cả.
Thế mà đúng ngày hẹn, cả làng, lớn bé già trẻ đều phớn phở đến sân nhà ông Trưởng để chờ ông Cửu về. Họ nóng ruột nên cố thức suốt đêm, đến tận bốn giờ kém sáu phút, nhưng cũng không thấy bóng ông thầy Mường đâu cả. Ðào vườn thì không ai dám đào, vả biết chỗ nào mà đặt lưỡi cuốc?
Ðồng hồ chỉ bốn giờ kém bốn phút, mọi người không kiên gan nữa, bèn bàn nhau cứ đánh bạo mà đào. Nhưng sục sạo cả vườn, họ chỉ thấy... số bạc đã bị tiêu sản, tiêu cả con lẫn mẹ!
Việc lừa dối vỡ lở ra, cả làng đến chửi rủa ông Trưởng Sắc, bắt ông phải đi tìm cho được thằng bợm để làng đi trình quan, bỏ tù, nhưng nghĩ đến ông Ba Tuần sợ môi hở răng lạnh, nên ông Trưởng phải câm như hến. Tức quá, ông bèn nhất định đi ra Cẩm Phả, để trút cho ông Ba Tuần những của chẳng ngon mà làng nước tặng ông xơi, và bắt ông ấy phải đi tìm đứa gian phi, kẻo ở làng họ làm sốt ruột lắm.
Ðến nơi, mặt hầm hầm, ông đem lời trách móc, thì ông Ba Tuần cứ cười nhạt mà xin lỗi hoài. Rồi sau, chẳng làm thế nào hơn được nữa, ông mới dịu, thì ông Ba Tuần ghé vào tai ông, hỏi nhỏ:
- Bác mất bao nhiêu tất cả?
- Ðúng ba trăm.
- Thế bác có muốn hắn đền lại hay không?
Ông Trưởng bĩu môi, nói nhiếc:
- Hắn đền! Biết hắn ở đâu mà đền?
- Ðược, tôi biết. Nhưng bác đừng lôi thôi với hắn. Bác cứ để cho hắn làm chỗ khác mới được.
- Nhưng hắn lấy gì mà đền tôi?
- Bác về làng, phải mật chuyện này đi. Này, hắn sẽ lấy của người khác đền bác.
- Hắn còn lấy của ai được? Ai dại gì mà tin hắn nữa?
- Ồ, thiếu gì, lại những hạng có tiền và dại dột như tôi và bác chứ gì!
- À, ông Trưởng sực hiểu, nói: - À, ra chú lập tâm giới thiệu hắn với tôi đấy à?
Ba Tuần cười:
- Phải, vì trước kia tôi bị chú Hai Ðông giới thiệu, nên xuýt mất với nó hai trăm rưởi, nhưng chú ấy xui tôi nên im đi, mà rủ một người thân thích và có của vào cạm để nó lừa thì nó trả.
- À, nó ranh quá nhỉ. Thế bây giờ chú bảo tôi cũng làm như chú à?
- Ừ, tội gì.
Ông Trưởng cắn ngón tay nghĩ ngợi một lúc, rồi gật gù nói:
- Ðược, ông cậu ruột tôi là ông Nghị Thăng, giàu có tới vạn, mà cũng thực thà dễ bảo như anh em mình. Ông ấy tin cậy tôi lắm. Ðể tôi giới thiệu cho nó!
Nói đoạn, đắc trí, ông Trưởng Sắc cười xòa, mà ông Ba Tuần cũng ôm bụng, gò lưng, mép soạc đến mang tai mà cười như nắc nẻ...

Thật là phúc

Chú lính cơ Ván-cách(Số hiệu lính 24, nguyên từ tiếng Pháp vingt-quatre), cứ buổi chiều, ngồi trên phản trong trại, trông ra ngoài mành mành, thì cũng cho đôi mắt được một bữa tiệc no nê bằng cuộc ngắm những chị đi gánh nước ở giếng trong huyện.
Trong các chị gánh nước đó, chú chú ý nhất một chị, là "ma phăm" anh hàng bánh giò ở cổng huyện, tên là Tam.
Cứ kể ra, chị Tam trông cũng tình thực! Cái quần sồi đen nhánh, cái áo cánh hồ lơ, cái thắt lưng đỏ phấp phới bay theo gió, cái bộ xà tích lủng lẳng đập vào đùi, đã làm cho Ván-cách ta say lử cò bợ! Không những thế, chị Tam lại còn có cái bộ mặt "gioong"! Mỗi khi chị gánh hai thùng nước nặng mà đi qua trại, thì mắt cố nhìn thẳng, mũi cố cầm hơi, tay nguẩy đằng sau, đầu nghiêng bên cạnh, cố kéo cái hò áo cho kín ngực, tuy mất vẻ tự nhiên, nhưng mũm mĩm như quả đào Vân Nam mới trẩy, khiến cho Ván-cách ta chết cũng vớ vội lấy cái đàn bầu, mà tẳng tẳng vài tiếng. Nhiều khi thấy chị Tam hớn hở, chú chỉ phàn nàn có một câu rằng:
- Hoài của! Giá mình "sú-vơ-nia" cho nó ít giấy ráp để đánh đôi thùng rõ sáng, thì thực là bảnh chọẹ
Nói nôm ra, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví cho chị Tam một câu rõ haỵ Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng! Khốn nhưng chú chỉ quen thói tộp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học được mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câụ
- Van nhà, nhà buông em ra!
Nhưng mà người anh em chỉ dám "tiểuđi", thế thôi, chứ mà thầy quản đồn này nghiêm khắc lắm, lỡ chú bị "lập-gioòng", hoặc bạt tai thì phải biết! Cho nên, lắm lúc gặp cơ hội tốt, mà chú nghĩ đến hình phạt nhà binh, chú đành phải "đê mi tua" ngay!
Còn một kế sau cùng, chú nghĩ đã chín lắm, là nhân ngày lĩnh lương, hoặc gặp buổi bóp nặn được thằng dân nào, chú quyết bỏ hẳn ba hào chỉ, ra hàng chị Tam đánh một bữa bánh giò rõ no, thế là "a-lê", tha hồ tán chuyện!
Buổi tối hôm ấy, trong túi chú Ván-cách xủng xoảng có tiền. Chú bèn búi tóc yên ngựa cho thực nền, gài cái lược xương trắng cho thật khéo, chít cái khăn lượt cho thật vố, vuốt ít nước hoa cho thật thơm, rồi soi gương đằng trước, đằng sau, ngắm nghía mãi, mới thay quần, gài khố, bóc gói thuốc lá mới, phì phèo, huýt còi đi "la mát".
Lúc bấy giờ đã vào chín giờ khuyạ Nhà hàng phố đã đóng cửa kín mít. Chú Ván-cách lượn qua nhà chị Tam mấy lượt, thổi bài kèn "la vầy" rõ lẳng để đánh tiếng, rồi dòm qua lỗ liếp. Chị ngồi một mình, đương chẻ lạt. Chú ngắm nghía thế một lúc lâu, đắn đo, không biết thằng chồng đi đâu, nhưng cứ liều gõ cửạ Chị Tam đương lúi húi, bèn ngẩng đầu lên hỏi:
- Aỉ
- Tôi đây! Cho tôi mua ít bánh giò!
Chị Tam đứng dậy vừa nâng hé cái liếp ra, Ván-cách đã lách được vào rồị
- Chào chị, "mămđen" còn bánh giò không?
- Thưa thầy, hôm nay phiên chợ, nên nhà còn ít thầy mua giùm cho cháụ
- Được! Còn bao nhiêu mang cả ra đâỵ Anh ấy nhà chị đâủ
- Thưa thầy, chạy đâu ấy ạ.
Ván-cách được dịp tốt, "a la văng" ngay đến trước mặt chị Tam, vừa cười vừa lả lơi nói:
- "Cẩm-ma-lách" với nhau cả, thầy với cháu gì! Đừng nói thế, phải tội!
Nói xong, chú sấn ngay vào, nắm lấy cổ tay người yêu một cách âu yếm:
- Nhà ơi!
Thế rồi mắt chú lim dim như lúc ngắm súng. Chị Tam nhanh thoăn thoắt, giật ngay ra, lùi lại mấy bước:
- ô hay! Thầy quyền làm cái trò gì thế nàỷ Tôi kêu to bây giờ!
- Mình ơi, tôi yêu mình lắm!
Vừa nói, chú vừa sấn vào, ôm lấy chị Tam, đẩy ngã xuống đất, rồi cũng ngã theọ..
- ối giời đất ôi! Thầy quyền làm gì tôi thế nàỷ
Tiếng kêu rầm hàng phố. Thình lình, anh Tam ở đâu chạy về đến nơị
Hẳn các ngài đã đoán trước ngay rằng máu ghen của anh Tam mà đùng đùng nổi lên, thì chú quyền Ván-cách sẽ bị trói gô vào chân giường, và phải trận đòn nát da tan thịt.
Thế nhưng anh Tam tuy hơi tức đầy lên cổ, mà cũng cố nén ngaỵ Anh sợ Ván-cách là người Nhà nước lại có sức, có quyền hơn anh, mà anh thì hèn hạ. Chi bằng thôi, thu xếp cho êm là hơn cả. Cho nên anh chỉ lấy lời ngọt ngào mà nói với Ván-cách, chứ không dám lôi thôị
Vậy mà Ván-cách nào phải người biết điềụ Thấy Tam chịu nước lép, chú lại làm già, sấn đến, tát cho Tam mấy cáị
Ngờ đâu Tam giữ được cái chầy giã giò, giơ lên đỡ. Ván-cách tưởng Tam đánh, quờ tay, giật phắt ngay được chầỵ Rồi giơ thẳng cánh: "A, đê, toa, hấp!". Sống mũi Tam máu chảy đầm đìa! Tam ngã quay ra, miệng kêu rầm làng xóm.
Nghe tiếng kêu cứu, người phố kéo lại rất đông, mới gỡ được đám đánh nhaụ Nhưng Ván-cách vẫn còn hung hăng, trỏ vào mặt Tam mà mắng:
- Mày láo! "Tăng xương"! Mày không biết ông là ai à?
Hàng phố thấy chuyện bất bình, ai cũng thương hại vợ chồng Tam bị bắt nạt một cách vô lý. Lúc ấy, Ván-cách đã về rồi, nên nhiều người xui Tam đi trình ngay quan huyện, để ngài trừng phạt kẻ hay... lấy thịt đè ngườị
- ừ, cậy là lính huyện mà vào hiếp vợ người ta, lại còn đánh người ta, thì pháp luật nào dung?
- Phải đi kiện mới được, bắt nạt thế, ai chịu nổi!
- Cứ kiện đi, đã có tôi làm chứng. Nếu cứ để nó quen thói, thì nay nó hiếp vợ anh, mai nó tha gì vợ tôỉ
Sau một lúc bàn ra bàn vào, mãi anh Tam mới dám đội khăn, mặc áo, đi vào huyện
Quan ở trong nhà tự Ngài đương đánh tài bàn. Thấy đương đêm có ầm ầm tiếng kêu, ngài cũng đoán là có chuyện gì to xảy ra đó. Nhưng vì chưa có ai báo, thì chưa chắc đã to bằng ván bài phải báo của thầy thừa ù sửu bàn thiếu lưng!
Quan cười ha hả. Các cậu lệ thấy quan vui, cũng tủm tỉm liếc nhaụ Bỗng có tiếng rì rào ngoài cửa, và người kéo lố nhố đầy sân. Cậu lệ đang hầu nước bài, phải ngấc mắt lên nhìn mãi, đến nỗi phải chửi, vì quan bàn quân ăn quân đánh mà không biết.
Lúc ấy, tiếng xôn xao càng to, nên quan biết tất là đám kêu to ngoài phố khi nãỵ
Thật may cho anh Tam vì trình quan ngay vào lúc ngài đương vuị Đáng lẽ phải chờ đến buổi hầu sáng hôm sau mới được vàọ
Quan cho cậu lệ hỏi chuyện, thì thấy cậu dắt anh Tam vàọ Giá lúc ấy quan không mải nhìn quân bài dưới chiếu, hẳn ngài đã thấy anh Tam mặt mũi bê bết máu mệ
Tam vái chào, khúm núm gãi đầu, chắp tay, bẩm hết cả nỗi vợ bị hiếp là thế, mình bị đánh là thế. Câu chuyện rất dài, nên anh phải kể làm ba bốn nấc mới hết, vì thỉnh hoảng quan cắt ngang mà hỏi vặn:
- Khoan! Cửu văn đấy có phải không? Chíu... Gượm! Gì? Sao không xướng to lên?
Khi câu chuyện bẩm xong, thì vừa hết ván bàị Quan ngẩng đầu lên nhìn anh Tam, rồi cho gọi chị Tam vàọ Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn trời, khiến cho hai vợ chồng nhà hàng bánh giò phải thất đảm. Rồi ngài nghiêm nét mặt lại, như có ý muốn nghĩ để phân xử cho công minh.
Lúc đó, ngoài sân tối mù mù. Người đứng xem đằng xa cố ngậm miệng, nín hơi, để nghẹ
Một lúc, ngài sang sảng tiếng truyền xuống, như ông Long thần ban hạnh phúc cho chúng sinh mà dạy rằng:
- Đáng lẽ đương đêm chúng bay đánh nhau, thì không biết nếp tẻ ra sao, ông hãy bỏ tù hăm bốn giờ cái đã. Nhưng ông tha cho về mà làm ăn lương thiện, không được lôi thôi nữạ Vả lại vợ mày mặt mũi thế kia, chắc hẳn cũng có thế nào với nó, thì nó mới thế chứ? Thôi ông cho về. ông đang bận.
Một tiếng "dạ" dài, anh Tam thụp xuống đất lạy tạ quan hai lạỵ Đoạn anh lom khom lui ra, nét mặt vui vẻ như người biết an phận, rỉ tai nói với vợ:
- May quá! Suýt nữa thì phải ngồi tù. Thật là phúc! Lạy quan lớn ngàn năm!
Annam tạp chí, số 17, 1931

Hết

Thế là mợ nó đi tây

a bord du chantilly, le 10 décembre 1927
cậụ trời ơi, thực là tôi để lụy đến cậu! nếu biết trước rằng cảnh ly biệt nó xé tan nát gan ruột tôi như thế này, thà cứ chịu ở nhà dạy học, đỡ cậu mỗi tháng ba bốn chục bạc lương, thì được gần gụi gia đình, sớm tối vui thú với cậu, với con, việc gì đòi xuất dương du học, đến nỗi bây giờ vất vả một mình, thân gái dặm trường, khóc thầm với bóng!
từ lúc con tàu chạy xa, nhìn vào bờ, chỗ cậu đứng bế con, chỉ thấy cái mùi soa bay phấp phới mà thôi, thì tôi bồi hồi tấc dạ, giọt lệ khôn cầm, tâm sự ấy bút nào tả xiết! chỉ tiếc ngày thường không chịu nghiên cứu văn chương an nam, để lúc ấy tôi làm một bài thơ kỷ niệm sự biệt ly!
vào đến buồng, nằm lả trên giường, tôi không buồn dậy nữạ Đã toan lấy bút ghi chép mấy câu vào quyển sổ tay, nhưng thảm quá, nước mắt đã tràn trụa, không nghĩ ra câu nào mà viết! cậu ơi! cậu có làm thế nào cho tôi đỡ nhớ không?
nhưng nay biết làm thế nào bây giờ? con tầu ác nghiệt nó cứ mỗi lúc một làm cho mình xa nơi xứ sở thân thích, rồi nó lại che kín bằng bức màn sương. nghĩ lại lúc mới cạo răng, mặc bộ quần áo đầm, lúc mới bước chân xuống tàu, trong bụng hăm hở thế nào, thì bây giờ nhớ đến cái tình vợ chồng, cái tình mẹ con, tối tối được xum họp cùng nhau dưới ngọn đèn, thì ruột tôi lại cũng đau như cắt thế!
nhưng đã trót đi thì cứ dấn, tôi không nản chí đâu, cậu ạ! ở hà nội, thì chín khoa đã trượt cả, thì sang tây phen này, ba năm ắt giật được mảnh bằng tú tàị cậu sẽ chẳng xấu hổ mất tiền cho vợ du học đến nỗi tay trắng về không. tôi buồn thực. nhưng buồn bao nhiêu, tôi nhớ cậu bấy nhiêụ tôi nhớ cậu bao nhiêu, tôi lại càng không dám phụ công cậu nuôi cho ăn học.
thằng chó con, trông ảnh nó, tôi nhớ nó quá! nó có hỏi tôi luôn không? nó có biết rằng mợ nó đi tây không? mấy hôm nay, nó có hay quấy không? cậu nhớ cho nó chủng đậu đi nhé. mẹ tôi ở nhà có buồn không? nếu cậu thương nhớ tôi, thì nhờ cậu thay tôi, thỉnh thoảng đi lại khuyên giải mẹ tôi cho khuây khỏạ viết đến đây, nghĩ đến mẹ già, tôi lại tủị chẳng may nhà nghèo, đến nỗi bao nhiêu phí tổn đi tây học, tôi để phần cậu chịu cả! tôi thương cậu quá. thực là một người chịu khó nhọc một mình để kiếm lương nuôi vợ đi du học như cậu, ít có lắm.
nhưng cậu cũng nên thương tôi mà đừng chơi bời gì cả. lúc nào cậu cũng nên nghĩ đến tôi, thui thủi quê người, vì thương cậu mà đêm ngày cố công đèn sách. tôi nói thế, chứ chắc chả đời nào cậu lại phụ lòng yêu của tôi nhỉ! quái, sao hôm nay tôi thấy lao đao thế này, hay là say sóng rồi đâỷ
à quên, cái hộp phấn của tôi dùng dở để ở bàn, cậu cho mang lại đằng chị diệp hộ, vì chị ấy xin, mà tôi quên đi mất.
xin chúc cậu và con mạnh khỏe luôn.
tạ
tuyết anh
a bord du chantilly, le 1er janvier 1928
cậu,
những thư trước tôi gửi về, chắc cậu tiếp được cả rồị lá thư thứ nhất và thứ ba, có lẽ cậu xem lấy làm buồn lắm thì phảị sự đó tôi cũng biết lỗi, đáng lẽ người đi phải yên ủi kẻ ở bằng những câu vui vẻ, chứ tôi lại kể nỗi lòng thương nhớ chồng con, cho cậu phải phiền, thật bây giờ tôi lấy làm hối hận quá.
gần tới marseille rồi, cậu ạ. từ khi con tàu qua kênh suez, vào địa phận bể méditerranée tới nay, tôi thấy phấn chấn trong lòng lắm. trời tây bảng lảng bóng vàng, cái không khí êm đềm, nhẹ nhõm, làm cho tôi được thấy như khỏe mạnh hơn. nhất là từ khi tôi được quen mấy bà người pháp cùng đi một chuyến, thì những lúc nhớ nhà, nói chuyện cũng được khuây buồn. cho nên càng khuây buồn bao nhiêu, tôi càng nhớ đến cậu bấy nhiêụ chỉ thương cho cậu lúc này, có lẽ đang nằm thừ trên giường mà nghĩ đến vợ, lênh đênh giữa bể, không biết có bình yên mạnh khỏe không. nhưng cậu nên yên tâm nhé. vợ cậu buồn thì vợ cậu được thở than với bạn được viết thư nói chuyện với cậu, chứ những lúc cậu nhớ vợ cậu thì cậu than thở cùng aỉ cậu chỉ ngậm mối sầu trong bụng mà không viết được ra thư, vì thư của cậu dù có gửi ngay, tôi cũng chưa tiếp được! sự đau lòng mà không tỏ ra được mới thật là nên thương!
quái tôi lại nói chuyện buồn rồi! thế nàỏ hôm lễ noel vừa rồi, cậu có mua cho con thức gì cho nó chơi hay không? hôm nay cậu có đi chào tết hay không? chào những aỉ ở dưới tàu, sáng ngày, hành khách cũng tụ họp để chúc nhau, vui đáo để. mẹ tôi vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? cậu đã khỏi thực đau mắt chưả hỏi thế khí lẩm cẩm, ngót một tháng rồi, còn gì mà chưa khỏi nhỉ!
thôi, hôm nào tới marseille, tôi sẽ đánh dây thép báo cậu biết.
vợ yêu cậu
tuyết anh
aix-en-provence, le 7 janvier 1928
cậu,
ban nãy tới marseille, tôi đã đánh dây thép về cho cậu biết rồị chắc cậu đã tiếp được hơn một tháng nay, mà biết đâu, trong khi cái thư này vượt biển về hải phòng, nó không gặp cái thư của cậu gửi cho tôi sang pháp. thế mà chúng nó không bắt tay nhau, tệ nhỉ!
tôi tới aix mới được hơn một giờ đồng hồ! tuy trong người vẫn còn lao đao như khi ở dưới tàu, nhưng không thể nào ngồi yên mà không thảo vài câu để nói chuyện với cậu biết được.
ông bà madron ra tận marseille đón, cậu ạ. ông bà ấy vẫn vui vẻ như xưa, duy ông ấy thì trông khác trước vì bây giờ cạo trụi cả râu đi rồị ông bà ấy nhận ra tôi chứ giá để kệ, có lẽ tôi không biết ông ấy nữạ bà ấy có hơi già hơn trước, và nói rằng từ ngày về pháp, thì sự làm ăn có vất vả hơn ở hà nội tạ thằng robert nó còn nhớ tôi! bây giờ nó lớn lắm, bằng con người ta lên mười ấy! ông bà madron được mấy chai nước mắm của tôi biếu thì mừng rơn, nói rằng từ ngày về tây, chỉ nhớ nhất là thứ đồ ăn đặc biệt ấỵ ông bà ấy quý lắm, đem cất kỹ vào trong tủ.
à quên, từ marseille đến aix, chỉ có 29 km thôi, chứ có phải 39 km đâu mà trước cậu cứ cãi mãị tôi đi xe điện chứ không đi xe lửa, chỉ độ ngót một giờ thì tớị hai bên đường phong cảnh đẹp lắm, nhưng vì tôi mệt, nên chưa quan sát kỹ, để một thư sau, tôi sẽ tả rõ.
mai tôi nhờ ông madron giới thiệu hộ với giáo sư bourguignon độ đến tháng octobre này thì có thể thi vào lớp 1ère ở lycée mignet được.
kính chúc cậu và thằng chó mạnh khỏe,
jet embrasse
tuyếtanh
aix, le 12 janvier 1928
cậu,
từ nay, cậu viết thư cho tôi, thì cứ đề về no 2 phố eméric david là nhà tôi thuệ
tôi sở dĩ phải thuê nhà, là vì ở đằng ông bà madron chật quá, không có chỗ tĩnh để học, mà chính bà madron giữ ý, không muốn để tôi ở đằng ấỵ nhưng thế là tiện lắm. nhà thuê mất 200 f một tháng. rẻ đấy, vì chủ nhà là người bà con với ông madron. chỗ ở xinh lắm, lại được gần nhà hội quán của tụi học sinh an nam, số nhà 25. từ nhà tôi đến nhà ông bourguignon cũng gần. ông bourguignon ở đầu phố, giáp ngay cours mirabeaụ mỗi khi tới đây, thấy xe điện chạy về phía marseille, thì tôi lại nhớ nhà lắm. nhất là ở trước cửa nhà trọ, có một cái cây sao mà giống cái cây trước cửa nhà ta thế! cũng có cái cành cụt, trước cậu vẫn bảo như cái nắm tay giơ ra để ục nhau ấy mà!
à, gớm chiều hôm nay, ở café leaydet, gần phố tôi ở, có một chuyện xảy ra ghê cả ngườị có hai người học sinh ta họ cãi nhau về nghĩa lý văn bài thế nào, thành ra to tiếng. may có anh em vào can mới yên. học sinh an nam ta, cứ chiều tối là hay ngồi đó. học sinh người mình ở aix có độ ngót trăm. nhiều người học hành xuất sắc lắm, nhưng lắm bố con nhà giàu thì chỉ chơi bời mà thôi! có ít người cũng ở phố david, vì gần hội quán, lại gần lycée mignet, đi độ 5, 6 phút thì tớị
tối mai, bà madron rủ tôi đi xem cinéma, cách chỗ tôi ở một quãng, tôi đã nhận lờị
tôi xin thề rằng sẽ hết sức học hành để khỏi phụ lòng cậu trông cậy, xin cậu yên tâm. ông bourguignon giỏi khoa văn chương lắm, nghe ông giảng như nước chảy, mê cả tâm thần!
chắc vài hôm nữa, tôi sẽ tiếp thư cậụ ở nhà có việc gì lạ, xin cậu đừng giấu tôị
tạ tuyếtanh
aix, le 4 février 1928
cậu,
Đọc thư cậu, nước mắt tôi tràn trụa đầy cả ra giấỵ trời ơi! biết thế này, thì tôi chẳng đi tây cho nó đành!
thôi cậu ạ, cậu có thương tôi, thì cậu nên nghe tôi, cậu đừng đi làm thêm giờ nữạ vẫn biết mỗi tối làm thêm vài giờ chẳng là bao, cuối tháng cũng được ba bốn chục bạc phụ cấp, nhưng cậu cứ cặm cụi quá sức thế thì đến kiệt lực mà ho lao mất! cậu có khỏe gì bằng ai, tôi tưởng chả nên tham việc quá thế. thì ra chỉ tại tôi mà đến nỗi một mình cậu vất vả, cậu làm cho tôi thương cậu đến nỗi ốm mất.
cậu ơi! cậu nên tĩnh dưỡng, nên coi sức khỏe làm trọng mới được. lương cậu hiện đã được 140 đồng mỗi tháng, chỉ phải gửi cho tôi có 80 đồng, còn ăn tiêu ở nhà cũng tiệm đủ rồi, thì thôi, tôi xin cậu, đừng nên quá tham, lỡ có mang bệnh, lại để tôi ân hận suốt đời vì con vi trùng ho lao có nể người tốt bụng đâủ
nếu cậu không nghe tôi, thà rằng cậu cho tôi xuất tàu để tôi về còn hơn.
nhân tiện xin nói để cậu biết, cậu nghĩ vậy mà khuyên tôi như thế cũng là phảị nhưng tuy tôi là thân gái một mình ở nước tự do, song, xin cậu biết rằng ở đây tự do thật, nhưng là cái tự do có giáo dục, chứ không như ở bên ta đâụ vả lại bao giờ đi ra ngoại quốc cũng phải giữ sĩ diện cho nòi giống chứ. tôi nói quá như thế để cậu yên tâm, chứ nào cậu có ngờ gì tôi đâụ xin cậu biết cho rằng không phút nào là tôi không nhớ cậu, nhớ con, là hai người thân nhất của đời tôị trừ những khi mắt để vào quyển sách, thì lúc nào tôi cũng nhìn lên ảnh cậu và ảnh con để ngay trước bàn mà ngắm cho khỏi nhớ.
ở đây, tháng février này rét lắm. sáng hôm nay có mưa tuyết. chiều đến, ở cours mirabeau, trẻ con nắm tuyết ném nhau trông thật vui mắt.
mưa tuyết xong, tiếp luôn mấy trận gió mistral thổi rét thấu xương. Đường phố lội nhơm nhớp, bẩn quá. à, tôi đã nói chuyện cho cậu nghe cái lối đỗ ôtô ở phố chưa nhỉ? mới trông lạ mắt, buồn cười lắm. nó không đỗ theo dọc đường, sát hè phố như bên ta đâụ xe nào cũng đứng ngang đường, quay mũi ra ngoàị bây giờ trông quen, không thấy lạ nữa, mấy hôm đầu, đi sát vào mũi, tưởng hình như nó sắp xéo bẹp mình! cậu đã nhận được áo đan chưa, sao không thấy nói trong thử cậu viết cho tôi đi, dài vào nhé! nhớ cậu quá!
tuyết anh
aix, le 2 mai 1928
cậu,
khốn nạn thân tôi, sao cái tin đau đớn của tôi, cậu không báo cho tôi biết bằng dây thép. Đành rằng mẹ tôi chết, dù có biết sớm cũng không làm gì được, nhưng sao cậu ác nghiệt quá thế, trời ơi!
cậu ơi! tôi bất hiếu quá, mà ông trời kia sao khéo lừa dối tôi làm vậy, bắt tôi đi xa rồi đem mẹ tôi đi đâủ
ông bà madron thấy tôi có tin buồn, sang khuyên giải và tiêm cho tôi liều thuốc bổ. bây giờ tôi không mê man như lúc mới tiếp tin nữạ khốn nạn, dù tôi có than khóc hết hơi cũng không sao thấu được đến cửu tuyền, để yên ủi linh hồn mẹ. sao tôi chẳng được chết đi cho rồi!
nhưng đến trường hợp này, tôi mới rõ bụng cậụ thực là ít thấy có. mà nhà tôi cũng là đại phúc, nên trời kia xui khiến tôi được hầu hạ cậụ mẹ tôi chẳng may chết đi, có tôi là lớn lại đi vắng, nhưng được cậu ở nhà, lấy tình rể cũng như con, mà cáng đáng lo lắng cho các việc ma chay, cái ơn trời bể ấy, tôi biết lấy gì đền lạị tôi chỉ khấn cho cậu sẽ được trông thấy tôi công thành danh toại, một mai về nước, đem tiếng thơm về đền ơn trả nghĩa cậu mà thôị nếu kiếp luân hồi mà có thực, thì tôi xin cả kiếp sau cũng tìm được cậu để được trả nghĩa cho trọn cái ơn nàỵ
cậu ơi, tôi nói không sao xiết ý được. mà nhất là trong lúc tôi gặp cảnh đau đớn này, thì tôi chỉ biết than thở, khóc lóc mà thôị còn thằng em bé tôi đấy, tôi cũng xin cậu trông nom cho nó được nên người, để tôi yên tâm học tập. xin cậu vì thương tôi mà thương đến nó, chứ bây giờ tứ cố vô thân, nếu cậu không đoái hoài đến nó thì thật không còn bấu víu vào đâu được nữạ khốn nạn cho tôi, ở vào cái cảnh nghèo! tôi nghẹn lời, không sao viết được thêm nữạ
à, thư trước viết bằng tiếng tây là ý để cậu biết sức học của tôi bây giờ thế nào, chứ có dám nghĩ như thế đâu, cậu miễn trách chọ cậu đừng chơi bời gì nhé, nên thương đến tôị
vợ khốn nạn của cậu
tuyết anh trăm lạy
aix, le 29 juillet 1929
cậu,
thế nàỏ sao cậu không mời docteur cho con, uống thuốc ta, tôi tưởng chả ăn thua gì đâụ nhưng nó cũng mệt xoàng thôi đấy chứ? Đầu tháng này, có kết quả kỳ thi tú tài, tôi trông thấy người đỗ, mà lại lo, chẳng biết sang năm, số phận mình ra saọ
nhưng mà xem ra tôi học tấn tới lắm, cậu ạ. cậu cứ yên tâm mà làm ăn. cái bát họ của chị tham, cậu nhận như thế cũng phảị thà mua sớm mà trả nợ, còn hơn là để nó dây dưa, rồi đến hẹn, phải lo một món tọ cậu cứ chịu khó ăn sẻn để dành, nay mai phúc nhà còn vượng, tôi đỗ về, thì lúc bấy giờ ta làm giầu!
nghĩ đến tương lai thì phấn chấn trong lòng, mà nghĩ lại riêng mình cậu khó nhọc, thì tôi lại đau từng khúc ruột. vì tôi mà cậu mang công mắc nợ, một mình lo lắng năm canh! nào cho tôi đi học, nào lo lắng ma chay cho mẹ vợ, nào nuôi cho em vợ đã đỗ được nên ngườị
Độ này cậu phải đi làm thêm như thế có mệt lắm không? cậu nên mua thuốc bổ mà uống. nếu không thì lại đằng ông lang hai mà mua lấy mấy lạng cao ban long để ăn. cậu chớ nên coi thường sức khỏe làm vậỵ
năm nay ở bên này nắng lắm, cái nắng khô khan ở miền nam này, lắm lúc tôi cũng thấy khó chịu, nhưng vẫn được mạnh khỏẹ
tôi gửi theo đây gói đồ chơi cho con, nó mừng rỡ thế nào, cậu cho tôi biết. cái ảnh cậu mới gửi sang, sao tôi trông gầy thế? mà mũi con có vết gì đau, hay cái vết sờn trong ảnh, cậu cho tôi biết.
tôi khỏi ốm ngay tối hôm tôi viết thư về cậụ nếu biết rằng cậu lo, thì tôi chẳng nói cho xong.
mille baisers
tuyết anh
aix, le 15 aout 1930
cậu,
thật là từ ngày tôi sang bên này tới nay, tôi tiếp thư nào ở nhà cũng lấy làm buồn bực, ân hận.
ai ngờ vừa tháng trước đánh dây thép báo tin đỗ cho cậu biết, thì nay đã tiếp được tin cậu như sét đánh ngang taị
thế nào, cậu ho ra làm sao mà có máu thế? tôi nói có sai bao giờ đâụ cậu chả nghe tôi, cậu chả bổ dưỡng sức khỏe, để đến nỗi mang bệnh vào mình. nếu cậu ho lao, thì cái vô phúc, trăm phần tôi xin chịu cả. thà rằng tôi chết cho cậu được sung sướng, còn hơn tôi để cậu phải cáng đáng một mình hết nỗi nọ đến nỗi kiạ
cái ảnh phổi cậu chụp xong, cũng cho tôi xem vớị nếu thầy thuốc chiếu điện mà đã nói thế, thì tôi tưởng chỉ nên nghỉ việc đi là hơn.
nhưng làm thế nàỏ cậu trồng cây sắp tới ngày ăn quả. Đến sang năm, tôi thi nốt phần thứ hai kỳ tú tài rồi, vậy cậu nghĩ tôi thế nào, tôi cũng xin vâng theọ
ở bên này, ông madron mấy hôm nay cũng ốm, đến nay bệnh vẫn chưa thấy luị
thì ra xung quanh mình, tôi chỉ thấy những sự buồn mà không đủ sức để can ngăn nó được. tôi khổ lắm!
bệnh tình cậu hiện nay thế nào, từ nay xin cứ mỗi kỳ tàu, cậu nhớ cho tôi biết. con thế nàỏ vẫn chơi ngoan đấy chứ? chuyện gì bí mật mà tôi hỏi trong ba bức thư luôn, cậu chưa trả lời thế? Đừng chơi bời gì nhé!
nay kính thư
tuyết anh
aix, le septembre 1931
thưa cậu,
tôi bất đắc dĩ cầm bút viết bức thư này để tạ tội cùng cậu, xin cậu tha thứ cho người vợ bạc bẽo, phản bội nàỵ
tôi chịu ơn cậu rất nhiều, cũng mong đến ngày công thành danh toại, về để hầu hạ cậu, giúp đỡ cậu trong lúc ốm đau. nhưng mà... tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi, cậu cũng cầm lòng như tôi hư mà cậu bỏ tôi từ trước, hoặc duyên đôi ta giữa đường đứt quãng, thì từ nay xin cậu coi tôi như không có nữa mà thôi.
sự vợ chồng ông trời đã định sẵn, có lẽ duyên nợ của cậu với tôi, đã hết từ ba năm trước, lúc đưa nhau ở bến tàu sáu kho.
cậu cũng đừng nghĩ, đừng tìm tôi nữa, tôi sẽ ở nam kỳ với một người bạn học tôi mới đậu y khoa bác sĩ.
An Nam tạp chí số 43; 1932

Hết

Kép Tư Bền

Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên Kép Tư Bền. Ấy anh ta chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp.
Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì anh ta có tài riêng mà tính lại thích tự do, nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào. Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ, là cũng đông khách. Cho nên, tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền đóng vai giễu là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về không, phàn nàn rằng rạp chật quá!
Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả. Vì đã hơn một tháng nay, cha anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng hòa lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng, thuốc thang chữa chạy, nào anh có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để dành của một vai kép dần dần cũng đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các ông chủ rạp hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem ra tòa đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ:
Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
- Vâng, tôi định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng đáng.
- Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?
- Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
- Trong nửa tháng! Chà!
Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, nhưng trong anh lẩn vẩn nghĩ ngợi biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm. Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ vậy anh đáp phắt:
- Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!
Rồi anh trỏ vào màn và nói tiếp:
- Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.
Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò tay ra cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Nhưng lật bật cầm không vững, cụ đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm rãi nổi lềnh bềnh.
Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha:
- Sao ông không gọi con?
Rồi anh đỡ lấy chổi quét chỗ nước lênh láng đi, đoạn nét mặt rầu rầu, anh nói.
- Đó, ông coi, vắng tôi sao đặng.
- Không, cậu cứ nhận lời giúp tôi, tôi sẽ sai người đến trông nom hộ cậu.
- Đa tạ ông, nhưng tôi không yên tâm.
Lúc ấy, trong màn có tiếng keng keng của chiếc đũa đập vào bát sứ. Đó là hiệu gọi. Anh Tư Bền lật đật chạy lại gần cha. Giọng khàn khàn của ông cụ sai anh rót chén nước.
Nhân muốn gây cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại gần giường, mở màn, rồi hỏi:
- Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không.
Ông già giương hai mắt lên. Rồi như đã nhận biết, bèn nhăn bộ răng ra cười, cái cười khó đăm đăm, và gật gật mấy cái, rồi run lẩy bẩy, giơ tay ra bắt.
Các ngài đừng tưởng rằng ông cụ quen gọi lối tây, nên mới bắt tay đâu. Đến phải nhăn bộ răng ra cười còn là sự bất đắc dĩ nữa là. Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, vì là tiếp khách theo lối lịch sự của những người mà con mình có nhờ vả.
- Cụ cũng không yếu lắm nhỉ. Sao cậu Tư Bền không nhận lời cho tôi?
Ông cụ hất hàm, có ý hỏi.
- Tôi sắp cho tập vở mới, định nhờ cậu ấy sắm vai chính.
Ông cụ lại nhăn răng ra cười và gật, nhưng anh Tư Bền nói ngay với cha.
- Ông mệt lắm, con phải ở nhà.
Ông cụ cau mặt. Chỉ có anh Tư Bền hiểu. Bởi vì ông cụ chẳng muốn vì mình mà con làm trái lòng người chủ nợ. Ông chủ dỗ dành, nói:
- Cậu cứ giúp tôi đi. Cậu mà nhận lời, thì món tiền ấy, cậu để đến bao giờ cũng được. Còn tiền hỏa hồng khi diễn tấn "Ông huyện ba phải" này, cậu cứ lấy cả để thuốc thang cho ông cụ.
Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ cha ốm một mình là ở câu nói ấy. Mà cha anh cũng vì câu nói ấy mà nở nang cả lồng xương ngực. Ông cụ cố thở mạnh mấy cái cho khoan khoái trong lòng.
- Cậu nghĩ sao?
- Nhưng nửa tháng trời! Ai trông nom cho cha tôi?
- à, thôi, thế này thì cậu bằng lòng nhé. Cậu cứ ở nhà mà học vở. Đến hôm diễn thử lần cuối, cậu hãy đến rạp cũng được. Vì tôi biết cậu thông minh và có tài hơn người khác. Tội chi, có dịp trổ tài, vả lại để cho thiên hạ nhớ mong lâu cũng không tiện!
Nghe câu nói sau cùng như được ăn miếng bánh thánh, anh Tư Bền có vẻ nghĩ ngợi. Anh nhìn cha. Ông cụ thấy con còn ngần ngừ, thì lộ ra vẻ không bằng lòng. Cụ nhăn mặt, cố cất lên cái tiếng khàn khàn để gắt:
- Nhận lời đi!
Nói xong, lại ho sù sụ.
Anh Tư Bền cảm động, nhìn ông chủ rạp Kịch trường và trả lời.
- Vâng!
Ông chủ vì chờ cái tiếng vâng này mất nhiều công quá, nên sợ nó không được chắc chắn. Đến hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm sao, anh cứ vắng mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Ông bắt anh làm giấy giao kèo.
Bà con sính xem hát, hôm đó thấy ôtô quảng cáo chạy rong khắp phố để thả chương trình, và vải căng ở các ngã tư, đều nô nức rủ nhau đi xem buổi biểu diễn đặc biệt, có Tư Bền sắm vai chính.
Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như ban ngày, chiếu rõ cái cảnh người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía, bướm ong chờn vờn. Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, non nghìn thiếu niên nam nữ túm tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ nóng ruột lúc chờ đợi. Tiếng nhạc hòa trong rạp, du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình tứ ái ân, như câu, như kéo, làm cho người ta quên hẳn, mà bất giác moi túi lấy tiền mua vé.
Rồi cái làn sóng người dần dà tràn vào trong. Trên các hàng ghế, chỗ nọ nhắc lại câu bông lơn của kép Tư Bền, chỗ kia bắt chước điệu bộ của kép Tư Bền. Ai nấy đều nóng ruột sốt lòng, mong cho chóng đến giờ mở màn sân khấu, để được cười, được vỗ tay, được học thêm vào lối pha trò mới, để mai làm nhếch mép người yêu.
Vinh dự thay, anh kép Tư Bền! Nhưng mà khốn nạn thân anh! Người ta biết đâu rằng hiện giờ này, ở nhà, cha anh đương dở chứng khò khè, chỉ chờ từng phút để thở một hai hơi nữa là hết nợ, và ở trong buồng trò, anh cũng đương nẫu ruột nhầu gan. Thật vậy, ai ngó vào trong buồng trò mới thấy được cái khổ tâm của anh Tư Bền. Anh ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng thì rối beng, mặt thì nhăn nhó, nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn hồng để đánh mặt, quệt vào đĩa mực để bôi nhọ cái mồm. Rồi anh phải mặc trái cái áo lụng thụng thêu, lận đôi hia xanh và đội cái cánh mũ chuồn ngược. Anh đóng vai này, trông ra phết giàu sang sung sướng. Chốc nữa, anh còn phải làm cho chủ anh bằng lòng, các bạn anh trông anh mà gắng sức, các khán quan được một phen cười vỡ bụng vỗ rát tay kia mà! Nhưng mà cha anh Tư Bền sắp chết! Ban nãy lúc anh ở nhà ra đi, đã thấy nguy lắm rồi. Thôi! nhưng mà mặc kệ. Anh phải quên đi, mà bông, mà đùa, mà pha trò trên sân khấu, cho chúng tôi cười, hét lên mà cười, cười đến nỗi lăn ra cả đất chứ?
* * *
Một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên. Một tràng vỗ tay đôm đốp như pháo nổ để hoan nghênh ông chúa khôi hài. Anh Tư Bền lững thững bước ra, cúi đầu chào, rồi đứng thần người ra như phỗng một lúc. Tiếng reo, tiếng hò, tiếng vỗ tay lại làm dữ hơn trước! Mà khách quan thấy anh ăn mặc ngộ nghĩnh, cái mồm bôi nhọ nhem, thì ai nhịn cười được! Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! ác thật! Vai anh Tư Bền hôm ấy cứ phải đứng trên sâu khấu. Nhất là anh phải làm nhiều điệu bộ hơn mọi khi. Lắm lúc còn phải rặn ra mà cười ha hả!
Hết cảnh đầu. Sao mà lâu thế! Anh được nghỉ một chốc, mới nhờ người về xem tình hình cha anh ra làm sao. Rồi anh lại phải ra trò. Anh lại phải hò, phải hét phải dằn từng tiếng, phải ngân từng câu, phải làm những điệu bộ, phải cười ha hả như cảnh thứ nhất. Người xem hát thì cứ trông thấy anh là cũng đủ cười rồi. Nào họ có để ý và nhìn rõ đâu được cái vẻ lo âu của anh, nó hiện ra ở trước mắt. Bỗng khi anh đương phệnh phạo trên sân khấu, khi người ta đương vỗ tay đôm đốp, thì anh nghe thấy có người ở trong phòng nói ra:
- Nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!
Cha anh cấm khẩu rồi! Đành vậy, nhưng chính là bây giờ mới nhiều cái vui trò. Khán giả dưới kia, hàng mấy nghìn con mắt, đương chăm chắm vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ anh há miệng là họ được lăn ra mà cười và vỗ tay mà thôi.
Cảnh thứ hai cũng lâu như cảnh đầu, mãi mới hết. Lúc anh đang ngồi thừ trong buồng trò, thì anh lại nhận được tin báo nữa, là hiện nay cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi.
Còn gì đau đớn hơn cái tin ấy nữa! Anh Tư Bền bỗng ứa hai hàng nước mắt, rồi khóc nức nở:
- Cha ơi!
Ông chủ thấy vậy, sợ quá. Anh mà bỏ dở vở kịch đương vui thì nguy. Ông cố khuyên giải, và cấm không ai được báo tin gì cho anh biết hết.
Sân khấu bài trí đã gần xong. Ông chủ bắt anh đánh lại tý phấn cho thêm xuân sắc, và sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn. Ông thấy anh vừa dắt lại dải áo, vừa sụt sịt mếu máo, thì bắt anh im đi, chùi nước mắt. Rồi ông đẩy anh ra sân khấu. Anh lại phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy, để mua gượng lấy những tràng vỗ tay. Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền, đi đôi với cái bông lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên. Mà càng thấy vắng bặt tin nhà, ruột anh càng nhàu như dưa, xót như muối.
Cái cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới, thì khán giả cho anh là chóng quá. Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào, thì cả rạp vỗ tay đôm đốp thật dài, dài mãi. Anh tưởng phen này quyết hết nợ, quyết được về cạnh giường bệnh của cha để nhìn mặt cha một lượt sau cùng trước khi tắt nghỉ, thì ở hàng ghế hạng nhất, người ta kêu ầm:
- Bis! Bis! (1)
Ông chủ rạp lại cho kéo màn lên. Anh Tư Bền lại phải giấu bộ mặt rầu rầu mà anh thích - vì nó hợp với tâm lý anh hơn, - để vui vẻ mà diễn lại đoạn cuối lượt nữa.
Rồi khi bài kèn chào nổi lên, hồi vỗ tay sau cùng như làm vỡ rạp. Cái màn từ từ buông xuống. Anh cúi đầu thong thả chào. Nhưng bao nhiêu người, chẳng để chậm thì giờ, đã tranh nhau chạy lên gần anh. Người thì tặng hoa, người thì bắt tay, người thì véo mũi, người thì khen. Làm cho anh ruột càng như thiêu đốt.
Khi không còn phải thở dài để hoan nghênh những cái hoan nghênh của công chúng, anh Tư Bền mới lật đật chạy vào buồng trò, cởi vội mũ áo và rửa quàng mặt mũi.
Lúc ấy, trong khi anh đang rối beng nghĩ đến cha anh, không biết bây giờ đã lạnh tới đâu, thì một người bạn hát chạy đến, vội vã ấn vào tay anh tập giấy bạc của ông chủ để sẵn cho anh, và nói:
- Mau mà về. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân anh quá!
1933
_____________
(1) Diễn lần nữa .

Oẳn tà rroằn

- Anh Phong, thế anh định bỏ chết tôi à? Không trách người ta bảo đàn ông bạc tình, có oan tí nào đâu! Tôi vì nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, nào những là lấy nhau, nào những là ăn đời ở kiếp cùng nhau... Từ đó đến nay, tôi dốc một lòng chờ đợi, ai đến dạm hỏi, tôi cũng kiếm cớ thoái thác. Vì tôi đã trót hứa cùng anh. ấy thế mà anh quyết tình giở mặt. Hẳn anh cũng biết tôi chỉ là quá dại dột mà nghe anh, nên mới mang vạ vào mình. Anh nghĩ sao cho vuông tròn thì nghĩ...
- Cái bụng Nguyệt vài tháng nữa thì tròn bằng cái thúng, Nguyệt còn phải cần gì đến tôi nghĩ nữa!
- Tôi không nói đùa! Nếu anh không làm hại tôi, thì làm gì tôi không lấy được người chồng tử tế.
Lúc bấy giờ, ở bờ hồ Hoàn Kiếm, mảnh trăng ngọn gió như khơi động tâm tình gió trăng. Nguyệt và Phong lững thững bước vào cầu Thê Húc.
Hai vẻ mặt cùng lo, nhưng hai cái lo khác nhau. Nàng vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ở trong bụng. Chàng lo vì vô tình định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra.
- Thế có chắc Nguyệt chửa với tôi không?
- Này, năm nay tôi mới mười tám tuổi đầu, sao anh đã đổ bậy, đổ bạ cho tôi cái tiếng khỉ gió ấy! Anh hỏi tôi chửa với ai à? Rồi nó giống ai, nó máu mủ ai, thì anh biết. Tôi con nhà trâm anh, anh cũng con nhà thế phiệt, vì một lời giao ước, nên tôi mới quá chiều anh. Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là vợ, nên tôi dốc một lòng chung thủy, thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh. Nếu bây giờ tôi loan chung phượng chạ thì đây này, tôi sẽ chết như thế này này!
- Đừng thề độc, lỡ chết thật thì oan!
- à anh nhiếc tôi mãi. Thôi, đồ bạc tình! Anh buông tôi ra!...
- Này, cầm lấy cái này.
- Cái gì đấy?
- Lọ thuốc thôi thai, Nguyệt uống nó vào, cho cái thai ra, thế là mất tích.
- Eo ơi! Anh nói mà tôi ghê cả mình! Nếu anh cố tình giết cả hai mẹ con tôi, thì đây này, tôi liều chết ngay trước mặt anh, cho anh trông thấy. Anh buông tôi ra. Trời ơi! Ngờ đâu hồ Hoàn Kiếm này chỉ là mồ hồng nhan!
Nàng giật tay ra, chạy lại mé đầu cầu. Phong vội chạy theo, níu vạt áo lại:
- ấy chết! Chớ chớ! Tôi thử Nguyệt đấy mà!
- ...!
- Này em ơi!
Nguyệt gục đầu, ôm mặt, hu hu khóc...
- Nguyệt ơi! Em chớ lo, anh vẫn biết Nguyệt là người chung tình với anh, Nguyệt không phải phiền lòng. Cái thai trong bụng Nguyệt là con anh, là con Nguyệt, Nguyệt cứ yên tâm. Anh thề rằng sẽ chu toàn danh tiết cho Nguyệt. Đến ngày khai hoa, anh sẽ đưa Nguyệt sang nhà hộ sinh tỉnh Bắc Ninh. Sau khi mẹ tròn con vuông, anh sẽ tính cuộc trăm năm với Nguyệt.
- Này đừng nỏ mồm!
- Em đừng mắng anh mà oan! Thôi, em cứ đi về...
- Tôi không về đâu cả. Sống gửi thác về, mả tôi đây rồi!
- Anh van Nguyệt, nếu anh không giữ được lời hứa, xin nguyện trời tru đất diệt! Em cứ về, cứ yên lòng...
Nàng lau mắt, khẽ gượng đứng dậy, gọi xe về nhà.
Phong vừa đi vừa nghĩ:
"ừ, suýt nữa mình gieo cái vạ tầy đình, giết cả hai nhân mạng. Giá một mình con Nguyệt nó tự tử, thì mặc quách nó, nhưng lại đèo cả đứa con ta ở trong bụng nó!... ừ, tính tháng, tính ngày, quả nó có mang với ta... Vậy đợi lúc nó đẻ, ta lấy con về nuôi, còn việc trăm năm với nó thế nào ta không nên nghĩ trước".

+
+ +
- Chết chửa! Thế mợ định uống thuốc thôi thai thật đấy à?
- Cậu tính tôi mới có mười tám tuổi đầu, chồng con chưa có, mà chửa hoang, thì còn xấu gì bằng!
- Chà, việc gì mà xấu, sự xấu tốt đối với phong trào dư luận xã hội như làn khói trước ngọn gió to, chỉ đánh loáng là không ai trông thấy nữa. Thế thì dư luận có gì là đáng sợ? Vả lại tôi hiếm hoi, lấy nhà tôi ngót hai mươi năm giời, con cái chưa có, thì mợ cứ yên lòng, sau khi ở nhà hộ sinh ra, tôi sẽ thu xếp để mợ với tôi ăn đời ở kiếp.
- Tôi cám ơn cậu! Cậu hơn tôi bốn chục tuổi đầu, tôi mà lấy cậu thì người ta cho là bố lấy con. Vả vợ cả cậu như con sư tử cái, lẽ nào lại để yên cho cậu thương tôi. Cậu cứ mặc tôi, để tôi tự xử, cậu không cần nghĩ đến. Bao nhiêu việc, tôi đã định sẵn, tôi đành uống thuốc để giữ cho vuông tròn tiếng tăm. Vả tôi là con nhà thi lễ, mơn mởn đào tơ, làm gì không lấy được chồng ông nọ ông kia, can chi vội vàng mà vơ quàng vơ xiên vội.
- Mợ nói thế, tôi đau lòng quá. Mợ phải hiểu cho rằng cái thai trong bụng mợ là đứa con sau này của đôi ta.
- Nếu cậu có thương con cậu, thì mai, tôi xin gửi lại giao trả cậu.
- Chết nỗi! Tôi xin mợ.
Luồng nước cuồn cuộn dưới sông, hàng cột ù ù trước gió, dây sắt cầu như dăng mắc mối tơ tình. Trên cầu sông Cái, Nguyệt đứng thừ ra, tựa tay vào lan can, mặt nhìn làn sóng lềnh bềnh trước mặt. Bắc vểnh bộ râu ghi đông, nét mặt ra dáng van lơn lo lắng.
- Nào tôi có phải ăn ở bạc tình với mợ đâu mà mợ nỡ dứt lìa thế?
- Tôi cũng biết vì tôi đối với cậu chung tình, nên cậu đối với tôi trung hậu, nhưng tôi không thể nào đeo mo mà sống ở đời được.
- Sao mợ lại bảo là đeo mo? Vẫn biết rằng đàn bà quý giá ở chữ trinh, nhưng mợ có phải là gái thất trinh đâu? Vì mợ quá yêu tôi, quá chiều tôi, nên đến nay đeo đẳng khối tình cùng tôi. Vậy rồi sau, tôi nuôi con, lại cưới mợ về làm vợ. Làm người vợ, cần giữ chữ trinh với chồng. Mợ chung tình với tôi từ trước đến nay, thì đối với riêng tôi, mợ vẫn chu toàn được chữ trinh. Vậy cớ làm sao mà phải nghĩ? Nếu tôi bạc tình cùng mợ, toan bỏ lửng mợ, thì mợ mới đáng hờn duyên tủi phận chứ!
- Thôi tôi xin cậu, tôi nào dám tin cái mồm mép đàn ông!
- Nếu tôi ăn ở như kẻ khác, xin thề rằng ngọn đèn điện này tắt, tôi cũng chết.
- Thề! Thề cá trê chui ống! Cậu buông tôi ra, tôi xin gửi thân tôi cho Hà bá dưới sông này.
- Mợ định tự tử? Nếu mợ chết, tôi xin chết theo ngay.
- Khổ lắm, cậu kệ xác tôi! Tôi không tin ai ở đời này nữa! Những cái mặt nhẵn nhụi trơn tru, nhưng toàn là bụng ba que xỏ lá cả. Tôi vì dại dột mới nên nông nỗi này.
Một cái ô tô sình sịch qua, chiếu hẳn ánh sáng vào mặt Bắc, trông rõ cái nét nhăn nhó, cặp mắt gấp gay.
- Mợ ơi, mợ yên lòng. Mợ nên hiểu tôi, đừng phụ bụng tôi, bởi tôi biết bụng mợ lắm. Vả dĩ, bấy lâu tôi khao khát chút con để sau này nó chống gậy cho tôi, nối dõi tông đường cho nhà tôi. Nếu nay mợ quyết tình giết cả mợ lẫn con, tôi sẽ phải âu sầu ân hận suốt đời.
Nguyệt bưng mặt khóc, Bắc lấy vạt áo chùi nước mắt hộ và dỗ:
- Mợ ơi! Tôi đã theo lời mợ là đến ngày mợ đẻ, thì sang nhà hộ sinh tỉnh Bắc Ninh mà nằm cho êm tiếng. Bây giờ, chỉ cần mợ giữ cái bụng cho kín đáo. Mợ đẻ xong, tôi nuôi lấy con.
- Thế rồi cậu bỏ tôi bơ vơ?
Bắc nhăn mặt, giậm chân:
- Khốn nạn, cho tôi nói hết câu đã. Tôi lạy mợ! Tôi tính việc xin cưới mợ sau.
Nguyệt thở dài.
- Mợ đã bằng lòng như thế chưa?
Nguyệt đưa tay lên miệng, cắn móng tay út, không trả lời, ra dáng nghĩ ngợi.
- Mợ ừ đi, mợ đừng uống thuốc thôi thai nữa, phải tội đấy!
- ....
- Mợ cứ yên bụng cho tôi được yên lòng. Mợ ừ đi!
- ừ!
Hai người lững thững đi, gặp hai cái xe, liền thuê về nhà. Lúc sắp ly biệt, Bắc còn dặn với một câu:
- Mợ yên dạ, cho tôi yên lòng nhé!
- ừ!
+
+ +
- Bà đẻ con so hay con rạ?
- Thưa bà, con so.
- Bà nên nói thực, thì tôi mới liệu được. Tôi xem bụng bà, hình như đẻ con rạ thì phải hơn.
- Thưa bà, thực tôi đẻ con so.
Đó là lời bà đỡ nhà hộ sinh cùng nói chuyện với Nguyệt. Bà đỡ ngợ quá, hỏi vặn:
- Mọi khi những người đẻ con so thì da bụng cứng và có ngấn vằn đỏ. Người đẻ con rạ thì da bụng mềm, mà có ngấn vằn trắng. Nay tôi xem bụng bà, quả là bà đẻ con rạ. Phép nhà thương không nên nói dối, lỡ ra nguy đến tính mệnh, chứ chả chơi đâu.
- Thưa bà, xin bà kín cho, tôi đẻ con rạ!
- Vâng, bà nên nói thực thế mới phải. à, ông nhà ta tên là gì? ở đâu?
- Thưa, cậu cháu tên là Nguyễn Văn Tình, đã mất năm ngoái, sau khi tôi có mang được vài tháng.
- Tội nghiệp! Thế ông mất, bà có mang được mấy tháng?
Nguyệt luống cuống nói chữa:
- à, thưa bà, cậu cháu mất năm nay ạ. Mới mất tháng tư, mà tôi có mang từ tháng giêng.
- Bà cũng chỉ độ tối hôm nay thì trở dạ thôi. Bà cứ nằm nghỉ yên. Lần trước bà ở cữ, trai hay gái?
- Thưa bà, cháu gái.
- Nay cháu biết làm gì rồi?
- Thưa bà, tôi sinh cháu được vài hôm thì bỏ cháu.
- Thế bà đẻ dễ hay khó!
- Thưa bà, dễ ạ.
- Được, vậy bà cứ nghỉ yên để lấy sức.
+
+ +
... Ngày chủ nhật, sau khi Nguyệt đẻ, có mấy bọn người ở Hà Nội sang, vào nhà thương thăm.
Bọn trước, hai công tử ăn mặc tây, đúng mốt quần thụng đỏ, áo cộc xanh, ở trong gian Nguyệt nằm bước ra, bưng miệng, rúc rích nhìn nhau cười, thì thào:
- Hú vía! Tao tưởng con Nguyệt nó chửa với tao, tao sợ quá!
- Tao chả ngờ nó chửa với mày, nhưng tao thấy mồm thằng bé giống mồm tao, tao đã giật mình. Nó ăn vạ tao, thì tao bỏ mẹ! May được cái nước da thằng bé nó minh oan cho tao.
Hai người vừa đi khỏi thì Phong đến. Phong ẩy cửa lại gần Nguyệt, hỏi:
- Trai hay gái?
Nguyệt trả lời khẽ:
- Trai.
- Thế à? Mợ có mạnh không? Có ăn được không?
Nguyệt thừ mặt ra, không đáp.
- Mợ làm sao thế?
- ....
- Cho tôi bế con một tí.
- Không bế!
- ái chà! Mẹ cu làm bộ.
- ...
- Con ngủ à! Mặt giống cậu hay giống mợ?
- ....
- Công tử rúc mãi vào nách mợ! Ra đây cậu yêu tí.
- Yên!
Phong mở cái lót trùm đầu thằng bé ra. Nguyệt nhắm nghiền mắt lại.
Khi nàng mở mắt, đã thấy Phong len lén cút từ bao giờ rồi.
Lúc bấy giờ, Bắc ôm một bọc to tướng đến nhà thương. Nhưng khi ở ngoài cửa kính, Bắc thấy có người đến thăm Nguyệt, thì ngờ là họ hàng, không dám vào vội. Chàng vừa đi bách bộ, vừa liếc mắt vào trong. Chàng đã hút hết điếu thuốc lá rồi, nhìn hết các nhà cửa, cây cối rồi, mà người họ vẫn chưa về. Một lúc thấy kẹt cửa, bụng chàng mừng lắm. Chàng nhìn theo hút người ấy, đến khi thấy rẽ hết phố, mới dám vào.
- Chào mợ! Trai hay gái?
- Trai.
Bắc lộ ra nét mừng rỡ, vui vẻ hỏi:
- à! Ai vừa vào đó?
- ...
- Mợ mệt à?
- Không!
- Mợ có ăn được cơm không? Có mạnh khoẻ không?
Nguyệt thở dài, Bắc mở bọc, lấy ra nào rượu bổ, nào sữa bò, nào vú cao su.
- Con có cứng cáp không? Mợ có nhiều sữa không?
- Yên cho tôi nằm nghỉ.
- Cho tôi bế con một tí, nó giống tôi hay giống mợ?
- Im cho nó nằm.
- Ơ hay! Mợ giận tôi đấy à?
- Không!
- Bao giờ mợ định về?
- Không biết.
Nguyệt thở dài mãi, thằng bé con ở trong bọc, cựa cạy, tiếng nhoe nhoe.
- Dậy với cậu, con!
- Yên cho nó ngủ!
Thằng bé vẫn khóc. Cái lót trùm đầu nó xê ra ngoài. Bắc lật ra xem mặt con:
- Cậu đây, nín đi!
Nguyệt nhắm nghiền đôi mắt lại, vắt tay lên trán để che mặt. Bắc nhìn kỹ cái tóc, cái mặt, cái mũi con... Rồi giở bọc ra ngắm cả người thằng bé... Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng.
Té ra thằng bé con chàng mà nước da lại đen như cái cột nhà cháy! Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó là giống "Oẳn tà rroằn" không biết chống gậy.
PTBNS số 13; 1-12-1937.

Thanh! Dạ!

Thanh!
- Dạ!
Trong nhà hôm nay tấp nập như mở hộị me cho phép cả sáu cô ra Đồ sơn. ngay từ bảy giờ sáng, sáu chị em đã gọi nhau choàng cả dậỵ các cô kệ cho đôi mắt đỏ gay nó bốc hỏa, các cô tranh nhau rửa mặt, rồi thi nhau trang điểm. mùi phấn, mùi nước hoa thơm phức cả nhà. mỗi cô chọn một màu áo, rồi ngắm hết cho mình, lại ngắm cho nhaụ
chung quy chỉ chết một mình con thanh. Đã bận, lại thêm tíu tít. mới gánh được một gánh nước, cô diễm đã gọi giật:
- thanh!
- dạ!
- hãy để thùng vào trong nhà, đem giấy này lại đằng cô vân mượn cho tao quyển tiểu thuyết đã.
nó nhặt bức thư ở bàn. thế là tất tả chạỵ loáng một cái, nó đã mang quyển sách bìa nát nhàu về.
vừa lúc đó, cô tuyết sấn lại nó, và quát:
- thanh! mày làm ăn thế nào mà chả có giọt nước nào rửa chân thế! muốn sống đi gánh về mau không?
con thanh chẳng nói chẳng rằng, lại đặt đòn gánh lên vaị
rồi đến cổng, nó quay lại, thấy vắng người, bèn lẩm bẩm một mình để minh oan:
- khốn nhưng còn phải mổ gà để nấu cháọ
Đến cửa, chưa ra thoát, nó đã thấy hai chiếc xe hòm vừa đỗ. một "đội" người nhảy xuống, toàn quần áo tây, đầu trần. tiếng gót giày quèn quẹt, đồng thời, tiếng cười nói vang vang.
- ồ kìa, các anh đã đến sớm thế?
một người giơ cổ tay, trỏ chiếc đồng hồ chữ nhật:
- y hẹn. Đúng tám giờ. không sai một phút.
- thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé. chín giờ bắt đầu đi cũng được. xe nhà, sợ gì. Đừng chê chúng em là rùa nhé.
rồi tiếng cười khanh khách để nhận rằng câu pha trò ấy đậm đà.
- thanh!
- dạ!
con thanh, lạy trời phật, mới đi được đến vệ hè. nghe gọi, nó quay lại, không thấy ai, lại toan đi cho xong.
- thanh!
- dạ!
nó dừng bước. cô nguyệt ra tận hè, chỉ tay vào mặt nó, cong cớn mắng:
- con ranh đi đâu đấỷ
- con đi gánh nước.
- sáng sớm chẳng gánh, hễ có khách là sắp lẩn phải không?
nó đặt gánh, nói:
- bà sai con gánh nước, nhưng đã có lúc nào đi được đâụ
cô nguyệt trừng mắt, để im cho nó cãi, rồi vênh váo hỏi:
- nhưng bà đang gọi rầm mày ở dưới bếp ấy, mày có biết không?
bà gọi rầm! Đến cả ông bà ông vải nó ở dưới âm phủ dễ lúc nào cũng phải cố lắng tai để nghe bà gọi và nhắc nó. vì ông bà ông vải nó muốn được yên giấc ngàn năm.
nó tặc lưỡi, quẩy thùng không và về.
khách khứa nhốn nháo khắp nhà. con thanh len lén đi, cúi gầm mặt, tránh hết người này lại tránh người nọ. nó không dám nhìn ai, cũng không dám nghe aị
- thanh!
- dạ!
- mày đi đâủ
- dạ, thưa cô, bà sai con đi mua hạt tiêụ
bỗng vành khăn nó xổ ra, rồi cả hai món tóc nó bị kéo giật. nó ngật đầu ngoảnh lạị một cậu đắc chí, cười hềnh hệch, nắn lại chiếc cà vạt, nói:
- gớm, các cô chiêu nhà này kiệt quá, không cho nó được cái khăn nhung cũ. chó gầy hổ mặt người nuôi!
nó biết là việc đùa, hết trống ngực, tủm tỉm cười, vừa đi vừa quấn khăn. nhưng vẫn không dám để tai đến những lời bàn tán về nó, sau lưng nó.
rồi mặt trời lên caọ ánh nắng chói lọị một mảng áo lưng nó bết vào với thịt. khi trở về, qua buồng khách nó bẽn lẽn, ngượng nghịụ những tiếng nói cười bàn tán vẫn tranh nhau làm loạn nhà.
- thanh!
- dạ!
nó vội quẳng đôi thùng với cái đòn gánh cạnh thạp nước, chạy rạ
- anh bảo nó mua gì?
cậu ấy chẳng đáp, lấy tờ báo để quạt, nghiêng đầu ngắm nó. chẳng trả lời câu hỏi, cậu ấy bĩu môi, nói:
- nhưng hai tay nó bẩn lắm.
- làm gì?
- nhà có cái bị hay cái hộp nhỏ nào không?
- có.
cậu ấy quẳng ra bàn ba xu, bảo nó:
- mua nước đá. nhưng không được mó tay vào nhé.
cô nhuận nói:
- chạy lên! hễ tan hết thì chớ chết!
nó sợ chết, nên ba chân bốn cẳng, chạy như baỵ
tội nghiệp con bé, khi nó về, trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt. nhưng hai mắt nó long lanh, vì vừa làm tròn được một việc mà không phải mắng. nó sung sướng, cái vui sướng của nhà nghệ sĩ, nhìn hết người nọ đến người kiạ
cô nghi khen:
- thưởng cho con thanh cái mề đaỵ
nó sắp tủm tỉm, thì cô tuyết đã lên giọng đanh đá, mắng nó:
- Đi mà gánh nước. chậm như sên! bà ở bếp ra mà không có gì rửa tay, thì mày ốm đòn.
bỗng nó nghĩ đến bà - bà nghĩa là những ngọn roi, những câu chửi - nó sợ.
nhưng cô ngọc, độ mười ba mười bốn tuổi, ở trên gác, đánh phấn xong rồi, mà mới xỏ được một bên tay áo, đã vội chạy xuống, hỏi:
- con thanh đã về đấy à?
- rồị
- thanh!
- dạ!
- làm gì đấỷ
- ồ! Để cho nó gánh nước, không mẹ mắng chọ
cô ngọc ngần ngừ:
- nhưng mà hãy gượm. thanh! Đi quàng lên cho tao vậỵ mày ra thợ giặt, bảo nó là ngay cho tao chỗ này nhé.
một là con thanh ngoan, hai là nó nhát, nên nó lại khoàng cả hai cẳng mà đi rõ nhanh.
rồi nó về, vẻ mặt lo lắng. nó giao hẹn:
- thôi, các cô để con quẩy một gánh nước, kẻo bà đánh con nhé.
- ừ.
- mau lên!
- à, nhưng thanh! tao bảọ một công đôi ba việc.
- dạ!
- mày đi mua cho tao ba xu ô maị Đằng chua ấy nhé.
rồi cô kim nhìn mọi người, chế nhạo:
- vừa nói đến ô mai chua, cậu nào cậu nấy đã nuốt nước dãi!
tiếng cười vang cả buồng. cô kim mở ví, nhặt chọn cho hết trinh bảo Đại mới đến trinh khải Định. con thanh chờ. nó đập bàn chân nọ vào bàn chân kia, cho đỡ sốt ruột.
rồi nó cầm tiền, nhắc đòn gánh lên vaị vừa ra đến cổng, cô hà cười sằng sặc, gọi theo:
- thanh!
- dạ!
nó đứng lại, thở dài, chờ lệnh.
- mày mua về, phải đưa cho taọ
cô kim xua tay:
- không được.
một cậu bảo:
- thanh! mày cứ đưa cho taọ
rồi nhao nhao mỗi người một điềụ nó chẳng nghe ra sao cả. mà hễ một bước, thì lại bị gọi:
- thanh! phải đưa cho tao!
chờ các cậu, các cô đùa nhau để mất thì giờ của nó, nó lo lắm. nó đánh liều, quay bước ra đị
- thanh!
- dạ!
- hãy về tao bảo!
nó lại phải thủng thẳng trở lạị cô minh nói:
- chờ đấy, tao lấy tiền, mua thêm năm xu nữạ thế là ổn.
rồi cô quay lại mọi người:
- Để tôi đóng vai nhà từ thiện, bố thí ô mai cho cả mọi ngườị
tiếng vỗ tay, tiếng cười vang động cả đến nhà dãy phố bên kiạ con thanh đứng tựa vào tường, chờ cô minh đưa tiền, ngắm cái cảnh êm đềm, vui vẻ trước mắt nó. bỗng một tiếng gọi như gắt ở dưới bếp đưa lên:
- thanh!
cô tuyết trợn mắt, xua tay cho mọi người im và nhìn con thanh, hất hàm bảo:
- kìa! bà gọi gì màỵ
- thanh!
tiếng gọi như quát. con thanh vội vã:
- dạ!
trên nhà, các cô các cậu nhìn nhau, sợ hãị
cô ngọc bảo khẽ mọi người:
- bà cụ đã nổi tam bành cái gì ở dưới kia kìạ gớm!
ai nấy yên lặng. tiếng léo xéo trong sân làm mọi người ngồi trên ghế, nhu mì và trật tự.
rồi cô tuyết rón rén dòm vào sân, thì thấy mẹ, cái đuôi gà ở đầu khăn ngỏng ngược lên trời, mặt đỏ nhừ, quệt cái tay áo cánh đẫm những mồ hôi lên trán, tay cầm thanh củi, trỏ vào thạp nước, trợn tròn mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con thanh túi bụi, để đánh nhịp với những tiếng: - lười! lười! lười! lười! lười! lười! lười!...
ptbns số 26; 1-12-1938

Hết

Tôi cũng không hiểu tại làm sao

Lên khỏi bực thềm và qua hàng hiên nhìn vào, Sinh thấy cảnh "chúa vắng nhà" hiện ra trong các buồng giấỵ
Phải, bao giờ ông Sếp không có mặt tại sở, thì suốt cả, từ ông Phán sắp về hưu cho chí bác loong toong tập sự, ai nấy tự do tán gẫu cùng nhau, mặc kệ những ai có việc phải ngấp ngó ở ngoài hè chờ đợị
Sinh thì không ưa cái lối làm việc giả dối như thế. Nhất là đối với ông Sếp hay hục hặc nàỵ Từ ngày được bổ đi làm tới nay, bao giờ anh cũng nghĩ tới bổn phận trước hết. Anh không sợ ông Sếp bằng dư luận. Mà không sợ dư luận bằng lương tâm. Anh muốn tự trọng, không chịu để người trên nói động đến mình. Người trên đã không thể trách mắng anh về một lẽ gì, hẳn anh không phải lấy lòng và xu nịnh ai nữạ Anh muốn làm việc một cách thẳng thắn, tự dọ
Bởi vậy, ông Sếp ở cạnh anh, hay đi vắng, anh coi cũng thế thôị Cho nên, thấy các bạn đồng nghiệp cặm cụi - có lẽ là vờ - khi có mặt người trên, và trây lười khi khác, anh vẫn bỉ ngầm là họ thiếu nhân cách. Anh cho là những cái quắt quéo này nó đẻ ra cái quắt quéo khác. Nó là nguyên nhân những sự luồn lọt, ton hót, bôi gio trát trấu vào thanh danh của cả một đoàn thể.
Sinh đi thẳng vào buồng mình. Đồng hồ đã chỉ bảy giờ hai mươi nhăm. Anh cởi áo, khoác vào lưng ghế, và tìm sổ sách giấy má hôm trước làm dở.
Mọi ngày, cũng lúc này, bàn máy chữ buồng cạnh đã bắt đầu lách tách, có khi rào rào như mưạ Thế mà bây giờ chỉ những tiếng chuyện, tiếng cười nôn nao, loạn cả óc, làm anh khó lòng làm việc bình tĩnh được.
Liếc mắt nhìn xung quanh, anh thấy chỗ này, Tâm và Sức ngồi cả lên bàn, khoa chân múa tay, nói chuyện với tham Trí. Chỗ kia, Ban mặc áo cộc cặp cái điếu vào hai đùi, sắp hút thuốc; Chính thì lom khom châm diêm, và Bắc thì chỉ rình thổi tắt.
Thấy các bạn đồng nghiệp đùa nhảm, Sinh mỉm cười, quay đị Bỗng thình lình anh nghe thấy đánh bốp. Rõ là tiếng bàn tay tát vào má. Anh đoán ngay là bác loong toong Thảo xưa nay vẫn hay có thói đánh người, vừa ra oai với một anh dân nào vô phúc. Anh toan để ý nhìn, thì chính Thảo đã nói rất to, giọng gắt gỏng:
- Muốn ở tù thì nheo nhéo cái mồm lên, các quan còn đang bận. Chưa đến giờ!
Ngay lúc đó, đồng hồ buông một tiếng. Bảy giờ rưỡị Nhưng hiệu báo ấy không có nghĩa gì đối với trong sở khi vắng mặt ông Sếp.
Bỗng cửa buồng mở phanh ra, rồi lại tự đóng. Nghĩa vàọ Đó là một bạn đồng nghiệp của Sinh, cùng làm một buồng giấỵ
Cũng vì luôn luôn ngồi gần nhau và tuổi sàn sàn ngang nhau, nên Sinh thân với Nghĩa hơn với các bạn khác.
Thoạt vào, Nghĩa đã vui vẻ nói ngay:
- Có lẽ đến tám chín giờ nó mới ra sở, tội gì không hưởng lấy vài phút tự dỏ Này Sinh, bảo cái đã...
Sinh nhếch mép, cười lấy lòng bạn, nhưng tay vẫn cầm bút. Anh hỏi:
- Anh bảo gì?
- Hôm qua nhật trình đăng Tàu Nhật đánh nhau thế nàỏ
Sinh cười, không đáp, hỏi lảng:
- Cái giấy tôi đánh máy dở, loong toong có để bàn bên ấy không?1
- Thôi, đốt cái chăm chỉ của anh đị Này, cuối tháng này, "mó" lương xong, vào cổ phần với đằng này để xuống xóm nhé. Con Nhật nó vẫn hỏi thăm đấỵ
Sinh vẫn cúi viết, không đáp. Nghĩa chạy lại, giằng bút ra, nói:
- Tôi không bắt anh ăn cắp được dăm phút hay sao!
Rồi chõ mồm sang buồng bên cạnh, Nghĩa kêu:
- ối làng nước ơi! Sao mà nó điên dại đến thế. Có ai bắt thằng Sinh nói chuyện được không?
Nghĩa cười sằng sặc. Một ông già cúi gầm mặt để đưa nhỡn tuyến lên trên đôi kính trắng, nói:
- ông Sinh còn trẻ, chưa lịch duyệt việc đờị
Sinh vẫn mỉm cườị Anh không muốn mất lòng ai, nhưng cũng không muốn để ai ngăn trở công việc mình. Anh nói khẽ với Nghĩa:
- Cho tôi làm xong việc này đã.
Nghĩa bĩu môi:
- Việc nhà nước, cần gì hấp tấp. Vả bao giờ hết được? Anh chỉ biết làm việc như một con bò, không dám nghỉ một phút. Thì nhân nó không có đây, hãy nghe người ta nói câu chuyện này đã nàọ
Sinh cười:
- Thì cứ nói đi, tôi vừa làm vừa nghe cũng được mà.
- Không, hãy bỏ bút xuống đã.
Rồi Nghĩa trỏ tay sang buồng cạnh:
- Kìa, anh trông, bô Hạnh ngủ gật kìa, chừng đêm qua bô đã bù khú với cô hai đến sáng. Chúa ăn cắp thì giờ là bô Hạnh đấỵ
Sinh thở dài:
- Mình không làm việc, họ kêu chết.
- Aỉ Anh bảo họ là aỉ
- Là những người đứng chờ ta ngoài kia chứ aỉ
- Kệ xác chúng nó! Chúng nó cần ta, chứ ta cần chúng nó à?
Sinh dở đùa dở thật, đáp:
- Nói thế này, anh đừng giận nhé, chúng nó sẽ bảo chúng ta là. ..
Sinh ngừng, nhìn bạn. Nghĩa tiếp ngay:
- Là ăn cắp là cùng chứ gì!
Sinh phá lên cườị Nghĩa bĩu môi:
- Anh tính ở đời này, thiếu gì thằng ăn cắp. Mà triệt sao được tính ăn cắp của người tạ Anh chẳng thấy bao nhiêu thằng to đầu mà vẫn công nhiên ăn cắp à? Mà suy ra cho cùng, nếu không có những việc có thể ăn cắp được, thì người ta còn vẽ ra những sự công ích công lợi để làm gì? Vẻ khả quan của xã hội hiện thời, chẳng là do những tư tưởng muốn ăn cắp mà ra hay saỏ
Nói đoạn, Nghĩa về bàn giấy mình, và tiếp:
- Thôi được, anh chẳng ăn cắp thì tôi ăn cắp vậỵ
Sinh nhìn theo bạn. Hai người yên lặng, không ai nói chuyện nữạ
Bỗng Nghĩa giơ hai tay lên, ngáp, bảo Sinh:
- Tao cũng muốn bắt chước mày, đạo đức một lát, nhưng Sếp đi vắng mà cứ làm việc, thật tao không yên với lương tâm. Hôm nay tao dậy trưa, vội đi làm, chửa kịp ăn sáng. Sinh, mày có ăn bánh tây chả, tao mua chọ
Sinh lắc đầu:
- Ăn rồị
- Thế tao ăn một mình cấm nuốt nước dãi nhé!
Sinh gật đầu, rồi lại cúi xuống, loay hoay làm tính cộng.
Nghĩa sai loong toong đi mua thức ăn, rồi mở to quyển sổ, và để lọ mực ở trước mặt. Anh cầm bút, như người đang dở bận việc vậỵ
Một lát, bánh tây mua về, Nghĩa cắn một miếng, rồi cất vào ngăn kéọ Vừa thong thả nhai, anh vừa nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ ngợị
Lúc ấy, Sinh mải việc, không để ý đến những tiếng động quanh mình.
Bỗng một tiếng nói làm Sinh ngẩng đầu lên.
ông Sếp lù lù đứng trước bàn giấy Nghĩạ
Sinh trông thấy, biết ngay rằng Nghĩa bị bắt chộp trong lúc đang ăn. ông Sếp, cả hai vế đùi, hai cánh tay, lẫn mặt, đỏ ngầu ngầu, hất hàm hỏi Nghĩa:
- ông nói cho tôi biết, ông đã làm những gì từ sáng đến giờ?
Nghĩa lúng túng, tay cầm bút, trỏ vào quyển sổ. ông Sếp gật đầu:
- ông nói dối tôị ông đang ăn gì?
Nghĩa mặt tái xanh, chối:
- Không, tôi có ăn gì đâủ
ông Sếp càng tức, trừng trừng nhìn Nghĩa:
- Sao ông lại nói dối tôị ông ăn cái gì giấu ở ngăn kéo đó?
Nghĩa lắc đầu, làm bộ ngơ ngác, rút ngăn bàn ra, đáp:
- Không, đây ông xem, có gì đâủ
ông Sếp cúi nhìn, quả không có gì thực. ông càng giận. Sinh rất khó chịụ Anh thấy ông Sếp quá sắc mắc, lại thấy bạn cứ chối hoàị Hẳn là chính mắt ông ta đã bắt được Nghĩa đang nhai, nên mới dám hỏi thế. Vả chỉ nghe giọng Nghĩa nói lúng búng, cũng có thể đoán được trong miệng chưa nuốt trôi miếng bánh.
- ông có ăn, tôi không nói saị
Nghĩa vẫn cãi:
- Tôi không ăn gì cả.
ông Sếp trợn mắt:
- Có thực ông không ăn không?
- Phải, tôi không ăn.
ông Sếp ôn tồn nói:
- Vậy ông há mồm ra tôi xem.
Sinh rùng mình, liếc nhìn bạn. Nghĩa không há, nhưng rất lúng túng. ông Sếp lại giục:
- ông bảo ông không ăn, thì ông cứ há mồm ra... Há!... ông có há hay không?
Nghĩa không thể làm thế nào được, đành phải mở rộng hai hàm. ông Sếp nhìn thẳng vào miệng Nghĩa... ông ta nhún vai, bĩu môị Rồi không nói thêm gì, ông ta chắp tay sau lưng, lẳng lặng đi rạ ông đã quẳng sự khinh bỉ thấm thía vào mặt người có lỗị
Sinh căm tức lạ lùng. Anh nhịn thở dài, để cắm mặt xuống mảnh giấỵ Anh giận bạn đã để cho người ta làm nhục. Rồi càng nghĩ ngấm nghía, anh càng thấy chán nản, lắm lúc hăng máu, anh run bắn người lên.
ở mấy buồng cạnh, Sinh liếc mắt, thấy ai nấy cũng làm việc rất hăng háị Tiếng máy chữ, tiếng chuông, tiếng gắt gỏng, tiếng gót giầy tây chạy, làm tôn vẻ uy nghi của ông Sếp muốn uy nghị
Trước mặt mình, Sinh lại thấy Nghĩa không lúc nào rời tay cái quản bút. Anh thở dàị Cái cột tính cộng anh làm từ sáng đến giờ chưa xong một nửạ
+
+ +
Đúng mười một giờ bốn nhăm. Sinh khoác áo, đứng dậỵ Anh đến cạnh Nghĩa, để tay vào vai bạn, nói dịu dàng:
- Đến giờ rồi, đi về, anh!
Nghĩa ngẩng cái mặt buồn thỉu, sợ sệt, nói:
- Anh cứ đi trước. Tôi sợ nó còn gọi gì tôi chăng.
Sinh cương quyết:
- Đến giờ thì ta về cần gì!
- Nhưng tôi nên ở lạị
Sinh cười thương hại:
- Các buồng kia, họ về cả rồị
Nghĩa ngó cổ nhìn, rồi rụt rè với lấy cái áọ Anh khoác vào mình, gài khuy, rồi hỏi khẽ người loong toong:
- ông ấy đâủ
- Bẩm về đã lâu rồi ạ.
Nghĩa yên tâm, cùng Sinh lững thững ra cửạ Đôi bạn xuống mấy bực thềm. Mấy người phu xe mời vồn vã, kính cẩn:
- Mời quan lên xe ạ.
Sinh xua tay, bảo Nghĩa:
- Đi bộ, tôi muốn hỏi anh cái nàỵ
Khi ra cổng, đến ngoài phố, Sinh thở dài, trách:
- Gớm, ban nãy anh quá lắm. Anh đã ăn thì anh chối làm gì. Nó giết được anh hay sao!
Nghĩa cười, không đáp. Sinh tiếp:
- Rồi đến khi nó bắt anh há mồm, sao anh không nhận là có ăn, lại cứ há rả Tôi thấy ê chệ quá! Nào cái mồm há ra nó có đẹp đẽ gì, nhất là trong đó lại có miếng bánh tây to, nhoét những nước dãị Tôi trông thương tâm quá.
Nghĩa thở dàị Sinh nhăn nhó:
- Thì giá anh không há đã làm saỏ Mà tôi không hiểu anh nghĩ thế nào anh lại há mồm ra cho nó xem thế?
Nghĩa cảm động, long lanh nhìn bạn như chợt hiểu cái phút đê tiện. Rồi hai dòng nước mắt chảy ra, anh run run, đáp:
- ừ nhỉ, thật tôi cũng không hiểu tại làm sao tôi lại há ra như thế!
PTBNS số 48, 1-12-1939.

Hết

Vợ

Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lọ Lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cướị Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt!
Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ "thanh khí", nghĩa đen là bén "tiếng" quen "hơi"nhau trước mãị Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấỵ Số trời có khác!
Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóạ Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậỵ Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế?
Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về.
Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc.
Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ.
Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt.
ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xoá món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồị Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấỵ Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ saỏ Lấy vợ mà được "biên bông" như anh, là may đấỵ
Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêụ Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được.
Anh đã tính chán rồị Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lạị Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy goá chồng, còn thiệt bằng mười!
Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻọ Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghẹ Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữạ
Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấỵ
Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xoá. Vợ anh bảo:
- Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về.
Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nàọ Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dạị Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổỉ Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãỉ Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngaỵ Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc.
Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủạ Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm.
Song, già néo đứt dâỵ Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại:
- Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem!
Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tộị
Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá:
- Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nàỏ
Anh Ba cau mặt, thở dài:
- ông dọa thế, chứ ông chả nỡ.
- Không phải chuyện dọạ Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâụ
- Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp saụ
- Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồị
- ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ?
Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vạị
Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưạ Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữạ
Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữạ Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửạ Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà.
Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhaụ
Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!
PTBNS số 5; 1-4-1937

Hết

1 nhận xét: