Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Thi phap ca dao

1) Nhân vật trữ tình

Nhân vật trữ tình trong ca dao có một số kiểu nhất định như sau:

- Cô gái và chàng trai trong quan hệ bè bạn, lứa đôi.

- Người vợ, người chồng, người mẹ, người con ... trong đời sống gia đình.

- Người con gái, con dâu, người vợ trong gia đình gia trưởng.

- Người lính và người vợ lính trong cảnh ngộ li biệt và xa cách.

- Người lao động nói chung (người làm ruộng, người làm thợ, người dân chài...) trong lao động, sinh hoạt và quan hệ với xóm làng, quê hương, đất nước...

Thông qua những nhân vật trữ tình trong ca dao, xu hướng nhân dân muốn diễn tả những nét bản chất gắn với con người trong thời đại ấy. Những nét bản chất này thể hiện một cách tập trung ở cảm hứng trữ tình chủ đạo trong ca dao, dù là nam hay nữ, dù là vợ hay chồng, người làm ruộng hay người làm nghề sông nước... nhưng đều cảm nhận thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ thì sẽ cất lên thành bài ca than thở về những khổ đau và bất hạnh của kiếp người; nêu cảm nghĩ về những người mình thương mến, những nơi thân thuộc mà thấy yêu thương thì ắt sẽ cất lên thành bài ca ân tình ân nghĩa – tình gia đình, tình bạn bè, tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước... Chính vì vậy, nói đến ca dao, dân ca người ta nhắc đến những câu hát than thân và những câu hát tình nghĩa của quần chúng nhân dân, những người lao động và bị áp bức trong xã hội cũ.

Nhân vật trữ tình thường gắn với những đại từ nhân xưng trong ca dao như: “anh”, “em”, “qua”, “bậu”, “ta”, “chàng”, “thiếp”, “tôi”...

Thí dụ:

Lên non thiếp cũng lên theo,
Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.

Hay:

Bậu nói với qua bậu không hái mận bẻ đào,
Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay.

Và kể cả những hình ảnh xưng hô ẩn dụ như: “mận”, “đào”, “trúc”, “mai”, “trăng”, “gió”…Tất cả không hề có dấu ấn cá nhân nên dễ dàng gợi sự đồng cảm sâu xa ở người đọc.

Thí dụ:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Hoặc:

Vì mây cho núi nên xa,
Mây cao mịt mù, núi nhòa xanh xanh.


2) Thể thơ

Các thể trong ca dao, còn được gọi là những thể thơ dân tộc, bao gồm thể thơ lục bát và lục bát biến thể, song thất lục bát và song thất lục bát biến thể, thể thơ tổng hợp (sử dụng kết hợp tất cả các thể thơ nói trên).

Thể lục bát và lục bát biến thể

Thể lục bát có số âm tiết ở mỗi dòng không thay đổi, vị trí gieo vần cố định: âm tiết cuối của câu sau hiệp với âm sáu của câu tám, âm tiết thứ tám của câu bát hiệp với âm tiết thứ sáu của câu lục tiếp theo. Nhịp điệu phổ biến là 2/2/2, đôi khi thay đổi thành 3/3/3 hoặc 4/4.

Thí dụ:

Bây giờ / mận mới / hỏi đào,
Vườn hồng / đã có / ai vào / hay chưa?
Mận hỏi / thì đào / xin thưa,
Vườn hồng / có lối / nhưng chưa / ai vào.


Nhịp điệu câu thơ lục bát uyển chuyển, linh hoạt vô cùng. Ngoài ra, với sự không gò bó, không bị hạn chế về độ dài, ngắn của tác phẩm (số lượng cặp thơ tùy thuộc vào tác giả), thể lục bát rất có sở trường trong việc diễn đạt cảm xúc vốn rất phong phú, thể hiện nội dung hết sức đa dạng của hiện thực.

Lục bát biến thể, theo Mai Ngọc Chừ: “lục bát biến thể ở đây được quan niệm là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt “trên sáu dưới tám” mà có sự co giãn nhất định về số lượng âm tiết (tiếng)”[6,trang 224]. Lục bát biến thể có ba loại:

Dòng lục thay đổi dòng bát giữ nguyên.

Thí dụ:

Tưởng giếng sâu, nối sợi dây dài,
Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây.
(7/8 tiếng)


Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi.

Thí dụ:

Lời nguyền trước cũng như sau,
Ta không ham vui bỏ bạn, bạn chớ tham giàu bỏ ta.
(6/12 tiếng)


Cả hai dòng đều thay đổi.

Thí dụ:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua.
(7/10 tiếng)


Chức năng của hình thức lục bát biến thể trong việc thể hiện nội dung: chì chiết, đay nghiến, bộc lộ khó khăn và lòng quyết tâm vượt qua trở ngại, chấm biếm, trào phúng, tranh luận, đấu lí.

Song thất lục bát và song thất lục bát biến thể

Song thất lục bát là thể có nguồn gốc từ dân ca nhưng không phổ biến bằng thể lục bát. Thể này sau hai câu thất là hai câu lục bát (7+7+6+8 tiếng). Thể thơ này nói lên được sự đi về của cảm xúc như những đợt sóng lên cao xuống thấp rồi lại dàn ra đón lấy một đợt sóng khác.

Thí dụ:

Mây trên trời bủa giăng tứ phía,
Nước ngoài biển sóng dợn tứ bề.
Làm sao hiệp nghĩa phu thê,
Đó chồng, đây vợ ra về có đôi.


Song thất lục bát biến thể là thể thơ mà số lượng tiếng trong câu tăng lên.

Thí dụ:

Ai trắng như bông lòng tôi không chuộng,
Ai đó đen giòn, làm ruộng tôi thương,
Biết rằng dạ có vấn vương,
Để tôi cậy mối tìm đường sang chơi.

Thể hỗn hợp hay còn gọi là thể thơ tự do

Đường không đi sao biết,
Chuông không đánh sao kêu,
Nghe lời anh nói bao nhiêu,
Khiến lòng thắc thẻo chín chiều xót đau
.

Hai câu năm tiếng và một cặp lục bát.

Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.


Lời ca dao trên gồm một câu sáu, bốn câu bốn tiếng, và một cặp lục bát.

Trong tất cả các thể thơ thì thể thơ lục bát chiếm một số lượng rất lớn và trở thành một thể thơ tiêu biểu nhất của ca dao.

3) Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật trong ca dao, dân ca trữ tình là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.
Thời gian hiện tại của ca dao bộc lộ qua những từ như: hôm nay, hôm qua.

Thí dụ:

Bây giờ em mới hỏi anh,
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.


Hay:

Hôm nay sum họp trúc mai,
Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm.

Trong ca dao còn có những cụm từ chỉ thời gian như: ngày đi, ngày về, hôm qua, đêm qua thì cũng từ thời hiện tại mà nói. Likhatrốp gọi là thời gian diễn xướng. Ngoài ra thời gian trong ca dao còn là thời gian tâm lý. Đã là thời gian tâm lý thì nó có muôn vàn cách biểu hiện phụ thuộc vào những cảm nghĩ, tâm tư, cảm xúc...của nhân vật trữ tình.

Thí dụ:

Ngày đi em chửa có chồng,
Ngày về em đã con bế, con bồng, con mang.

“Ngày đi” không còn là thời gian vật lí mà thời gian đang diễn ra trong tâm trạng nhân vật, hoàn cảnh chủ quan. Đó là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước sự thay đổi của hoàn cảnh.

Thí dụ:

Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa,
Canh ba tôi nói sáng, ông trời mưa tôi nói chiều.

Không gian nghệ thuật: dòng sông, con thuyền, cái cầu, bờ ao, cây đa, mái đình...là những không gian vật lí thường gặp trong ca dao.

Thí dụ:

Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Sang đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này có lấy anh không.

Nhìn chung, trong kho tàng văn học dân gian của người Việt, không gian vật lí là những không gian bình dị của làng quê, có quy mô vừa phải. Bên cạnh không gian vật lí, trong ca dao còn xuất hiện không gian xã hội. Ở đây có những mối quan hệ xã hội hết sức đa dạng giữa con người với con người.

Thí dụ:

Gặp nhau giữa chuyến đò đầy,
Một lòng đã hẹn, cầm tay mặn mà.

Cũng giống như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong ca dao, dân ca trữ tình cũng là thời gian tâm lí. Nếu xác định được nhân vật trữ tình đang hát ở nơi nào, địa điểm nào thì ta đoán biết được tâm trạng của nhân vật đang diễn ra như thế nào. Chẳng hạn, “ngõ sau” là nỗi buồn, nỗi nhớ; “bến sông” là nơi ngóng trông chờ đợi, “giữa đường” là nơi gặp gỡ, làm quen. Bên cạnh những không gian vật lí, không gian xã hội có tên gọi, không gian trong ca dao còn là không gian phiếm chỉ. Tính phiếm chỉ tạo nên sự đồng cảm của những con người mang tâm trạng chung. Đó có thể là tâm trạng của một cô gái đang yêu, một chàng trai thất tình, một người con xa quê…tính chất này làm cho người đọc đồng cảm, có chung tâm trạng khi đọc những câu ca dao ấy lên đều thấy mình trong đó.

4) Ngôn ngữ

Ngôn ngữ ca dao mang đậm tính chất ngôn ngữ dân tộc. Nhờ biết dựa vào ngôn ngữ dân tộc, khai thác sử dụng ngôn ngữ dân tộc mà ca dao dân gian Việt Nam rất giàu bản sắc không những thế mà ca dao còn tác động ngược trở lại ngôn ngữ dân tộc để củng cố và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Văn học dân gian vốn có tính dân tộc, tính tập thể, và tính truyền miệng nên vừa thống nhất, vừa đa dạng. Vì vậy mà hai khuynh hướng dân tộc hóa và địa phương hóa luôn diễn ra song song và tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ ca dao cũng vậy, vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương. Chúng ta nhận thấy dấu ấn văn hóa vùng miền nhờ vào ngôn ngữ địa phương. Ca dao Bắc Bộ thì nhẹ nhàng tình tứ.

Thí dụ:

Người về em chẳng cho về,
Em nâng vạt áo, em đề câu thơ.

Ca dao Nam Bộ thì bộc lộ một cách rõ ràng, bộc trực, dứt khoát.

Thí dụ:

Anh về em nắm vạt áo em la làng,
Anh bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em…

Khi sáng tác ca dao, nhân dân lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ theo yêu cầu của nghệ thuật thơ ca để bộc lộ tâm tình và những cảm xúc thẩm mĩ mà ngôn ngữ giao tiếp thông thường không thể nào diễn đạt được. Ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, tính chất biểu tượng, ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ… rất đậm nét.

5) Kết cấu

Kết cấu một vế đơn giản

Là dạng kết cấu nội dung của lời là một ý lớn do các phán đoán tạo thành.

Thí dụ:

Dốc bồ thương kẻ ăn đong,
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.

A: Dốc bồ thương kẻ ăn đong.
B: Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.


Cả hai phán đoán A, B đều nhằm diễn đạt cái ý đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ với mình.
Kết cấu một vế có phần vần

Phần đầu tác giả dân gian miêu tả ngoại cảnh (cỏ, cây, sông, núi, đất, trời…). Các nhà nghiên cứu thường gọi phần này là phần gợi hứng. Sau phần này là phần chính của lời có trường hợp giữa hai phần có mối quan hệ liên tưởng.

Thí dụ:

Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa
Lấy anh từ thuở mười ba
Đến năm mười tám thiếp đà năm con
Ra đường người nghĩ còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.


Quả cau là hình tượng gợi hứng, người phụ nữ năm con là hình ảnh chính. Giữa hai phần lời ca dao có mối quan hệ hồi tưởng quả cau→ngày cưới→cuộc sống vợ hiện tại.

Kết cấu hai vế tương hợp

Dạng này thường xuất hiện trong hát đối đáp. Nội dung gồm hai ý lớn có thể tương hợp.

Thí dụ:

Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.


Người con trai ướm hỏi cô gái và cô gái trả lời. Dạng kết cấu này chiếm hầu hết trong kho tàng ca dao, dân ca là mảng đề tài về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình.

Kết cấu nhiều vế nối tiếp

Kết cấu nhiều vế nối tiếp nhau là nội dung của lời gồm nhiều ý nối tiếp nhau. Thuộc dạng này có hai loại. Một loại thì giữa các ý không có mối liên hệ mạch lạc. Một loại giữa các vế không chỉ gắn bó về vần mà còn được liên hệ chặt chẽ về nội dung.

6) Một số biểu tượng, hình ảnh trong ca dao

Thế giới biểu tượng trong ca dao khá phong phú và đa dạng, “Biểu tượng trong ca dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, xây dựng bằng ngôn từ với những quy ước của cộng đồng” [1, trang 106].Có thể phân loại các biểu tượng hết sức phong phú đa dạng của hiện thực ấy như sau:

Thế giới các hiện tượng tự nhiên, thiên nhiên

- Các hiện tượng tự nhiên: trăng, sao, mây, gió…
- Thế giới thực vật: cỏ, cây, hoa, lá…
- Thế giới động vật: rồng, phượng, chim, muông…

Thế giới các vật thể nhân tạo bao gồm:

- Các đồ dùng cá nhân: áo, khăn, gương lược…
- Các dụng cụ sinh hoạt gia đình: chăn, chiếu, giường…
- Các công cụ sản xuất: thuyền, lưới, đò…
- Các cộng cụ kiến trúc: đình, nhà, cầu…

Tóm lại, khi nói đến thi pháp chúng ta thường đề cập đến các vấn đề thuộc về kĩ thuật, kĩ xảo, thao tác và tài năng sáng tạo nghệ thuật. Song để xác định một tác phẩm nghệ thuật đích thực, những lời ca dao đặc sắc, nếu chỉ có kĩ thuật, tay nghề không chưa đủ mà điều kiện trước hết vẫn là sự chân thực của cảm xúc, là sự rung động sâu sắc, tha thiết của trái tim nguời nghệ sĩ.
THI PHÁP THỂ THƠ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN

Bùi Thị Kim Phượng
Thi pháp là những gì làm nên tính độc đáo riêng biệt về phương diện phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm, tác giả.
Thi pháp Văn học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ pháp miêu tả, biểu hiện về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện, phương pháp xây dựng hình tượng con người…trong tất cả các thể loại trong đó thi pháp ca dao có những đặc trưng riêng biệt, đặc biệt là thể thơ trong ca dao.
Đọc toàn bộ sáng tác ca dao người ta dễ dàng nhận ra có ba thể thơ tác giả dân gian thường sử dụng để sáng tác. Vậy đó là những thể thơ nào và cách sử dụng ra sao?
1. Thể thơ lục bát
Thể thơ lục bát còn gọi là thẻ thơ sáu-tám bao gồm dòng trên sáu tiếng và dòng dưới tám tiếng. Một bài lục bát có số dòng không hạn định, vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát.
Ví dụ:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trẵng, xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nành rửa chân…


Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này. Nhịp điệu thơ lục bát về cơ bản là nhịp chẵn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…
Người thương/ ơi hỡi/ người thương
Đi đâu/ mà để/ buồn hương/ lạnh lung
nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…đây là một dạng của lục bát biến thể:
Chồng gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Lục bát biến thể là « những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít rịt trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết »( dẫn theo Lê Đức Luận), về vị trí hiệp vần…Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trường hợp :
a. Câu lục biến thể tăng tiếng :
-Có khi là câu cảm :
Con gà rừng tốt mã khoe lông
Chẳng cho đi chọi, nhốt lồng làm chi !
Thầy mẹ ơi, con đã đến thì,
Mười bảy mười tám chẳng cho lấy chồng
Bây giờ người có, con không
Thấy chúng, thấy bạn, cực lòng con thay !
-Có khi sử dụng số đếm biểu thị không gian, thời gian :
Ba bốn bữa rày anh có bụng trông
Kẻ lên người xuống cũng không thấy nàng.
…….
Phần lớn câu lục biến thể tăng tiến đều bắt nguồn từ dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian mà cách nói phổ biến là : giảng giải, phân trần. Điều này buộc phải kéo dài câu và dùng nhiều vế câu cùng một dòng thơ. Một số câu lục biến thể có sự chêm xen các từ khẩu ngữ đệm vào, đây là một đặc điểm của thơ hát nói.
b. Câu lục biến thể giảm số tiếng
Loại biến thể này lời ca như những câu châm ngôn, có lời như một tục ngữ. Lời thơ xúc tích, hàm nghĩa mang tính triết lý nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về những vấn đề cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu.
-Mật ngọt chết ruồi
Ai mà đến đấy thời người say sưa
-Người khôn chóng già
Người dại lẩn quất vào ra tối ngày.
-Thương mài nhớ liều
Như ai dán đạo bùa yêu trong lòng
c. Câu bát biến thể tăng tiếng
Thường ở dạng này thông tin thường chứa nhiều thể hiện sự suy tưởng diễn giải, giữa hai vế câu có sự liên tưởng hoặc tương ứng về nghĩa. Khác với câu lục, câu bát có thể kéo dài tự do có thể là vì do đặc trưng về số dòng, số tiếng của thơ lục bát.
-Gái đâu có gái lạ lùng
Chồng chẳng nằm cùng, nổi giận đùng đùng ném chó xuống ao.
-Ta rằng ta chẳng có ghen
Chồng ta, ta giữ, ta nghiến, ta nghiền, ta chơi.
- -Hoa kia thơm lửng, thơm lừng
Dặn con ong kia đừng chởi nhởi, dặn con bướm đừng xôn xao.
Câu bát biến thể giảm tiếng số lượng không đáng kể nên không được xem xét ở đây.
d. Cả hai câu biến thể
Mang những đặc trưng chung của kiểu câu lục và câu bát biến thể và có những đặc điểm sau như câu suy luận nhiều vế, câu kết hợp nhiều kiểu câu, khuôn lục bát không rõ ràng, câu nặng tính khẩu ngữ, thường là câu dồn chứa nhiều thông tin, ranh giới câu lục thường xâm lấn câu bát hoặc ranh giới chức năng của hai câu không rõ ràng.
-Hạt lúa vàng, hạt thóc cũng vàng
Anh yêu em, bác mẹ, họ hàng cũng yêu.
-Một mai con cóc lết, con ếch bò
Con nai quỳ, con thỏ chạy một giò, em hỡi có nên ?
-Đêm năm canh thổn thức, ngày sáu khắc ra vào
Tôi buồn riêng vì phận phòng đào lẻ loi.
….
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấu về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần…đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.

2 Thể song thất lục bát hay lục bát kết hợp

Đây là thể thơ kết hợp giữa thể song thất và thể lục bát
-Thứ nhất là dạng song thất lục bát ở dạng này bài thơ ít nhất là một khổ bao gồm hai dòng đầu là 7, hai dòng sau là 6/8 :
Thang mô cao/ bằng thang danh vọng
Nghĩa mô trọng / bằng nghĩa chồng con
Trăm năm nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm dạ còn nhớ thương
-Thứ hai là dạng lục bát gián thất, nghĩa là hai câu 6/8 rồi đến hai câu 7:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.
……
-Dạng thứ ba là hai câu lục bát đầu cuối, xen giữa là hai câu thất:
Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài
Trúc với Mai/Mai về Trúc nhớ
Trúc trở về/ Mai nhớ Trúc không
Bây giờ kẻ Bắc người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng riêng tư.
Thể thơ này thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng phù hợp cho việc diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. Thể song thất và lục bát kết hợp nhau là cho tình cảm vốn đa chiều, phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu. Chính những đặc trung của thể thơ góp phần thể hiện nội dung của bài ca dao được sâu sắc và diễn đạt nhiều chiều cung bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình.
3. Thể vãn
Thể vãn là đặc trưng trong hát dặm Nghệ Tĩnh. Mỗi câu thơ thường gồm 4,5,6 chữ và vần chân :
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lúa đôi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đững trăng gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăng nhiều đèn rạng rỡ
Thể vãn kết hợp với thể lục bát làm cho tiết tấu và vần điệu thơ phong phú, có khả năng diễn đạt những cung bậc khác nhau của tình cảm.
Nào khi mô em nói với anh
Sông cạn mà tình không cạn
Vàng mòn mà nghĩa không mòn
Nay chừ nước lại xa non
Đêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằm
Thể lục bát kết hợp với thể vãn tạo cho bài ca có thế vững chắc, là điểm nhẫn kết vấn đề, ngăn lại dòng kể lan man của thể vãn.
Tháng giêng tháng hai, tháng ba, tháng bốn
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay, đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Giêng
Mua con gà mái về nuôi
Nó đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng ung…

Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây.
Ngoài ra còn có thể hỗn hợp, thể này kết hợp các đặc trưng của các thể khác nhằm diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trong ca dao, thể này sử dụng không nhiều.
Nói tóm lại, đặc trưng thể thơ trong ca dao suy cho cùng là diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Tuy theo cảm xúc, cung bậc mà chọn lựa một thể thơ phù hợp. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát. Vì thể thơ này có khả năng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc mà những con người thấp cổ bé họng không biết chia sẻ cùng ai. Việc sang tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Ngày nay thể lục bát trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
(st):beat_brick:

1 nhận xét: