Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Quan niệm mới về ngôn ngữ văn chương


Quan niệm mới về ngôn ngữ văn chương
Trần Sáng 
Sẽ là dài dòng không cần thiết, nếu cứ bắt đầu một văn bản có liên quan đến ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ văn chương) bằng những lời phi lộ về tính quan thiết của nó đối với lĩnh vực này. Nếu như bắt buộc phải thực hiện thao tác này (như tính cấp thiết của đề tài rồi đến nội dung). Thì có lẽ không có dẫn dụ nào hàm súc và thích đáng hơn là trưng ra lời mở đầu cua một văn bản tôn giáo là Kinh Cựu Ước. “Khởi thuỷ là lời”. Chính thế! Sự hình thành của Lời (tiếng) hiểu rộng ra là ngôn ngữ, chính là khởi sự cho tất cả, đây là một bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ đây lằn ranh giữa loài người với các loài sinh vật khác, đã được phân rõ bằng một vạch thời đại đậm nét. Từ thứ ngôn ngữ thô sơ của bầy người nguyên thuỷ (thứ ngôn ngữ mà theo nhà triết học Trần Đức Thảo thì tầng cử chỉ trội vượt hơn tầng khẩu thiệt) đến thứ ngôn ngữ hoàn chỉnh bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, rồi đến ngôn ngữ văn chương, đó là cả một sự kỳ diệu. Nhưng là một sự kỳ diệu đầy mâu thuẫn, Bởi cũng như tất cả mọi sự vật hiện tượng khác trong thế giới vật chất này, hình như chưa bao giờ loài người có một quan niệm thống nhất về ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ văn chương nói riêng. quan niệm thịnh hành nhất là ngôn ngữ (ở đây xin được khu biệt vào ngôn ngữ văn chương) là coi ngôn ngữ như một công cụ của tư duy. Ở nước ta học sinh phổ thông trung học thường được dạy rằng:
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki).như màu sắc đối với hội họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng, văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ. Từ đó có thể hiểu rằng ngôn từ có quyền năng vô biên, nó vừa được dùng để mô tả thế giới vật chất vô cùng vô tận vừa là công cụ ghi lại những xung động vi tế nhất trong thế giới nội tâm sâu thẳm của con người. Với ý hướng đó những đối tượng của ngôn ngữ hiện lên với một ý nghĩa tường minh. Những câu thơ như:
Non cao những ngóng cùng trông /Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày/Xương mai một nắm hao gầy /Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương (Tản Đà), hay: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ/Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa (Chế Lan Viên). Hoặc : “em ơi Ba Lan mùa tuyết tan, đường Bạch Dương sương trắng, nắng tràn” (Tố Hữu)...là nh ững câu thơ hay, tuy nhiên  
Tuy nhiên sự e ấp, kín đáo của nàng thơ, bất quá cũng chỉ được giấu giếm dưới một làn the mỏng mảnh. Khó có thể thoả mãn được các nhà thám hiểm ưa khám phá.
Ở những góc nhìn khác, vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ và tồn tại từng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng. Những hoài nghi triết học về khả năng của ngôn ngữ trong việc nhận thức chân lý, trong việc tái hiện hình ảnh của thế giới khách quan đã nảy sinh từ Platon, Lessing và gần đây là các nhà Giải cấu trúc luận như J. Derida, R. Barthes…Trong thiên tiểu luận viết dưới hình thức đối thoại “Trên đường đến với ngôn ngữ”, Martin Heidegger đã nói rõ về sự hạn chế của ngôn ngữ trong việc "chỉ ra các sự vật trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng". M.Heidegger đặc biệt chú ý đến vai trò của ngôn ngữ trong việc tạo lập thế giới. Ngôn ngữ không chỉ chuyển tải ý nghĩa của người phát ngôn mà chúng có thể tạo nên một thế giới độc lập. Và ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể. Sở dĩ có tình trạng đó là bởi ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu, và theo F.D. Saussure, mối quan hệ giữa nó với cái được biểu đạt luôn luôn là quan hệ có tính võ đoán. Cho nên, cái gọi là tính chính xác trong sự biểu đạt, xét cho cùng cũng chỉ là cách nói có tính ước lệ. Ở một dạng thức cụ thể Nguyễn Tuân, một nhà văn có quan điểm ngôn ngữ văn chương hay ở sự trong sáng, đồng thời cũng được coi là một bậc thầy về ngôn ngữ Việt cũng đã có những hoài nghi tương tự khi ông loay hoay, băn bó, cân nhắc mãi trước cái sự phải tả sao cho đúng màu xanh của vụng Biển Cô Tô:
“xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh minh? Đúng một phần thôi. Bởi vì con sóng đang dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biển sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng quá phải không? Mà kìa, nhìn cho kĩ mà xem, nước biển đang xanh như cái màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương. Cũng không phải là sợ lai căng, nhưng nghe có vẻ vẫn chưa trúng, vẫn chưa ổn phải không? Sóng vẫn kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều nay luôn thay màu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng" (Cô Tô).
Nói như nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh thì, đây hoàn toàn không phải chuyện khoe chữ, làm dáng, mà là chân thành thú nhận sự thất bại khi đua tranh với tạo hoá. Cái bảng màu của nhà văn dù phong phú đến đâu thì cũng chỉ là những tín hiệu ngôn ngữ, sản phẩm của tư duy, không thể nào trùng với thực tại khách quan. Nhà văn càng cố tìm cách so sánh, liên tưởng bao nhiêu, càng xa bản chất sự vật bấy nhiêu. Cho nên, đặt vấn đề tính chính xác của ngôn từ trong những trường hợp như thế này dễ rơi vào cảm tính, chủ quan. Không bao giờ có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
Nằm trong trường ý nghĩa này. Hiện nay ngôn ngữ văn chương được nhìn nhận như một “sơ đồ mời gọi” một “kết cấu vẫy gọi”. Nó không cam phận ngựa thồ để chuyển tải ý nghĩa từ chủ thể tác phẩm đến người đọc. Nó bắt buộc người đọc phải nhọc tâm, khổ tứ trong cuộc khám phá văn bản, hòng đào sâu, tát cạn tác phẩm đ ể tìm ra lớp trầm tích ngữ nghĩa sâu sa. Đó không phải là những văn bản đơn âm, đơn điệu, một chiều. Nói như M. Bakhtin đó  là những văn bản đa âm, phức điệu, nhiều chiều, những văn bản biết đối thoại với độc giả. Vì thế những cách đọc thụ động, máy móc, chai cứng, thiếu tính sáng tạo sẽ hoàn toàn những bó tay những câu thơ như:
“Em về mấy thế kỷ sau, ngó trăng còn thấy nguyên màu ấy không,/ ta đi gửi lại đôi dòng, lá rơi có dội lại trong sương mù?”.   (Bùi Giáng). Hoặc : “ Ngựa buông vó và mây về ngang trên lưng đồi/ trời xanh lá đàn sâu ngủ quên trong tóc chiều/cuộc đời đó nửa đêm tiếng ca như than phiền/bàng hoàng lạc gió mây miền/trùng trùng ngoài khơi nước lên sóng mềm. (Trịnh Công Sơn-Dấu chân địa đàng). Ở những mức độ khác nhau, phong cách đó cũng chính là sự lựa chọn hành ngôn của một số thi sĩ hoặc văn sĩ hiện đại như : Lê Đạt, Hoàng Hưng, Dương Tường, Nguyễn Quang Thiều, Phan Huyền Thư (thơ) Nguyễn Bình Phương, Thuận (tiểu thuyết)  
Hương thắp ba lần/ không đáp lửa/Hồn có nhà/  hay bát mộ đi xanh
(Thanh Minh- Lê đạt)
Ta khóc vụng một ngày thưa bóng mẹ /Tiềng gà buồn mổ rỗ mặt hoàng hôn (10 khúc cảm-Nguyễn Quang Thiều).
Một khi người đọc đã thực sự vào cuộc, tất họ sẽ dũng cảm vượt qua  trùng trùng những biểu tượng, để đến với bản chất đối thoại của ngôn ngữ, và một cách  tự nhiên họ sẽ thừa nhận tính tất yếu của tinh thần dân chủ cũng như tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Thiết tưởng đó chính là vai trò tích cực của ngôn ngữ (theo quan niệm mới) đối với văn chương và cuộc sống này.

1 nhận xét: