Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Tính cách Nam bộ

Biên khảo: Tính cách Nam bộ qua biểu trưng ca dao

Biểu trưng nói một cách đơn giản là dùng cái A để nói cái B. Chẳng hạn, cặp biểu trưng "cá chậu - chim lồng" biểu trưng cho cảnh tù túng của một ai đó, trong ca dao thường có biểu trưng cho người con gái có chồng (mà không hạnh phúc).
Biểu trưng bao giờ cũng gắn với văn hóa tộc người và vùng đất bởi quá trình biểu trưng hóa (quá trình liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt) bị sự chi phối của môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Xuất phát từ luận điểm này, chúng tôi tìm hiểu tính cách người Việt Nam bộ qua các biểu trưng ca dao.
Biểu trưng với tinh thần trọng nghĩa khinh tài
Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đình Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần "Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam bộ thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là thái độ ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người Việt Nam bộ. Có điều, đây là một nét trội trong tính cách của người dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng "nén bạc đâm toạc tờ giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên cũng được" thì tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.
Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa biểu trưng. Sự đối lập của hai hình ảnh nầy chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên còn một dị bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh tài:
Tiền tài như phấn thổ,
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi.
Biểu trưng vàng trong bài ca trên đã từng được tác giả ca dao Nam bộ sử dụng. Nghĩa khái quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho cái quý giá. Đó là cái quý giá về vật chất, quý giá về tinh thần và con người quý giá. Vàng trong lòng vàng biểu trưng cho lòng chung thủy trong tình yêu:
Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây tác giả dân gian không nhầm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng biểu trưng cho nghĩa sắt son:
Ví dầu nước chảy đá mòn,
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.
Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân vì nghĩa xem tiền tài như cỏ rác, một mặt chấp nhận cảnh sống bần hàn để giữ tròn đạo nghĩa qua hình ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:
Anh tỉ phận anh
Thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ,
Chớ không ham mộ
Của Vương Khải, Thạch Sùng,
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao.
Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói về tình nghĩa, nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, tình nghĩa lứa đôi... với những hình ảnh biểu trưng như bầu bí, nhiễu điều - giá gương... bằng một giọng điệu nhẹ nhàng:
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

(Ca dao Bắc bộ)
Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng tình huống và thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua hình ảnh ruột thắt gan bào:
Ngó lên trời mây bay vần vũ,
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang, những người bị giai cấp cầm quyền coi là kẻ tiểu nhân dốt nát. Lưu dân thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ tự tôn. Họ bất cần bọn quan lại và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ. Điệu (đạo), là lòng từ bi bác ái, tình nghĩa giữa con người, Nghệ (nghĩa) là nghĩa khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử bình dân. Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương Nam, là hình ảnh của kiểu quân tử bình dân đó:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.
Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị, dòng dõi mà ở thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa đón tiếp mọi người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu nghệ thì mọi việc có thể giải quyết trong tình anh em không cần đến pháp luật và quan lại: Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người bình dị qua hình ảnh "con chim nho nhỏ" trong ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường mở đầu cho lời khuyên nhủ, mong ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời của một ai đó cho nên hình ảnh trên biểu trưng cho con người biết trân trọng, giữ gìn đạo lý:
Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô.
Biểu trưng với tính cách ngang tàng
Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con người Nam bộ. Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau về vùng đất mới mang trong mình nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ giáo, không bao giờ bị khuất phục. Họ chấp nhận mọi hiểm nguy, mọi thử thách (nắng mai - mưa chiều) thậm chí trong những hoàn cảnh nhất định, họ đã phải liều:
Ra đi là sự đánh liều,
Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.
Cho dù phải luôn luôn đối mặt với tình huống khó khăn kiểu nắng mai - mưa chiều, người Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao sông sâu:
Lên non mới biết non cao,
Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.



Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây là con người cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy biến động. Đó là con người đi xa, người có chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong các hình ảnh cánh chim hồng, chim khôn, chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về rừng, chim bay, chim trời, cánh chim...


Bể sâu con cá vẫy vùng,
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.



Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy quyền:


Trời sinh cây cứng lá dai,
Gió lay mặc gió chiều ai không chiều.



Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết mình đúng với chính mình, dám tin vào chân lý cuộc sống, tin vào tình yêu như hình ảnh cây khô chết đứng:


Cây khô chết đứng giữa trời,
Chết thời chịu chết không quên lời anh than.



Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ tính mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn. Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những con người vươn tới những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại, đây đó vẫn có những con người Nam bộ tầm thường. Điều này không có gì lạ. Nhưng trong ca dao, người Nam bộ hướng tới một cánh nhạn bay cao quí mà không thèm để ý đến chim sâu tầm thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu thì sẽ bị chê cười:


Bình tích thủy đựng bông hoa lý,
Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
Trách ai làm trai hưu nhãn vô châu,
Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.



Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:


Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.



Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước có tinh thần dân tộc đã từng dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm... Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra hai nét nổi trội của tính cách người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao. 


Tính cách con người Nam bộ qua trang văn của các tác giả ĐBSCL
Từ những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc... cho đến các trang văn của phần lớn các tác giả sau này và hiện nay, tôi đọc, chiêm nghiệm và tìm kiếm để nhận ra một mẫu số chung cho tính cách con người Nam Bộ được khắc họa. Đó là mẫu người hảo hán trọng đạo nghĩa theo kiểu “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, làm người thế đấy cũng phi anh hùng” của Lục Vân Tiên, là mẫu người lạc quan, hào phóng, thiệt thà chân chất, đôi khi bị tác động bởi hoàn cảnh có biến đổi một chút, nhưng rồi cũng trở về với bản chất nhân hậu, hành hiệp vì nghĩa. Các tuyến nhân vật trong các trang văn của các tác giả ĐBSCL thường được phân chia rạch ròi giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện và ác, hoạt động theo định tính đã mang trong suốt chiều dài tác phẩm. Hiếm khi có những nhân vật đa tính, với sự đấu tranh đầy mâu thuẫn, dằng xé trong cùng một con người được thể hiện ở một số truyện ngắn của Trang Thế Hy, Lê Đình Trường, Vũ Hồng, và một vài tác giả khác. Những tính cách nhân vật như thế, tôi nghĩ phần nào đã thoát ra được cách xây dựng nhân vật theo kiểu truyền thống từ một khuôn mẫu đã quen cảm nhận. Dù rằng từ thời đại Phục Hưng thế kỷ 16 Shakespeare đã xây dựng nên những điển hình nhân vật như vậy bằng cách đào sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Trong tác phẩm của kịch tác gia vĩ đại này, không có những nhân vật hoàn toàn được ưu ái hoặc hoàn toàn bị ghét bỏ. Nhân vật  điển hình Hamlet cũng có lúc bị ông chế giễu, còn gã Sailoc (trong Chàng thương gia thành Vơnizơ) có chỗ lại được ông biện hộ.

Có nhận định cho rằng văn chương ĐBSCL (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉnh chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Điều đó một phần có thể do ngôn ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã mà các tác giả ĐBSCL hay lạm dụng tạo sự “chướng ngại” trong cảm nhận. Cũng có ý kiến cho rằng, nếu thận trọng, dùng đúng lúc đúng chỗ, phương ngữ mộc mạc, giọng điệu dân dã ấy hoàn toàn có thể cấu tạo thành một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Tôi nghĩ điều mà các nhà văn, tác giả văn xuôi ĐBSCL còn “mắc nợ”, là chưa mô tả, khắc họa được những nhân vật xứng đáng với tầm vóc, tính cách điển hình của con người Nam Bộ. Sự phóng khoáng, hào hiệp, trọng đạo nghĩa vốn được xem là bản chất của người miền Nam, những cư dân sinh sống nơi vùng đất có nhiều sự ưu ái của thiên nhiên. Thực tế, ĐBSCL đâu chỉ có chín nhánh sông quanh năm bồi đắp phù sa cho vườn cây trĩu trái, đồng ruộng tốt tươi. Từ thuở đi mở cõi, những cư dân Nam Bộ đã phải đương đầu với muôn vàn hiểm nguy với thú dữ, với rừng thiêng nước độc rồi chinh chiến triền miên để trụ lại, cải tạo vùng đất mới nầy. Và cũng bởi Nam Bộ là nơi đón nhận những cư dân di trú từ tứ xứ, vùng đất này cũng là nơi hội tụ, giao thoa các luồng văn hóa khác nhau. Hấp thụ một “linh khí” văn hóa như thế, tôi nghĩ tính cách con người Nam Bộ xưa và đặc biệt trong xu thế hội nhập hiện nay, cũng đa diện và vô vàn phức tạp chứ không chỉ đơn giản trong cái cốt cách hào phóng, lãng tử, chịu chơi.

Lại nói về bản sắc văn hóa, vấn đề mà nhiều nghị quyết của Đảng đặt ra là song song với phát triển kinh tế, phải bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng hiểu như thế nào cho đúng khái niệm văn hóa của dân tộc? Và trong cái bản sắc văn hóa chung của dân tộc, có hay không một bản sắc văn hóa của vùng ĐBSCL? Tôi cho rằng bên cạnh những đóng góp của ĐBSCL về mặt kinh tế là điều dễ thấy và dễ nhất trí thì phần đóng góp của Nam Bộ về mặt văn hóa dường như chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Lẽ nào Nam Bộ chỉ là cánh đồng oằn lúa, là vườn cây trĩu quả với những “anh Hai” nhiều tiền, học hành dang dở và thích chơi ngông? Hoàn toàn không có tư tưởng cục bộ địa phương, tôi cho rằng về mặt văn hóa, sự đóng góp của ĐBSCL là không nhỏ. Văn hóa ăn, văn hóa ở, văn hóa cư xử, văn hóa tín ngưỡng ở Nam Bộ có những đặc trưng không lẫn với bất cứ vùng nào của đất nước. Nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều sự đánh giá khác nhau.

Nêu một vài nhận định như thế để thấy rằng quả thật là khó khi muốn nắm bắt cái “thần” trong nghệ thuật. Ngay cả đối với những người cầm bút là con dân ĐBSCL, không phải lúc nào cũng hiểu hết về bà con mình, về vùng đất mình đang sinh sống. Chính vì vậy, điều đáng sợ nhất trong văn chương là mô tả như thế nào mà những người thân thiết nhất lại trở nên xa lạ. Nêu một vài suy nghĩ như vậy với tư cách một người cầm bút, cũng là để tự nhắc nhở mình trách nhiệm viết cho đúng về đồng bào mình trong một giới hạn địa lý nhất định, để trước hết phục vụ cho chính họ; đồng thời với tư cách một người đọc yêu mến dòng văn học “đặc sản” miền Nam, tôi mong mỏi và hy vọng sự thăng hoa của các tác giả ĐBSCL sẽ mang lại những tác phẩm văn học xứng đáng với vùng đất và con người chúng ta đang sinh sống.

1 nhận xét: