Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Liêu Trai Chí Dị 2


Liêu Trai Chí Dị
Đào mả cô Canh
(Canh Nương)





Kim Đại Dụng, con một nhà thế gia cũ ở Trung Châu, lấy con gái quan thái thú họ Vưu làm vợ.
Nàng tên là Canh Nương, đẹp mà hiền đức. Vợ chồng rất âu yếm hoà thuận. Vì có loạn giặc cỏ đánh phá, ai nấy phải bỏ nhà, tìm đường xa lánh.
Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng đem vợ đi chạy loạn, tự giới thiệu mình là Vương Thập bát và tình nguyện làm hướng đạo, Kim mừng lắm, đi đứng lúc nào cũng có nhau. Canh Nương ghé bên tai chồng nói nhỏ:
- Ta chớ nên đi chung ghe với người đó. Hắn hay dòm liếc, đôi mắt nhấp nháy mà sắc mặt biến đổi, trong bụng hẳn là nham hiểm khó lường đó.
Chàng gật đầu.
Vương Thập bát sốt sắng đi tìm mướn chiếc ghe thật lớn, khiêng vác hành lí hộ chàng, ra vẻ khó nhọc đáo để. Chàng không nỡ từ chối để đi tách riêng. Lại suy nghĩ hắn có đem vợ trẻ đi theo, chắc không có chuyện gì xảy ra mà lo.
Vương phụ cùng Canh Nương ở chung một khoang thuyền, xem người cũng có vẻ hiền từ. Còn Vương thì ngồi trên mũi ghe, cùng người chân sào nghiêng mình nói chuyện, dường như có họ hàng hay là quen biết đã lâu.
Không mấy chốc mặt trời lặn, mà sóng nước mênh mông, chẳng phân biệt phương hướng đâu là nam bắc.
Kim nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ này thâm sâu hiểm hóc, trong bụng hơi nghi sợ. Một lúc sau trăng mọc, nhìn thấy lau sậy bát ngát.
Ghe đậu lại đó.
Vương mời cha con Kim lên mui đứng xem phong cảnh, thừa cơ đẩy tuốt Kim xuống sông. Thân phụ Kim thấy vậy muốn kêu lên, nhưng người chủ ghe cầm sào đẩy ông xuống nước chết luôn. Đến bà mẹ chàng đang ở trong ghe, nghe tiếng ồn ào, chạy ra dòm xem, cũng bị dìm sông chết đuối nữa.
Bấy giờ Vương mới làm bộ kêu cứu.
Lúc bà mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã dòm biết sự tình ra sao rồi. Khi thấy cả nhà mình chết đuối, nàng cố trấn tĩnh, không lộ vẻ kinh hoàng, chỉ ôm mặt khóc nói:
- Cha mẹ chồng chết, chồng cũng chết nữa, thân tôi biết nương dựa vào đâu bây giờ, hỡi trời?
Vương đến bên vỗ về, khuyên nhủ:
- Nương tử chớ lo, xin theo tôi về Kim Lăng, tôi có ruộng đất cửa nhà đủ sinh sống, chẳng phải lo gì.
Nàng lau nước mắt và nói:
- Được như vậy là tôi mãn nguyện lắm rồi.
Vương rất mừng, đãi đằng chiều chuộng hết sức. Tối đến nó lôi kéo nàng đòi giao hoan. Nàng nói trong mình đang kì kinh, bấy giờ nó mới chịu về chỗ vợ nằm. Cuối canh một, nghe tiếng vợ chồng cãi nhau rầm rĩ, không hiểu vì cớ gì, chỉ nghe vợ nói:
- Mày làm chuyện đó, tao e sấm sét đánh nát đầu cho mày xem.
Vương đánh vợ. Vợ la lớn:
- Mày giỏi đánh chết tao đi càng hay, tao không muốn làm vợ một đứa giết người đâu.
Vương gào thét giận dữ, túm đầu vợ lôi ra bên ngoài, liền nghe một tiếng ùm, rồi Vương nói rêu rao lên rằng vợ té xuống sông chết đuối rồi.
Mấy hôm sau đến Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, chào hỏi bà mẹ. Bà lấy làm lạ sao người này không phải vợ cũ, Vương trả lời vợ cũ chết đuối, nên mới lấy người này.
Lúc nàng vào phòng riêng, Vương lại muốn mò mẫm kia khác, nàng cười và nói:
- Con trai ngót ba chục tuổi đầu mà không biết việc phải ở đời thế nào ư? Dầu là con nhà đầu đường xó chợ, khi mới lấy vợ cũng phải có chén rượu lạt gọi là thủ lễ. Nhà ngươi giàu có, việc ấy hẳn không khó khăn, chả lẽ đối diện suông tình với nhau còn ra thể thống gì nữa.
Vương nghe nhằm lí, bèn dọn tiệc rượu ngồi đối diện nhau. Canh Nương nâng chén khuyên mời hết sức niềm nở ân cần. Vương gần say, chối từ không uống được nữa. Nàng lại rót một li lớn, giả đò lả lơi mời ép Vương uống cho kì được. Vương thấy vậy khoái chí không nỡ chối từ, liền uống cạn một hơi.
Bấy giờ nó say mèm, cởi tuột quần áo thúc giục Canh Nương đi ngủ.
Nàng dọn dẹp mâm chén rồi tắt phụt đèn, lấy cớ đi tiểu bước ra ngoài phòng, dắt dao trong lưng đem vào, lò mò trong đêm tối, lấy tay vít chặt lấy cổ Vương.
Nó mơ màng ngỡ là người yêu bá cổ mình, cho nên còn nắm lấy cánh tay nàng nói giọng lả lơi. Nàng thừa thế ấn dao xuống thật mạnh. Vương kêu rú và vùng dậy, nàng chém bồi thêm mấy dao nữa hắn mới chết. Bà mẹ nghe có tiếng động chạy đến hỏi chuyện gì, nàng thuận tay giết nốt. Em trai nó là Thập cửu hay tin chạy đén. Canh Nương tự biết mình không thoát khỏi, liền trởmũi dao lại đâm cổ. Nhưng vì hốt hoảng nên đâm vào không sâu, vội vàng mở cửa vọt ra chạy trốn.
Thập cửu rượt theo bén gót.
Nàng kịp nhào đầu xuống giếng tự tử. Thập cửu hô xóm giềng vớt lên cứu, thì nàng đã tắt hơi rồi, mà nét mặt vẫn tươi đẹp như lúc còn sống.
Mọi người cùng vào buồng xem xét tử thi của Vương, thấy trên cửa sổ có để bức thư liền mở ra xem, tức là thư Canh Nương kể số nỗi oan khổ của mình.
Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi nàng nghĩa liệt, bàn nhau chung đậu tiền bạc mua vải liệm xác và lo cuộc tống táng.
Sáng ra thiên hạ tựu lại có mấy ngàn người.
Ai trông thấy dung nhan nàng cũng kính cẩn vái lạy. Trọn ngày, quyên góp được trăm bạc, an táng nàng ở ngoại ô phía nam. Có kẻ bày đặt nhiều chuyện đem cả mão nạm hột châu và áo bào phục mặc vào thi thể nàng rồi đem chôn một cách sang trọng, đầy đủ.
Giờ xin trở lại Kim Đại Dụng, lúc bị xô té xuống sông, tưởng chắc chết đuối, nhưng may phúc níu được tấm ván trôi nổi theo dòng nước, thành ra thoát chết. Gần xế chiều, trôi đến Hoài Thương, nhờ một chiếc thuyền nhỏ vớt lên.
Thuyền này vốn của Doãn ông, nhà giàu có, thả luôn trên sông, chuyên việc cứu vớt những kẻ đắm, đuối làm phúc.
Chừng được hồi tỉnh, Kim đến tận nhà Doãn ông để cảm tạ.
Ông đãi rất tử tế, lại muốn giữ Kim ở lại trong nhà để dạy con học. Nhưng Kim sốt ruột vì không biết tin tức cha mẹ sống chết thế nào, cho nên còn đang lưỡng lự, chưa quyết.
Giữa lúc ấy có người vô trình Doãn ông biết sự mới vớt được xác một cụ già và một bà lão chết trôi. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy ra nhìn mặt quả đún. Doãn ông sắm sửa quan tài chôn cất tử tế.
Chàng đương khóc lóc, lại được tin mới vớt một chị đàn bà, tự nói chồng nàng là Kim Sinh.
Kim giật mình gạt lệ định chạy ra tận nơi xem mặt thì người đàn bà ấy đã tới nhà Doãn ông. Kim nhìn không phải Canh Nương, mà chính là vợ cũ Vương Thập bát.
Nàng trông thấy mặt Kim khóc ròng, một hai năn nỉ chàng đừng bỏ mình tội nghiệp. Chàng nói:
- Hiện tôi bối rối ruột gan, còn có bụng dạ nào lo việc hộ người cho đặng.
Nàng càng khóc già.
Doãn ông hỏi rõ nguồn cơn, mừng là đạo trời báo ứng, cho nên khuyên nhủ Kim Sinh nên lấy nàng làm vợ.
Kim chối từ:
- Đúng lúc cư tang, lấy vợ không tiện, vả lại còn phải lo việc báo thù cho cha mẹ, sợ có đàn bà bịn rịn bên mình, sinh ra hệ luỵ chăng?
Nàng nói:
- Theo như lời chàng, giả tỉ Canh Nương còn sống thì chàng cũng lấy cớ báo thù và cư tang mà bỏ chị ấy đi chăng?
Doãn ông cho lời nàng nói đúng, ông xin chàng hãy tạm thu dưỡng nàng, để sau sẽ tính. Lúc đó Kim mới khứng chịu, rồi lo việc chôn cất ông cụ và bà cụ. Nàng cũng mặc đồ gai và khóc lóc như đối với cha mẹ chồng thật.
Sau khi an táng cha mẹ xong, Kim giấu dao nhọn trong lưng, đeo bị ăn xin dọc đường định tới Quảng Lăng tìm kẻ thù. Nàng ngăn lại và nói:
- Tôi họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với thằng khốn nạn đó. Lúc trước nói ở Quảng Lăng ấy là nói láo. Vả lại quân ăn cướp giang hồ, phần nhiều là đồng đảng của nó. Chàng chớ có mạo hiểm vu vơ e rằng đại cừu không báo được mà tự rước lấy tai vạ vào mình đấy thôi.
Kim nghe ngần ngừ không biết tính sao cho phải.
Chợt nghe thiên hạ đồn ầm về chuyện một người con gái giết chết kẻ thù, khắp cả đò dọc biển sông, đâu đâu cũng biết, lại nói rõ cả tên họ. Kim nghe lấy làm khoái chí, nhưng lại càng thấy đau đớn trong lòng, nhất định chối từ không lấy Đường thị, nói rằng:
- Cũng may, vợ tôi không chịu ô nhục mà giết được kẻ thù. Một người có vợ nghĩa liệt đến thế, nỡ lòng nào phụ rẫy mà lấy vợ khác cho đành.
Đường thị trả lời rằng đã có lời nói nhất định trước rồi, không chịu giữa đường bỏ dở, thôi thì nguyện làm nàng hầu vợ mọn cũng cam.
Vừa vặn lúc đó có quan phó tướng Viên công, vốn quen biết Doãn ông, nhân tiện đổi đi trấn thủ miền tây, ghé vào thăm Doãn ông, được trông thấy Kim, đem lòng yêu mến, xin chàng đi theo làm thư kí.
Không bao lâu, giặc cướp phạm vào đất Thuận, họ Viên đánh dẹp có công to, Kim cũng tham dự khó nhọc trong việc quân cơ, được thưởng chức quan du kích mà về. Bấy giờ mới cùng Đường thị làm lễ kết hôn, thành ra vợ chồng chính thức.
Ở lại mấy ngày rồi dắt vợ đi Kim Lăng, định tìm viếng mộ Canh Nương.
Kim bảo ghé thuyền đỗ bến Trấn Giang, ý muốn lên núi Kim Sơn viếng cảnh, chợt thấy giữa dòng có một chiếc ghe nhỏ đi qua, bên trong có bà cụ và một thiếu phụ ngồi. Kim thoáng trông lấy làm lạ, thiếu phụ hơi giống Canh Nương.
Chiếc ghe lướt qua mau lẹ, thếu phụ thò đầu ra cửa sổ dòm Kim, khiến chàng nhận thấy hình dung càng giống như đúc, nhưng trong bụng nửa kinh nửa ngờ, không dám đuổi theo mà hỏi, chỉ vội vàng nói câu này thật lớn: “Xem đàn vịt đang bay trên trời kia kìa!”.
Thiếu phụ nghe lọt cũng nói to tiếng: “Chó con lại muốn ăn thịt của mèo ư?”. Ấy là câu nói lóng của vợ chồng thường đùa bỡn nhau trong chốn khuê phòng.
Kim cả kinh, giục ghe quay chèo lộn lại. Té ra thiếu phụ chính là Canh Nương.
Con hầu đỡ Canh Nương bước sang thuyền Kim. Vợ chồng ôm nhau khóc nức nở. Đường thị lấy lễ vợ bé đối với vợ lớn, chào hỏi Canh Nương.
Canh Nương sửng sốt hỏi tại sao vợ Vương Thập bát lại ở đây. Kim thuật rõ đầu cuối. Canh Nương cầm tay Đường thị và nói:
- Câu chuyện đàm đạo trong khi cùng một chuyến đò, vẫn ghi nhớ trong lòng không quên, chẳng dè ngày nay được sum họp với nhau một nhà. Tôi nhờ có chị thay mặt tống táng cha mẹ chồng, đáng lí tôi phải tạ ơn chị trước, sao chị lại lấy lễ đích thứ đối với tôi thế?
Canh Nương hỏi ra Đường thị kém mình một tuổi bèn gọi Đường thị là em.
Nguyên hồi Canh Nương chết rồi, được các người hảo tâm chôn cất, không tự biết là trải bao xuân thu đắp đổi. Một hôm chợt nghe có người gọi tên và nói:
- Canh Nương ơi! Chồng mi không chết đâu, rồi vợ chồng mi sẽ lại được sum họp.
Khi đó nàng như chiêm bao mới tỉnh, rờ tay thấy bốn phía bưng bít như tường kín, bấy giờ mới tỉnh ngộ rằng mình đã chết, chôn trong quan tài, nhưng trong trí chỉ thấy buồn bực, chứ không có điều chi khổ sở.
May sao, có bọn người tham lam, thấy được khi người ta liệm nàng có nhiều đồ vật sang trọng, bèn thừa đêm khuya rủ nhau ra đào mả bửa hòm, để lấy những vật quý giá đó. Nào dè mở ra, thấy Canh Nương còn sống, cả bọn sợ hãi cuống quýt.
Canh Nương sợ chúng sát hại mình, cho nên lấy lời nhỏ nhẹ năn nỉ:
- Thật là nhờ có mấy anh, mà tôi lại trông thấy mặt trời. Vậy bao nhiêu trâm cài lược giắt trên đầu tôi, xin mấy anh cứ việc lấy đi, rồi đem tôi bán cho một chùa nào làm ni cô thì mấy anh còn được món tiền nhiều ít nữa. Tôi thề giữ kín, không lộ với ai mà sợ.
Bọn trộm cúi đầu thưa:
- Nương tử nghĩa liệt, dù người hay quỷ thần đều phải kính nể. Anh em chúng tôi chỉ vì nghèo túng vô phương mà làm việc bất nhân thế này. Chỉ cầu nương tử không nói lộ chuyện là may phúc cho anh em chúng tôi lắm rồi, đâu dám đem nương tử đi bán cho chùa.
Canh Nương đáp:
- Điều đó tự lòng tôi muốn mà.
Một đứa trong bọn nói:
- Tại Trấn Giang có Cảnh phu nhân, goá chồng mà không có con cái chi, nếu được nương tử về làm con nuôi, thì hẳn bà mừng lắm.
Canh Nương tạ ơn, rồi tự tháo các món châu báu trang sức trên đầu trao cho lũ trộm. Chúng không dám nhận. Nàng cố ép mãi, chúng mới chịu lãnh rồi mời nàng xuống ghe, chở tới nhà Cảnh phu nhân, nói thác rằng nàng bị bạt phong chìm thuyền lưu lạc đến đây.
Cảnh phu nhân nhà cao cửa rộng, thân đàn bà goá vò võ một mình, đang trong cảnh buồn, bỗng được Canh Nương, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền nhận nuôi nàng và chăm nom chiều chuộng không khác nào con đẻ.
Hôm nọ, Kim Sinh gặp ở trên sông, là lúc hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về.
Canh Nương kể rõ tình đầu cho bà nghe, rồi Kim Sinh qua chào. Bà tiếp đãi như mẹ vợ đối với chàng rể, lại mời đến nhà ở chơi mấy ngày mới cho về.
Từ đó hai vợ chồng lui tới nhà phu nhân luôn.





Đào Trinh Nhất dịch

Liêu Trai Chí Dị
Tình NGhĩa Với Chim
(A Anh)



Cam Ngọc, tự Bích Nhân, người quận Lộ Lăng, cha mẹ mất sớm còn người em trai, tên Giác tự Song Bích, mới có năm tuổi, nhờ anh chị nuôi nấng.
Người rất hữu ái, chăm nom em chẳng khác gì con ruột. Năm tháng qua đi, Giác trưởng thành, mặt mày khôi ngô lại thông minh học giỏi, cho nên Ngọc càng quý, thường nói:
- Thằng em ta lỗi lạc thế này, phải có vợ tài mạo song toàn mới xứng đáng.
Nhưng kén chọn khó tính quá, thành ra dạm hỏi chẳng xong đám nào. Một hôm, Ngọc lên chùa núi Khuông Sơn đọc sách rồi ngủ lại đó, gần khuya đi nằm nghe bên ngoài cửa sổ có tiếng con gái thỏ thẻ, nhìn ra thấy ba bốn cô gái ngồi xúm nhau trên bãi cỏ, mấy con tớ gái bày rượu và đồ nhắm, cả bọn đều có sắc đẹp. Một cô hỏi:
- Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không đến chơi với chị em ta?
Cô gái ngồi hàng cuối trả lời:
- Bữa qua nó từ cửa ải Hàm Cốc đến đây bị một thằng hung bạo làm đau cánh tay phải; cho nên không thể cùng chị em mình ngao du đêm nay.
Mỗi người một lời, tỏ vẻ tức tối cho A Anh. Rồi một cô gái nói:
- Đêm trước nằm chiêm bao ghê quá, hôm nay nhớ lại còn toát mồ hôi.
Cô ngồi hàng cuối xua tay gạt đi:
- Chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói chuyện nhát sợ người ta mất khoái đi.
- Con bé này sao nhát gan đến thế! Nó làm như beo cọp đến vồ đi chăng? Nếu muốn cho ta đừng nói thì phải một bài thuốc chuốc chén cho chị đây. Cô nọ liền ngâm nho nhỏ:



Bông đào đua nở đầy thềm tốt tươi
Hôm qua hẹn ước chớ có đơn sai
Nhắn nhủ cô em bên xóm
Đợi nhau chút đỉnh chớ nên giục tôi



Mang giày cánh phụng rồi tôi tới nơi.
Cô ngâm xong, cử tọa đều tấm tắc khen hay.
Giữa lúc chị em đang vui cười, bỗng một người to lớn hầm hầm đi vào, mắt lồi mặt dữ tợn, các cô cùng hoảng hốt la lên:
- Yêu tinh đến đó! Yêu tinh đến đó!
Rồi mạnh ai nấy chạy tán loạn, như chim lạc đàn, duy cô vừa mới hát không chạy kịp, bị yêu tinh bắt được, kêu la thảm thiết, cố sức giằng co để gỡ mình ra. Yêu tinh giận dữ cắt đứt một ngón tay cô của mà nhai liền đó. Cô ngã xuống đất chết giấc.
Cam Ngọc nhìn thấy động lòng xót thương không sao nhịn được, lập tức rút gươm mở cửa xông ra, chém yêu tinh, trúng vào bắp về đứt lìa, nó đau quá chạy mất.
Ngọc đỡ nàng vào nhà, thấy mặt đầy cát bụi, máu thấm ướt áo, té ra đứt ngón tay cái, liền xé vải buộc lại cho nàng. Bấy giờ nàng mới tỉnh, nói rên rỉ:
- Cái ơn cứu mạnh lấy gì mà đáp đền?
Từ khi Ngọc trông thấy nàng, đã ngầm tính tới chuyện làm mai cho em, bèn ngỏ ý với nàng, nàng nói:
- Con người có tật như tôi, không thể làm việc nội trợ được nữa, để tôi làm mai một người cho em ông.
- Người ấy họ chi?
- Cô ấy họ Tần.
Đoạn, Ngọc tự lấy chăn của mình đắp cho mình. Hôm sau, Ngọc về thuật chuyện với em, lấy làm hối hận không hỏi nàng cửa nhà làng xóm ở đâu.
Một hôm, em Ngọc là Giác ngẫu nhiên đi chơi ngoài đồng, gặp một cô xuân xanh đôi tám, mặt mày cực xinh, ngó chàng mà cười chúm chím, sau liếc quanh bốn phía rồi nói:
- Cậu có phải là cậu Hai nhà họ Cam đó không?
- Thưa phải! Chính tôi!
- Ông cụ thân sinh ra cậu hồi xưa có đính ước hôn nhân cho cậu với tôi, sao hôm nay cậu lại muốn trái lời ước cũ, đi dạm hỏi họ Tần?
- Thưa cô, tôi mồ côi cha từ hồi còn bé, cho nên những lời hẹn hò thế nào, không từng hay biết. Vậy xin cô nói rõ họ tên, để tôi về hỏi lại anh tôi.
- Thưa cậu ạ, không cần tra hỏi tỉ mỉ làm chi. Miễn được cậu ừ một tiếng, rồi tôi sẽ tự đến nhà.
Giác từ chối, lấy cớ là chưa nói với anh, không dám hứa bừa, nàng cau mày nói:
- Vậu này ngây thơ quá, sợ anh đến thế ư? Đã vậy thì thôi, nói cho biết: Tôi đây họ Lục ở thôn Sơn Vọng thuộc về Sơn Đông. Nội trong ba bữa tôi đợi tin cậu đấy.
Nói đoạn, nàng từ giã đi.
Giác về thuật chuyện với anh, anh nói:
- Con đó nói láo. Hồi cha mất, tao đã ngoài hai mươi tuổi, nếu có chuyện đính hôn đó, lẽ nào tao lại không hay.
Ngọc lại nghĩ, con gái đi một mình ngoài đồng, gặp đàn ông con trai tự dưng bắt chuyện như thế là hạng gái không ra gì, cho nên trong lòng khinh bỉ, không thèm để ý. Tuy nhiên, cũng hỏi em coi dung mạo nàng ra sao? Giác thẹn đỏ mặt, không thốt được một lời nào. Chị dâu cười hỏi:
- Ý chừng cô ả đẹp lắm thì phải.
Ngọc nói:
- Nó con nít, biết gì xấu đẹp? Dù cho đẹp cũng không bằng họ Tần đâu. Đợi xem chừng nào họ Tần không xong, sẽ tính đám này cũng chưa muộn.
Giác lẳng lặng bỏ đi.
Cách mấy hôm sau, Ngọc đi đường, thấy một thiếu nữ vừa đi vừa khóc trước mặt, liền buông cương kìm ngựa lại mà dòm mặt thấy sắc đẹp tuyệt trần bèn sai tên tùy tùng hỏi nàng vì sao mà khóc.
Nàng đáp:
- Tôi lúc trước đính hôn cậu hai nhà họ Cam vì nỗi nhà nghèo nên phải đi xa, phải bặt tin tức. Gần đây mới về, lại nghe Cam gia thay lòng đổi dạ, quên lời ước cũ, bây giờ tôi cốt đến hỏi người anh cả là Cam Bích Nhân xem anh ấy liệu cho tôi ra sao?
Ngọc sửng sốt vừa mừng vừa tự giới thiệu:
- Cam Bích Ngọc chính là tôi đây cô ạ! Ông cụ nhà tôi thuở trước có hẹn ước ra sao, thật tình là tôi không biết. Đây cách nhà tôi không xa, mời cô về nhà tôi bàn tính.
Nói rồi xuống ngựa, nhường cho nàng cưỡi, tự mình đi bộ theo sau, đưa nàng về nhà.
Nàng tự nói tên là A Anh, mà không có anh trên em dưới nào cả, duy chỉ có một người chị bên ngoại, họ Tần cùng ở chung. Bấy giờ Ngọc mới hiểu cô nọ đã nói hôm trước tức là người này. Ngọc muốn sai người đi báo tin cho nhà cô biết, nhưng cô nhất định cản đi.
Ngọc mừng thầm, em mình vớ được vợ đẹp, nhưng sợ nàng lẳng lơ, e bị thiên hạ chê cười. Cưới về một thời gian, nhận thấy cử chỉ đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như là mẹ, chị dâu cũng hết lòng yêu chuộng.
Gặp tiết trung thu, vợ chồng đang ngồi ăn uống thân mật, chị dâu sai người đến mời, kèo nài thế nào nàng cũng phải đến nhà anh chị uống rượu thưởng nguyệt cho vui. Trong ý Giác còn phân vân, thì nàng bảo người đi mời cứ về trước, nàng sẽ tới sau. Nhưng ròi nàng cứ ngồi lỳ ở nhà nói chuyện vui cười với chồng, lâu lâu mà không có ý ra đi, làm Giác phải giục giã, sợ chị dâu chờ đợi mãi, không nên. Nàng chỉ cười, sau rốt vẫn ngồi nhà chớ không đi đâu cả.
Sáng ngày, nàng chải đầu thoa phấn vừa xong, thì chị dâu thân hành đế thăm viếng, hỏi tại sao đêm qua ngồi với mình mà có vẻ xuôi xị không vui. Nàng mỉm cười.
Giác thấy chuyện lạ, hạch hỏi đôi co, té ra hồi hôm vợ ngồi cả buổi ở nhà không chịu đi, đồng thời lại có mặt tại nhà chị mới kỳ. Chị cả kinh, nghĩ bụng, nếu như nàng chẳng phải yêu ma, cớ sao có phép thân phân hai nơi như thế. Ngọc cũng phát sợ, đứng cách bức màn mà nói:
- Nhà tôi đời đời tu nhân tích đức, vốn không chuyện oán thù gì với cô. Nếu phải cô là yêu tinh thì xin đi mau, chớ giết em tôi tội nghiệp.
Nàng thẹn thùng nói:
- Vâng, em vốn không phải là người. Chỉ vì ngày xưa ông cụ có lời đính ước, thành ra chị Tần thúc giục em tới đây. Chính em tự nghĩ không thể sinh đẻ gì được, cho nên thường muốn từ biệt mà đi cho rảnh; bấy lâu hãy còn bịn rịn chẳng nỡ dứt tình chỉ vì cảm tấm lòng anh chị đối đãi tử tế đó thôi. Nay anh chị đã sinh lòng ngờ vực thì em xin đi biệt từ đây.
Chớp mắt đã hóa thành chim anh vũ bay mất.
*
Nguyên hồi Cam ông còn sống, có nuô một con anh vũ cực khôn, mỗi ngày ông tự đút mồi cho nó ăn. Lúc đó Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cha tại sao cứ phải cho chim ăn. Ông nói giỡn:
- Cho nó ăn để sau này làm vợ mày đó.
nhiều khi sợ chim ăn chưa đủ no, ông kêu Giác:
- Kìa, con không cho nó ăn thì dâu của tao chết đói còn gì?
Gia nhân cũng lấy chuyện đó mà đùa bỡn với Giác. Về sau, chim duộc dây, bay vù đi mất.
Nay người anh nhớ lại chuyện xưa, mới tỉnh ngộ nàng nói cựu cũ là vậy đó.
Bây giờ, Giác thấy rõ vợ không phải là người nhưng biến đi thì lòng thương nhớ khôn nguôi. Chị dâu cũng nặng tình tưởng nhớ, đến nỗi sớm chiều khóc lóc. Ngọc động lòng hối hận song việc đã lỡ chẳng biết làm sao kéo lại cho được.
Sau hai năm, Ngọc cưới con gái Khương thị về cho em, nhưng trong ý không nguôi chuyện cũ.
Có người anh họ là chức Tư Lý ở Quảng Đông, Ngọc đến thăm, lâu ngày không về. Vừa gặp thổ phỉ dấy loạn, xóm làng xung quanh đổ nát quá nửa. Giác sợ quá đưa cả nhà vào hang núi lánh nạn, trai gái hỗn tạp, không còn biết ai là ai. Chợt nghe tiếng con gái nói thỏ thẻ, nghe giống như A Anh, chị dâu hối Giác lại gần xem thì quả A Anh.
Giác mừng quýnh nắm chặt lấy cánh tay không buông, nàng nói với người cùng bọn:
- Cô hãy đi trước, tôi đợi chị dâu tôi đến.
Khi đến nơi, chị dâu trông thấy khóc nức nở, nàng an ủi đôi ba phen, lại nói chốn này không thể yên thân, nên kéo nhau về nhà là hơn. Mọi người sợ cướp quấy nhiễu thì nguy. Nàng nhất định bảo cứ về, không có gì lo. Bấy giờ mọi người đưa nhau về.
Nàng đào đất bịt cửa, dặn dò ai nấy cứ yên bên trong, không được ra ngoài. Ngồi nói ba điều bốn chuyện, nàng rục rịch muốn đi. Chị dâu vội vàng nắm chặt cánh tay, lại bào hai con hầu mỗi đứa ôm cứng một chân. Cực chẳng đã, nàng phải ở lại, nhưng chạy về buồng riêng. Giác năn nỉ hẹn hò ba bốn lần nàng mới đến một lần.
Chị dâu thường nói với nàng rằng Khương thị lôi thôi, nên không vừa ý chú hai (tức Giác) nàng bèn thức dậy thật sớm, ra tay trang điểm trau dồi cho Khương thị. Người ta vào thấy xinh đẹp gấp bội. Cách ba bốn ngày biến đổi rõ ràng là một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân dịp mình không có con, ý muốn mua một cô hầu cho chồng, nhưng bấy lâu chưa rảnh mà tính chuyện ấy, nay thấy nàng có tài biến xấu ra đẹp như thế, bèn hỏi nàng trong đám thị tì, chẳng biết có thể nào tô điểm biến hóa được không? Nàng nói:
- Bất cứ ai cũng có thể biến hóa được. Duy có kẻ nào sẳn sàng chất tốt, thì đỡ tốn công phu thế thôi.
Đoạn, nàng xem tướng khắp mặt con hầu trong nhà, có một đứa vừa đen vừa xấu nàng bảo có tướng sinh con trai. Liền đó nàng gọi nó đi tắm rửa xong, tự lấy phấn trộn với thuốc bột mà thoa khắp cơ thể cho nó. Làm vậy ba bốn bữa, sắc mặt lần lần biến vàng. Sau hơn hai mươi tám ngày thì dầu mỡ thấm nhuần da thịt, thành ra con người dễ coi.
Ngày ngày nàng chỉ đóng cửa làm trò vui cười, tuyệt nhiên chẳng hề kể gì tai nạn binh hỏa rầm rộ bên ngoài.
Một đêm, tiếng kêu ồn ào tứ phía, cả nhà sợ quýnh. Giây lát, ngoài cửa dậy tiếng người la ngựa hí, kéo đi nầm nập. Sáng ra mới biết hồi khuya cả xóm bị cướp đốt phá gần hết, bọn cướp lục soát khắp nơi, những người ẩn núp hang núi đều bị giết chóc. Bấy giờ cả nhà mới cám ơn nàng, coi nàng như thần. Bỗng dưng nàng nói với chị dâu:
- Em đến đây chuyến này chỉ vì cám ơn nghĩa của chị không thể quên được cho nên cùng chị chia sẻ cảnh buồn loạn ly. Anh sắp về tới nơi chị ạ! Em còn ở đây nghĩ cũng kỳ, khác nào tục ngữ thường nói: “Chẳng ra môn khoai gì cả”, âu thật buồn cười.Thôi em phải đi, chừng nào rảnh sẽ ghé thăm chị.
Chị dâu hỏi tin tức người dađg đi đường có bình yên mạnh giỏi không. Nàng đáp:
- Giữa đường có nạn lớn nhưng chuyện này không dự chi đến người ta. Chị Tần mang ơn nhiều, tất là nhân dịp báo đáp, vậy thì gặp nạn cũng chẳng hề chi.
Chị dâu cố giữ ngủ lại một đêm nữa, trời chưa sáng rõ thì nàng đã đi rồi.
Nói về Cam Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà giặc giã, cố đi ngày đêm để về cho mau. Giữa đường gặp giặc, hai thầy trò phải bỏ cả ngựa, gói ghém tiền nong cột vào bụng lén núp trong bụi gai góc. Một con Tần Các Liễu (tên riêng của loài chim anh vũ) bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che đậy. Ngọc nhìn cái cẳng thấy khuyết một ngón, trong bụng lấy làm lạ. Giây lát bọn giặc xúm quanh tứ phía tìm tòi khắp các bờ bụi, Ngọc và tên tùy bộ nín hơi, không dám thở mạnh.
Giặc lục soát không thấy gì, bỏ đi tứ tán, bấy giờ chim mới bay đi.
Về nhà, vợ chồng cùng thuật cho nhau ngh những chuyện đã thấy, lúc đó Ngọc mới biết Tần Các Liễu tức là mỹ nhân mình cứu mạng năm xưa.
Sau, hễ khi nào Ngọc đi chơi lâu không về, đêm ấy A Anh tất ghé về nhà, nhắm chừng Ngọc gần về thì nàng đi. Giác gặp lại nàng tại nhà chị dâu, lần nào cũng mời thỉnh đến nhà mình chơi, nàng ừ nhưng không đến bao giờ.
Một đêm, Ngọc đi chơi, Giác định chừng A Anh sẽ đến, bèn núp một nơi để chờ. Một lúc quả nàng có tới, Giác xông ra đón đường, lôi kéo về nhà mình kỳ được mới nghe. Nàng nói:
- Tôi với cậu tình duyên đã hết rồi, nếu cố sum họp e bị trời ghen ghét, vậy ta nên lưu chút tình đó để thỉnh thoảng gặp nhau thì hơn.
Giác không nghe, cứ việc ôm ấp nàng, rồi giao hoan.
Trời sáng, đến nhà chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói:
- Em đi nửa đường, bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải mong đợi, thật em có lỗi muôn vàn.
Nàng nói chuyện dăm ba câu rồi đi ra. Một luc sau, con mèo lớn trong nhà ngậm chim anh vũ đi qua trước cửa buồng ngủ, chị dâu nghi là A Anh, sửa soạn đi tắm mà phải bỏ tắm, kêu người nhà đổ ra bắt con mèo mà lấy chim anh vũ lại. Cánh bên tả rướm máu, hơi thở thoi thóp, chị dâu đặt lên đầu gối vuốt ve khá lâu, chim mới hồi tỉnh, tự lấy mỏ rỉa lại lông cánh, giây lát bay quanh trong nhà miệng nói:
- Xin chào chị ở lại, em đi. Em oán cậu Giác lắm.
Đoạn vỗ cánh bay thẳng.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Bà chúa Tây Hồ
(Tây Hồ chúa)





Trần Bật Giáo, tự Minh Doãn, người đất Yên, vì cảnh nhà nghèo, đi theo phó tướng quân Giả Gián, làm chân thư kí.
Nhân có việc, đậu thuyền trên hồ Động Đình, chợt thấy một con thuồng luồng nổi lên mặt nước, Giả tướng quân lấy cung tên bắn trúng lưng nó. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không bỏ, thành ra bắt được cả đôi, kéo lên mạn thuyền, chỉ còn hơi thở thoi thóp. Thuồng luồng há miệng ngáp hoài, dường như kêu cứu. Trần sinh trông thấy động lòng, xin phép Giả tướng quân cho thả nó đi, sẵn trong túi có thuốc trị thương tích, chàng đùa xoa vào vết thương của nó rồi thả xuống hồ. Nó lặn hụp giây lâu rồi đi thẳng.
Hơn một năm sau, chàng nghỉ việc về bắc, lại qua hồ Động Đình, bị gió bão lớn đánh ghe lật chìm, may phúc chàng ôm được một cái phên tre, lênh đênh cả đêm mới dạt vào bờ. Khi lên rồi ngó lại thấy một cái xác cũng theo chân dạt vô. Thì ra xác tên tiểu đồng theo hầu mình. Chàng cố kéo lên bờ, nó đã chết cứng. Chàng trong lòng đau đớn rầu buồn, ngồi trơ trọi trước thây ma. Dòm quanh chỉ thấy núi non lởm chởm, hàng liễu xanh xanh, chẳng có bóng người nào lại qua hòng thăm hỏi đường sá.
Từ sáng sớm đến quá giờ thìn, buồn bực muốn chết. Bỗng dưng xác tiểu đồng cựa quậy, chàng mừng quá rờ xem, giây lát nó ộc nước ra cả thùng, rồi thì sống dậy.
Thầy trò cởi hết áo quần phơi trên mặt đá, gần trưa mới khô ráo, mặc vào mình được, tới phiên bụng đói như cào, không sao chịu nổi. Bấy giờ dắt nhau băng núi mà đi, mong gặp xóm làng để xin ăn đỡ dạ.
Mới bò lưng chừng núi, nghe tiếng rung reng, đang dáo dác suy nghĩ, thấy hai cô thiếu nữ cưỡi ngựa từ đầu kia đi tới, rong ruổi như bay. Cô nào cũng khăn lụa bịt trán, tóc cắm lông trĩ, mình vận áo tím chẽn tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua phía nam núi, có mấy chục người ngựa đang săn trong đám cỏ tranh, đều là mĩ nữ, trang sức như nhau.
Chàng không dám bước tới, chừng thấy một người đàn ông đi bộ, trông như lính chăn ngựa mới lần đến hỏi thăm.
Người lính đáp:
- Ngài là bà chúa Tây Hồ, lên Thủ Sơn săn bắn đó.
Chàng kể lai lịch của mình và kêu đói bụng. Người lính đưa cho gói cơm khô và căn dặn:
- Chú nên tìm đường tránh xa, nếu để chúa trông thấy thì chết mất xác đó!
Nghe nói sợ quá, chàng lật đật xuống núi, thấy trong rừng rậm có bóng lâu đài, ý chừng là cảnh chùa, liền nhắm hướng đó đi lần tới. Đến nơi, thấy vách tường sơn trắng, suối nước chảy qua, cửa sơn nửa khép, có cầu đá đi vào. Chàng dòm qua cửa, thấy bên trong san sát những lầu, những gác, như cảnh thượng uyển nhà vua, trong ý tưởng chắc là vườn của một nhà sang trọng nào đó, bèn lần mò vào. Hai bên đường đi, giàn hoa vắt ngang, hương thơm nức mũi. Qua mấy ngả quanh co, vào tới một toà lâu đài khác, mấy chục cây dương liễu thành hàng cao đụng mái nhà, chim núi hát ríu rít thì hoa càng bay, cơn gió thổi phe phẩy thì lá cây tự rụng, thật là cảnh sắc đẹp mắt khoái tâm, chẳng phải cõi trần. Đi xuyên qua một lớp tiểu đình, thấy một giá đu, cao vút mây xanh, lúc đó tứ bề lặng lẽ, không có bóng người nào. Chàng nghĩ gần chốn khuê các, cho nên nhút nhát không dám vào nữa.
Bỗng nghe tiếng ngựa hí cổng ngoài, với tiếng con gái cười nói, chàng với tiểu đồng cùng nép mình nằm phục trong đám cây hoa. Một lát, tiếng cười tiến đến gần, nghe một cô nói:
- Bữa nay đi săn không vui, bắt được muông chim rất ít.
Một cô khác nói:
- Nếu công chúa không bắn rơi một con nhạn hôm nay, thì ra cuộc săn tốn công vô ích.
Liền đó, mấy người thị nữ áo đỏ nâng đỡ một vị thiếu nữ đến ngồi trong tiểu đình. Nàng mặc nhung phục, tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc mướt mình thon, vẻ đẹp hoa ngọc nhị quỳnh cũng không bì kịp. Bọn gái hầu dâng trà thơm và đốt trầm hương, khói cuộn long lanh như gấm dệt. Giây lát, nàng đứng dậy bước xuống dưới thềm, một cô gái hầu nói:
- Công chúa cưỡi ngựa nhọc mệt, giờ có thể chơi đu được chăng?
Nàng cười và gật đầu. Bọn gái hầu liền xúm lại, kẻ đỡ vai, người nâng cẳng, lại có đứa xắn quần, cầm giày, đặt công chúa lên bàn đu. Công chúa đưa hai cánh tay nõn nà, nắm lấy dây đu, chân thì nhún nhảy trên bàn đạp, nhẹ nhàng như chim én bay liệng trên mây.
Công chúa đánh đu một lúc, bọn hầu lại đỡ xuống và nói:
- Công chúa thật là nàng tiên!
Thầy trò cùng nói cười vui vẻ, kéo nhau trở về cung.
Traâg lang hé mắt dòm từ đầu tới cuối, hồn phách tê mê. Chừng tiếng người im lặng đâu đó, chàng mới thò mặt ra, đến dưới cây đu, bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy dưới giàn có chiếc khăn đỏ, biết của các cô mĩ nữ bỏ rơi, liền lượm bỏ vào túi, rồi bước lên tiểu đình ngắm cảnh chơi. Trông thấy trên bàn sẵn có bút mực, chàng bèn lấy khăn ra, đề lên một bài thơ tức cảnh:
Người đâu tiên nữ nhởn nhơ chơi
Tung búp sen vàng rải khắp nơi
Đố chị Hằng Nga khỏi ganh ghét
Mây xanh nhẹ gót thẳng lên trời.
Đề xong, ngâm nga đắc ý rồi ra đi, tìm lại đường cũ thì mấy lớp cửa đóng then gài cả rồi. Chàng quanh quẩn không biết tính sao, quay lại dạo xem lầu nọ đài kia gần khắp lượt. Một thị nữ chợt đến, sửng sốt hỏi chàng tại sao lọt vào chốn này. Chàng vái chào nói:
- Tôi đi lạc đường, xin cô cứu cho.
- Anh có lượm được chiếc khăn đỏ nào không?
- Thưa có, nhưng đã viết chữ vào rồi làm sao?
Nói rồi lấy đưa cho nàng xem. Nàng cả kinh nói:
- Thôi, anh chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, giờ vẽ bậy vào rồi, biết nói làm sao!
Chàng tái xanh mặt, năn nỉ xin lỗi. Nàng lắc đầu:
- Vào chốn cung cấm dòm dỏ, tội đã không tha thứ được rồi. Tôi nghĩ anh là học trò nho nhã, muốn lấy sự tử tế riêng mà bênh vực chu toàn giùm anh, nhưng đằng này anh lại tự gây ra tai vạ đến như vậy, thì tôi hết lối.
Nói xong vội vàng cầm khăn chạy đi.
Chàng run sợ hồi hộp, tức mình không có cánh mà bay, chỉ còn có cách vươn cổ đợi chết. Một chặp sau, người thị nữ lúc nãy trở lại, nói nhỏ với chàng:
- May ra anh khỏi chết đấy. Công chúa cầm khăn xem đi xem lại ba bốn lần, mặt không có vẻ gì tức giận, có lẽ sẽ tha cho anh đi. Thôi, chịu khó ngồi đợi ở đây, chớ có tò mò leo cây trèo tường mà dòm ngó gì, nếu bị phát giác thì không tha được đâu.
Trời đã xế chiều, việc lành dữ ra sao chưa nhất định, mà bụng đói như thiêu như đốt muốn chết. Một lát, thị nữ cầm đèn đi tới, một cô khác thì xách giỏ cơm bầu rượu đem ra cho chàng ăn. Chàng săn đón dò hỏi tin tức, nàng nói:
- Vừa rồi tôi thừa dịp nói với công chúa liệu định có thả anh học trò trong vườn thì thả cho ra đi, không thì đói bụng chết. Công chúa ngẫm nghĩ rồi bảo trời tối rồi, đuổi người ta đi đâu bây giờ? Rồi công chúa dạy đem cơm ra cho ăn, thế tức không phải là điềm dữ đâu!
Chàng băn khoăn lo lắng suốt đêm, không sao yên tâm cho đặng. Qua hết giờ thìn, thị nữ lại xách cơm ra cho ăn. Chàng năn nỉ nói giùm. Nàng đáp:
- Công chúa không bảo giết, cũng chẳng bảo tha. Tôi là kẻ dưới đâu dám nhắc nhở lôi thôi.
Cho tới mặt trời xế bóng, chàng mong đợi mãi không thấy gì, bỗng thấy thị nữ hơ hải chạy đến, nói không ra hơi:
- Thôi chết đến nơi rồi. Kẻ nào nhiều chuyện không biết, đi nói lộ ra cho vương phi hay. Vương phi đòi lấy chiếc khăn xem rồi quăng xuống đất, la mắng ngông cuồng rầm rĩ. Vậy e tai vạ của anh không còn xa nữa.
Chàng nghe hết hồn hết vía, mặt nhợt ra không còn sắc máu, quỳ mọp dưới đất, van lơn cầu cứu.
Chợt nghe tiếng người xôn xao đến gần, nàng vội lảng đi chỗ khác. Mấy người vác hèo cầm dây, hầm hầm bước vào định trói chàng giải đi. Trong đám có một thị nữ nhìn kĩ chàng rồi la thất thanh:
- Tưởng ai, té ra Trần lang đây mà!
Nàng nói và ngăn bảo đừng trói:
- Khoan đã! Khoan đã! Đợi tôi tâu với vương phi xem sao.
Nàng lật đật chạy đi giây lát, trở lại nói rất lễ phép:
- Vương phi xin mời Trần lang vào.
Chàng run sợ đi theo, qua mấy chục lần cửa, đến toà cung điện, ngoài treo rèm ngọc móc vàng, liền có mĩ nữ cuốn rèm lên và xướng tâu:
- Trần lang vào chầu.
Một thiếu phụ ngồi trên, bào phục cực kì lộng lẫy. Chàng cúi đầu mọp mình nói:
- Thần là người ở xa xôi tới đây, rủi lạc vào chốn tôn nghiêm, muôn đội ơn trên tha thứ.
Vương phi vội vàng đứng dậy, tự đỡ tay chàng và nói:
- Nếu không nhờ có tiên sinh, thì tôi đâu còn tới ngày hôm nay. Bọn tôi tớ chẳng rõ nguồn cơn, đến nỗi thất lễ với quý khách, lỗi đó lấy gì chuộc đặng.
Lập tức sai dọn tiệc hoa, rót rượu bằng chén ngọc, ân cần thết đãi. Chàng mờ mịt chả hiểu duyên cớ ra sao. Vương phi nói:
- Đại ơn tái tạo, bấy lâu chưa được báo đền, lòng hằng cắn rứt. Con gái tôi được chàng đề thơ vào khăn, âu hẳn là duyên trời tác hợp. Vậy ngay đêm nay, tôi cho làm lễ thành hôn.
Chàng đã khỏi chết, lại sắp có vợ đẹp, thật là sự mừng ra ngoài tưởng tượng, tinh thần lúc bấy giờ vui sướng ngây ngất, không tả ra được.
Trời mới tối, một thị nữ đến bẩm:
- Thưa phò mã, công chúa đã sửa soạn xong rồi, xin mời ngài đi hành lễ.
Rồi dẫn chàng lên điện, tức thời đàn sáo trỗi lên inh ỏi, khắp nơi kết hoa treo đèn, mấy chục tiên cô phò công chúa cùng chàng làm lễ giao bái. Mùi thơm xạ hương sực nức trong ngoài.
Đoạn tân nương tân lang dắt nhau về buồng riêng, tình tự ân ái. Chàng hỏi công chúa:
- Tôi là người trôi nổi tha phương, thuở giờ chưa được hân hạnh bái yết, đã phạm tội bôi lọ vào chiếc khăn quý báu, được khỏi rìu búa là may rồi, ai còn gá nghĩa nhân duyên. Thật là cái phúc tôi không dám tưởng đến.
Công chúa nói:
- Mẹ em là vương phi của đức vua hồ này và là con gái Giang Dương Vương, năm ngoái về thăm nhà, ngẫu nhiên dạo chơi trong hồ, bị mũi tên bắn trúng. Nhờ có chàng cứu mà được thoát nạn, lại xức thuốc cho vết thương được lành, cả nhà em cảm bội, canh cánh bên lòng chẳng quên. Chàng đừng cho em là phi loại mà nghi ngại điều chi. Em theo Long Quân, đã được bí quyết trường sinh, nguyện cùng chàng hưởng chung cái thú muôn đời bất tử.
Bấy giờ chàng mới biết ra công chúa là thần. Lại hỏi trong đám gái hầu, sao có một đứa lại nhận được mặt, công chúa đáp:
- Hôm đó chàng ngồi trên thuyền ở hồ Động Đình, hẳn trông thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng bị thương mà không rời bỏ, tức là con hầu ấy.
Chàng tỉ tê hỏi nữa:
- Hôm bắt được tôi trong vườn, đã không giết chết, sao lại chần chừ không chịu thả đi?
Công chúa cười và nói:
- Em đọc bài thơ, trong bụng thật là yêu mến cái tài của chàng, nhưng không có quyền tự chủ, thành ra băn khoăn tơ tưởng cả đêm, nỗi khổ ấy có ai hiểu thấu cho mình?
Chàng tha thiết:
- Nàng thật là Bão Thúc của tôi đó! À, còn thị nữ vẫn đem cơm cho tôi là ai?
- Nó tên là A Niệm, người tâm phúc của em.
- Vậy tôi phải đền ơn nó cách nào bây giờ?
- Đừng lo, sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, chừng đó hãy lo đền ơn cũng không muộn mà.
- Còn đại vương thân phụ em, hiện nay ở đâu?
- Ngài đi theo Hoàng Đế đánh giặc Xuy Vưu chưa về.
Vợ chồng ăn ở với nhau mấy hôm, chàng nghĩ ở nhà mình mất bặt tin tức, chắc là trông mong dữ lắm, bèn viết thư báo tin bình yên, sai thằng tiểu đồng về trước, cho gia nhân yên lòng.
Chẳng dè mấy ngày thần tiên là hàng năm cõi trần. Nhà chàng từ hôm nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con sô gai để tang đã hơn một năm rồi. Tiểu đồng đem thư về, mới hay tin chàng còn sống. Nhưng âm hao cách trở, người nhà e chàng vui sống cuộc đời trôi nổi, trước sau khó nỗi trở về quê nhà.
Cách nửa năm sau, thình lình chàng về, ngựa xe cực sang, trong túi đầy nhóc vàng ròng ngọc báu. Từ đó trở nên nhà giàu hàng vạn, tối ngày đàn ngọt hát hay, rượu ngon gái đẹp, tiêu xài hết sức hào phóng, dù những nhà giàu sang mấy đời cũng không theo kịp.
Luôn bảy tám năm, chàng ở nhà với vợ, sinh hạ năm con, mà ngày nào cũng như ngày nấy, tụ họp bạn bè khách khứa ăn uống, cung phụng cực sang. Có người hỏi gặp gỡ món nào mà sẵn tiền lắm của như thế, chàng nói thật cả, không giấu giếm chút nào.
Có người bạn chơi từ nhỏ, tên là Lương Tú Tuân, đi làm quan ở miền nam hơn mười năm mới về, qua hồ Động Đình, trông thấy một chiếc du thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng trông cực đẹp, bên trong có tiếng đàn hát thanh tao, dập dờn trên mặt sóng hồ, thỉnh thoảng lại thấy mĩ nhân mở hé cửa sổ đứng ngắm phong cảnh.
Lương dòm kĩ trong thuyền, thấy một người đàn ông thiếu niên, dựa đầu gác vế mĩ nhân, bên cạnh có hai cô son trẻ chừng đôi tám, thay phiên nhau hầu hạ đấm bóp. Ban đầu, Lương nghĩ chắc là một vị quan lớn nào đó ở miền Tương Sở, nhưng lấy làm lạ sao chẳng có người hầu lính gác nào cả. Chừng nhướng mắt nhìn kĩ, té ra bạn cũ Trần Minh Doãn, liền đứng ra mạn thuyền kêu gọi rùm lên.
Chàng nghe tiếng kêu, bèn sai dừng chèo, ra trước mũi thuyền, mời Lương qua chơi.
Lương qua, trông thấy những món ăn thừa, la liệt trên bàn, mùi rượu hãy còn sực nức. Trần sai dẹp hết để dọn tiệc khác.
Giây lát, năm ba nàng hầu xinh đẹp, tíu tít châm trà rót rượu, các món sơn hào hải vị bày ra ê hề, toàn là thứ lạ, thuở nay mắt Lương chưa thấy bao giờ. Lương kinh hoảng hỏi bạn:
- Cách biệt mười năm không gặp nhau, sao anh phú quý đến thế này ư?
Chàng cười đáp:
- Anh khinh thằng khố dây này không thể mở mặt với đời hay sao?
Lương hỏi:
- Ban nãy có người đàn bà cùng ngồi uống rượu là ai?
Chàng đáp:
- Mẹ trẻ nhà tôi đó.
Lương càng lấy làm lạ, hỏi chàng đem cả gia quyến đi đâu đấy.
Chàng nói:
- Đi về miền tây.
Lương còn muốn hỏi nhiều chuyện nữa, nhưng chàng vội sai lũ ca nhi trỗi giọng đàn hát vang rền, làm như sấm đánh ù tai, rồi thì đũa chén và trúc tơ xen hoà ồn ào, che lấp cả những tiếng nói cười, không nghe được nữa.
Thấy gái đẹp nhởn nhơ trước mắt đông đầy, Lương thừa lúc ngà ngà say, cất tiếng nói lớn:
- Anh Minh Doãn có cho thằng bạn cũ này được hưởng thú bay hồn không nào?
Chàng cười xoà nói:
- Bạn say lắm rồi. Tuy nhiên tôi có thể tặng cho cố nhân để cưới một cô hầu cực đẹp nhé!
Nói đoạn, liền sai thị nữ lấy ra một trái minh châu sáng ngời để tặng Lương và nói:
- Với của này, anh có thể cưới một mĩ nhân tuyệt thế, như hàng con Lục Châu của Thạch Sùng ngày xưa cũng không khó gì. Như vậy để tỏ ra tôi không keo cú với bạn cũ từ ngày còn để chỏm với nhau.
Kế lại nói tiếp, ngỏ ý kiếu từ:
- Hiện tôi có việc cần kíp, rất tiếc không thể cùng bạn ngồi đối diện đàm tâm được lâu hơn nữa.
Liền đó tiễn Lương về thuyền, rồi hô thuỷ thủ thuyền mình mở dây đi thẳng.
Lương về, ghé thăm nhà Trần, thì ra chàng đang ngồi ngất ngưởng uống rượu với khách, trong bụng càng lấy làm lạ, liền hỏi:
- Vừa mới hôm kia gặp anh trên hồ Động Đình, về đây hồi nào mà nhanh quá vậy?
Chàng nói:
- Đâu có chuyện ấy. Tôi vẫn ở nhà mà!
Lương bèn thuật rõ mọi sự đã thấy, khiến cho mọi người cùng lắc đầu lè lưỡi, cho là một chuyện quái lạ.
- Anh trông gà hoá cuốc hay sao chớ! Nói vậy thì ra tôi có phép thuật phân thân ở hai nơi được ư?
Ai nấy cũng lấy làm lạ, nhưng nghĩ mãi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao.
Về sau, chàng thọ tới tám mươi mốt tuổi mới mất. Khi liệm thi thể, gắn kĩ rồi mà thấy hòm nhẹ như không, mở ra xem thì quan tài trống rỗng.




Đào Trinh Nhất dịch
Liêu Trai Chí Dị
Chuyện Ở Đảo Thần Tiên
( Phấn Điệp)



Dương Viết Đán là sĩ nhân đất Quỳnh Châu. Dịp ấy chàng ta từ một quận khác trở về nhà, đi thuyền qua biển. Chẳng may gặp gió bão, thuyền sắp đắm, chàng vội nhảy sang một chiếc thuyền không vừa dạt tới. Nhìn lại, thuyền cũ đã đắm, mọi người trên ấy không thoát một ai.
Gió nổi càng dữ, chàng cứ nhắm mắt mặc cho muốn đến đâu thì đến. Khi trời lặng, mở mắt ra đã thấy một hòn đảo, nhà cửa san sát. Chèo thuyền vào bờ, đi thẳng đến cổng làng, trong làng không có tiếng chó sủa, gà kêu. Chung quanh một tòa nhà cổng quay hướng bắc, bóng tùng trúc ẩn hiện dưới sương mơ, trong tường vây không biết là cây gì mà nụ hoa chúm chím đầy cành mặc dù tiết đã bắt đầu đông.
Trước cảnh ngoạn mục ấy, lòng Dương đã thấy vui vui, liền quanh quẩn tìm vào. Trong nhà chợt có tiếng đàn văng vẳng. Dương ngập ngừng bước. Một cô hầu khoảng chừng mười bốn mười lăm, xinh xắn tươi đẹp, từ trong đi ra, vừa trông thấy Dương quay ngoắt vào. Tiếng đàn trong nhà ngừng bặt. Một chàng trai trẻ bước ra, hỏi khách từ đâu tới. Dương thuật lại từ đầu. Hỏi họ tên quê quán, Dương kể rõ ngọn ngành. Chàng trai sửng sốt:
- Hóa ra khách là người thân của vợ tôi.
Rồi vội thi lễ, dẫn khách vào nhà. Trong nhà trần thiết rất mực tinh tế, hoa lệ, tiếng đàn thánh thót ngân vang. Một cô gái trẻ chỉ khoảng mười tám mười chín, dáng vẻ lộng lẫy đang ngồi gảy đàn, thấy khách vào buông đàn định đi. Chàng trai giữ lại:
- Đừng vội, khách đây có họ với mình đấy!
Rồi kể tung tích khách. Thiếu phụ mừng rỡ:
- Thế là cháu tôi đó!
Rồi hỏi luôn:
- Bà cháu còn khỏe không? Cha mẹ cháu bao nhiêu tuổi rồi?
Dương thưa:
- Cha mẹ cháu đều ngoài bốn mươi, khỏe mạnh cả. Bà cháu đã sáu mươi, ốm yếu lắm, một bước cũng phải có người dìu. Cháu thực chưa biết cô thứ bậc thế nào trong gia tộc, xin cho được biết để khi về thuật lại.
- Đường xa cách trở, tin tức không thông đã lâu rồi. Cháu về thưa với cha: Cô Mười hỏi thăm, tự khắc cha cháu biết.
Dương lại hỏi:
- Thưa, dượng họ gì?
Người đàn ông đáp:
- Họ Ân, tên Hải Dư. Nơi đây là đảo thần tiên cách Quỳnh Châu ba nghìn dặm. Tôi ở đây cũng chưa lâu đâu.
Cô Mười vào nhà trong sai sửa soạn cơm rượu thết đãi khách, có nhiều món lạ. Dương chưa hề biết. Ăn xong họ dẫn nhau ra ngắm cảnh vườn đào mận còn đangủ nụ. Dương ngỡ ngàng, Ân giải thích:
- Ở đây mùa hè không nắng nhiều, mùa đông không rét lắm, hoa nở liên tiếp bốn mùa.
Dương hí hửng:
- Thế thật là cảnh tiên. Cháu về thưa với cha mẹ chuyển nhà đến đây ở với cô dượng.
Ân chỉ mỉm cười.
Khi trở vào thư phòng, Dương thấy có cây đàn đặt ngay giá sách, có ý xin được nghe. Ân liền nắn cần, so dây gọi cô Mười từ trong nhà đi ra:
- Lại đây! Lại đây! Mình gảy cho cháu nghe một khúc.
Cô Mười ngồi xuống hỏi cháu:
- Cháu muốn nghe bản nào?
Dương thưa:
- Cháu chưa từng đọc về sách đàn, cho nên không biết thế nào mà nói.
- Thế cháu cứ nêu đề tài ra, cô đều có thể ngẫu hứng gảy thành điệu, thành bản.
- Thưa, gió chuyển bạt thuyền, có thể thành một khúc được không?
- Được chứ!
Rồi nâng đàn, bật dây, âm thanh cứ theo ý mà thành điệu khoan nhặt, bổng trầm, thành thục y như theo một bài bản sẳn có. Dương lắng nghe mà cảm thấy mình như đang lênh đênh trên thuyền, sóng gió cuồn cuộn hất lên dội xuống. Dương vừa kính vừa phục, khen nức khen nở, hỏi cô:
- Thưa, có học được không?
Cô Mười trao đàn cho cháu sai gảy thử và bảo:
- Cháu có thể học được. Thíc học gì?
- Cô dạy cho cháu bản “gió bão” vừa rồi, không biết mấy ngày thì có thể thuộc. Xin cô viết ra trước cho cháu đọc đã.
- Không thể viết thành văn được đâu. Cô chỉ theo ý mà phổ đàn thôi.
Rồi cô lấy một cây đản khác, gảy trước một đoạn làm mẫu, bảo Dương tập theo. Tập được hơn một trống canh, tiếng đàn của Dương đã hợp làn điệu tuy còn thô vụng, thì cô và dượng tạm biệt đi nghỉ. Dương còn ngồi lại tập trung tinh thần tập gảy dưới đèn khá lâu, đột nhiên bừng hiểu, bất giác hứng khởi đứng lên múa. Bất chợt ngẩng đầu, Dương thấy cô hầu gái vẫn đang đứng đó, Dương sửng sốt hỏi:
- Cô vẫn còn đây vẫn chưa đi nghỉ ư?
Cô ta cười nhoẻn:
- Cô Mười sai em thu xếp giường chiếu chu đáo để chàng yên nghỉ. Lại còn phải đóng cửa tắt đèn.
Dương ngước nhìn kỹ cô ta: đôi mắt long lanh như làn thu thủy, dáng vẻ tình ý rất mực dể thương. Dương bồi hồi cả thần hồn, ỡm ờ kêu gọi. Cô lặng lẽ cúi đầu, làn môi mủm mỉm. Dương càng mê mẩn đứng vụt dậy bá lấy cổ.
Cô ta ngăn lại:
- Chớ! Chớ! Đêm đã canh tư rồi, chủ nhân sắp dậy. Đây đấy nếu có lòng nào, đêm mai chưa muộn.
Dương đang ôm cô ta, chợt có tiếng dượng Ân gọi:
- Phấn Điệp!
Cô gái thất sắc:
- Chết rồi!
Rồi vội vã bỏ đi. Dương lẻn theo nghe ngóng. Tiếng dượng Ân:
- Tôi đã bảo con bé này chưa dứt được trần duyên thế mà mình cứ nhất định thu nhận. Nay làm thế nào? Phải đánh đòn ba trăm roi.
Tiếng cô Mười:
- Cái tâm địa ấy mà nãy nòi thì không thể ngăn giũ được. chi bằng cho phắt thằng cháu tôi cho rồi.
Dương nghe vậy vừa thẹn vừa sợ quay lại thư phòng, tắt phục đèn đi ngủ. Sáng trở dậy chỉ có thằng nhỏ đến lấy nước rửa mặt, không thấy Phấn Điệp đâu. Trong bụng Dương cứ nơm nớp lo sợ sị quở trách. Lát sau dượng Ân và cô Mười cùng tới, tựa hồ như không có chuyện gì xảy ra, chỉ khảo ngón đàn Dương mới học. Dương gảy lại, cô Mười khen:
- Tuy chưa đạt đến chỗ thần diệu song đã được chín mười phần. Cố tập cho thuần thục thì tuyệt đấy.
Dương xin dạy cho khúc khác. Ân truyền cho khúc Thiên Nữ trích giáng (tiên nữ bị đày xuống phàm trần) trong đó còn đòi hỏi các kỹ xảo ngón tay như “bẻ” “cắt”. Dương tập ba ngày, gảy mới rõ tiếng. Ân bảo:
- Những khó khăn đại khái đã qua. Nay về sau chỉ cần sao cho thành thục. Nếu thuộc được hai khúc này, trong kỹ thuật đàm cầm không còn điệu nào đáng ngại nữa.
Đước ít ngày, Dương nhớ nhà, thưa với cô Mười:
- Cháu ở đây được cô săn sóc dạy dỗ rất vui, chỉ hiềm canh cánh nỗi tha hương. Đường sá xa xôi cách trở ba ngàn dặm, không biết ngày nào cháu mới về được đến nhà.
Cô Mười bảo:
- Điều đó chẳng có gì khó. Thuyền cũ của cháu còn đó, chỉ cần giúp cháu một buồm gió. Cháu không còn gia thất, cô sẽ cho Phấn Điệp.
Rồi cô tặng Dương một cây đàn, đưa một bọc thuốc mà dặn:
- Cháu đem thuốc về biếu bà, thuốc này không chỉ chữa bệnh mà còn kéo dài tuổi thọ.
Đoạn cô tiễn Dương ra bờ biển. Dương tìm mái chèo, cô bảo:
- Không cần đến đâu!
Rồi ghép quần của mình lại thành buồm, đem mắc buộc vào thuyền. Dương sợ không biết hướng đi, lạc nẻo. Cô nhủ:
- Đừng lo! Đã có buồm đưa lối, cứ theo nó.
Buộc xong, Dương xuống thuyền. Đang buồn rầu, định bái biệt cô thì gió nồm thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ. Trong thuyền có sẳn lương khô, song số lương thực chỉ ăn đủ khoảng một ngày, bụng Dương oán cô sao hà tiện? Bụng đói nhưng chàng không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Song khi ăn một cái bánh nướng ấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái nữa cất đi dành bữa sau thì lạ thay không thấy đói.
Bóng chiều đã ngả. Đang hối không mang theo đèn đuốc thì chỉ nháy mắt sau đã thấy khói bếp đất liền. Thì ra thuyền đã tới đất Quỳnh rồi. Thuyền cập bờ, Dương mừng quýnh, thu quần áo bọc bánh về nhà.
Vào đến cửa cả nhà sửng sốt vừa sợ vừa mừng. Thì ra chàng ta đã vắng nhà mười lăm năm trường và mới biết vừa qua đã gặp tiên. Bà nội Dương bệnh đã kịch, chàng đưa thuốc cô Mười ra cho uống, mọi chứng bệnh tật khắc tiêu tan. Chàng kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Bà cụ mới bảo:
- Đó là cô ruột cháu đấy!
Xưa bà có người con gái út tên là cô Mười, sinh ra đã có dáng vẻ tiên nữ. Gia đình hứa gả cho họ Ân. Chú rể mới mười tuổi vào núi không thấy trở về. Cô Mười đợi đến hai mươi tuổi, bỗng nhiên không đau ốm gì mà mất, chôn cất đến nay tính ra đã hơn ba chục năm rồi.
Khi nghe Dương kể lại chuyện ở đảo thần tiên, mọi người đều ngờ là cô Mười chưa chết. Dương đưa cái quần dùng làm buồm ra thì đúng là cái mà trước đây cô vẫn hay thường mặc. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một chiếc thôi mà cả ngày không thấy đói, lại có cảm thấy tinh thần phấn chấn gấp bội. Người nhà đào mả cô Mười lên coi thử thì chỉ còn quan tài không.
Trước đây Dương đã lấy người vợ họ Ngô, song hơn chục năm đi vắng, chị ta đã đi lấy chồng khác. Lúc ấy Dương mới tin lòi cô Mười và có ý mong Phấn Điệp. Song đã hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, lúc ấy chàng mới đi tìm đám khác. Ở huyện Lam có ông tú tài họ Tiền có con gái là Hà Sinh nổi tiếng gần xa là đẹp, mới mười sáu tuổi mà ba chàng rể chưa cưới đã chết. Dương nhờ mối lái đính hôn, chọn ngày lễ. Khi cô dâu về nhà chồng, Dương nhìn kỹ thì đúng cô dâu mới là Phấn Điệp. Dương hỏi đến chuyện cũ ngoài đảo Thần Tiên, cô ta cứ mơ mơ hồ hồ. Thì ra khi cô ta bị đuổi, chính là lúc cô ta giáng sinh đầu thai vào nhà họ Tiền. Chỉ lúc nghe Dương gảy đàn Thiên Nữ trích giáng thì cô ta mới chống má trầm tư tựa như có sự cảm thụ, xúc động sâu sắc vậy.



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Liêu Trai Chí Dị
Người Hóa Hổ
(Hướng Cảo)



Hướng Cảo tên chữ là Sơn Đán, người Thái Nguyên. Cảo đối với anh là Thạnh hết sức kính ái. Thạnh dan díu với một ca kỹ tên là Ba Tư. Hai bên đã cắt máu ăn thề song vì cha mẹ cô gái đòi sính lễ quá nặng nên lời ước nguyện không thành. Bà mẹ muốn rút ra khỏi sổ làng ca kỹ để hoàn lương trước hãy lo cho Ba Tư đã. Có công tử Trang vốn thích Ba Tư, đòi mua làm thiếp. Ba Tư nói với mẹ:
- Những ước mong cùng thoát nơi nước lửa, khác nào muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường. Nếu lại đâm đầu làm thiếp người ta thì khác gì như trước. Vì mẹ thuận theo chí con thì cậu Hướng là được.
Mẹ bằng lòng, ngỏ ý ấy với Thạnh. Vừa qua Thạnh có tang vẫn chưa lấy vợ cho nên được tin ấy mừng lắm, liền dốc hết của cải cưới Ba Tư. Công tử Trang tức giận Thạnh dám cả gan tránh gái yêu của mình, nhân gặp nhau trên đường liền lớn tiếng nhục mạ Thạnh. Thạnh không chịu, Trang thét người hầu vác gậy đập chết, phơi thây ra đấy rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy ra thì anh đã chết. Cảo đau thương phẫn uất khôn xiết, làm đơn kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, khắp chốn cho nên việc cứ như đáng bùn sang ao.
Cảo cứ ôm nỗi phẫn uất trong lòng không sao tố giác phơi bày ra được, nghĩ duy chỉ có cách đón đường mà giết kẻ thù. Từ đó, hàng ngày cứ thủ dao nhọn, phục ở bụi rậm trên đường núi. Lâu lâu việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy, cho nên hễ đi đâu là có phòng bị nghiêm ngặt. Hắn nghe tin ở Phần Châu có tên là Tiêu Đồng, đã gan dạ lại có tài thiện xạ, liền bỏ nhiều vàng ra đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế của mình, nhưng vẫn hàng ngày rình đón may ra có dịp nào chăng.
Một hôm Cảo phục trong bụi, bỗng mưa lớn trút xuống, trên dưới ướt dầm, rét run không chịu nổi. Rồi gió táp bốn bề dữ dội, băng tuyết tiếp đến, thân thể bỗng nhiên đau đớn tê liệt. Trên đỉnh núi có một ngôi đền thờ sơn thần, Hướng Cảo gắng gượng bò lên. Vào được đến miếu thì vị đạo sĩ quen biết vẫn còn ở đó. Nguyên trước đây đạo sĩ thường hay hành khất qua thôn, Cảo thường cho ăn, vì thế quen biết. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, ông lấy áo vải bố trao cho, bảo thay cho đỡ rét. Cảo thay xong tự nhiên thấy buộc phải phải ngồi chồm hổm như con chó. Nhìn lại mình thì lông lá đã mọc, rõ ràng hóa thành con hổ. Còn đạo sĩ thì biến đâu mất. Cảo vừa hãi vừa giận. Nhưng rồi lại nghĩ: chuyến này vồ được kẻ thù xé thịt mà ăn, như thế là kế đạt lắm rồi.
Cảo bò xuống đến nơi phục cũ, thấy thi thể mình nằm trong bụi rậm, lúc ấy mới biết mình đã chết, song chỉ sợ diều quạ riả xác, cho nên cứ loanh quanh đấy trông coi. Ngày hôm sau như trời xui đất khiến vậy. Trang đi qua đó hổ vụt ra tát hắn lộn từ trên ngựa xuống đất, ngoạn đứt đầu mà ăn. Tiêu Đồng quay trở lại bắn trúng bụng hổ, rồi xảy chân cũng chết.
Xác Cảo ở trong bụi rậm mơ màng như vừa tỉnh mộng, phải qua một đêm mới đứng lên được, thất thiểu đi bộ về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền biệt tăm đã ngờ và sợ, nay thấy về, đều mừng vả thăm hỏi. Cảo chỉ nằm, ngơ ngơ ngác ngác mà chưa thể nói gì được. Lát sau có tin Trang vị hổ vồ. Mọi người tranh nhau đến giường báo tin mừng. Lúc đó Cảo mới nói:
- Hổ là ta đó.
Bèn thuật lại đầu đuôi chuyện lạ. Do đó mà tin ấy lan truyền ra.
Con tên Trang đau đớn vì bố chết thảm thương, nghe chuyện càng sinh hằn, liền đầu đơn kiện Cảo. Quan thấy chuyện ấy quái đản lại không có cắn cứ cho nên không xét đến.
Liêu Trai Chí Dị
Vương Giả
(Vương Giả)



Tuần phủ Hồ Nam sai châu tá (quan giúp việc ở cấp châu) áp giải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường bị mưa, trời tối, cả đoàn ở độ đường, không nơi trọ, thấy một ngôi chùa cổ phía xa, tìm đến trú lại. Trời sáng nhìn đến số tiền áp giải thì đã sạch trơn không thấy đâu nữa. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng không thể quy tội cho ai. Viên châu tá phải về bẩm rõ sự tình với quan tuần. Quan tuần cho là lừa bịp nói càn, định đem xử tử. Đến khi tra hỏi những người sai dịch cùng đi ai ai cũng đều cung như thế. Quan bắt viên châu tá phải trở lại chốn cũ dò xét manh mối vụ ấy.
Đi qua một ngôi miếu, ông ta thấy một người mù, hình mạo kỳ dị, với cái bảng đề mấy chữ: “Xem đoán mọi điều sâu kín trong lòng” liền nhờ bói một quẻ. Người mù nói: “việc mất vàng phải không?”. Viên châu tá nhận đúng, rồi thuật lại mọi chuyện. Người mù đòi đem cho một cỗ kiệu, rồi bảo:
- Hãy theo ta, sau sẽ hay.
Các sai dịch cùng đi theo cả. Người mù bảo: “Đông!” tất cả theo hướng đông, bảo “Bắc” lại đi theo hướng bắc. Đi năm ngày vào một hang núi sâu, bỗng thấy có thành quách, người ở đông đúc. Vào thành đi một lát, người mù ra lệnh: “Dừng lại!”. Ông ta xuống kiệu, lấy tay chỉ hướng nam dặn:
-“Thấy cái cổng cao phía nam, có thể vào đó để hỏi”, rồi chắp tay bỏ đi.
Viên châu tá theo đúng lời chỉ bảo, quả thấy cổng cao, liền đi vào. Có một người ra, mũ mão chỉnh tề theo kiểu đời Hán, không xưng tên họ. Viên châu tá nói rõ lý do tìm đến. Người ấy bảo:
- Xin lưu lại mấy ngày, ta sẽ cùng ông đến gặp người có liên quan đến chuyện ấy.
Nói rồi dẫn viên châu tá đi theo, xếp ở một buồng riêng, cho ăn uống đầy đủ.
Nhân lúc thư thả, viên châu tá đi dạo về phía sau ngôi nhà thì thấy một cái đình trong vườn, chung quanh tùng già che bóng mặt trời, cỏ non trải phẳng như thảm. Đi theo dãy hành lang đến một cái đình cao. Lần theo từng bậc bước lên, thấy trên vách đá có treo mấy tấm da người còn đủ tai mắt mũi mồm, mùi tanh tưởi nồng nặc, bất giác mà sởn hết gai ốc. Ông ta sợ quá vội quay lại buồng ở, tự nghĩ thôi chuyến này thì xương da phải để lại nơi đất lạ, không hòng gì sống. Song lại nghĩ, tiến hay lùi đều cùng một chết, hãy cố đợi xem thế nào.
Hôm sau cái người áo mũ chỉnh tề ấy lại đến gọi đi, nói: “Hôm nay có thể gặp được”. Rồi ông ta cưỡi ngựa phóng như điên. Viên châu tá cố đi bộ theo. Một lát, đến một cửa dinh như dinh tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên tả hữu, tư thế nghiêm chỉnh. Người ấy xuống ngựa dẫn viên châu tá vào. Lại qua một cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc, ngồi quay hướng nam. Viên châu tá bước lên làm lễ bái yết. Vị vương giả hỏi:
- Nhà ngươi có phải là viên quan áp giải Hồ Nam không?
Viên châu tá thưa phải. Vị vương giả nói:
- Tiền còn đầy đủ đây. Đó là tiền mà quan Tuần nha ngươi khảng khái dâng nộp, chắc chắn là như thế.
Viên châu tá khóc, thưa lại:
- Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị gia hình. Việc bẩm bạch với quan trên lấy gì làm chứng cớ?
Vị vương giả nói:
- Điều đó không khó.
Rồi sai mang ra một cái tráp to, bảo rằng:
- Đem cái này về bảo đảm sẽ yên ổn.
Rồi ra lệnh lực sĩ đưa ra.
Viên châu tá sợ quá không dám ho he điều gì nữa, chỉ còn việc nhận tráp mà về. Đường qua núi qua sông tất cả đều khác với đường đi vào. Ra khỏi núi, người đưa đường mới quay trở lại. Vài ngày về đến Trường Sa, viên châu tá trình báo lại hết với quan Tuần. Nhưng quan càng cho là nói càn, nổi giận không cho biện bạch gì nữa, sai tả hữu mang dây ra trói. Viên châu tá vội đưa cái tráp ra. Quan Tuần mở ra xem chưa xong, mặt đã tái như chàm đổ, liền sai cởi trói và bảo:
Tiền bạc là việc nhỏ, hãy cho người lui.
Quan Tuần liền phát lệnh cho các thuộc quan phải lập tức vận chuyển bổ sung. Vài ngày sau quan ốm rồi mất.
Trước đó, quan cùng người thiếp yêu nằm ngủ, đến khi tỉnh dậy thì tóc đã bị cắt hết. Cả nha môn đều kinh sợ, không biết tại sao. Bây giờ trong tráp là mớ tóc ấy. Ngoài ra còn có thư rằng:
- “Nhà ngươi từ khi thành đạt làm quan thú quan lệnh, chức vị cực cao thì của tham ô, quà hối lộ kể sao xiết. Khoản bạc sáu muơi vạn trước đây đã nghiệp dĩ thu vào kho. Hãy nên mở rộng túi tham nộp bổ sung thêm lệ cũ. Còn viên quan áp giải không có tội, không thể xử càn. Trước đây gọt tóc người thiếp để cảnh cáo tí chút, nếu như không tuân lời dạy bảo, sớm muộn sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc đưa lại kèm đây có thể làm tin”.Sau khi quan Tuần mất, người nhà mới truyền bức thư ấy. Về sau các thuộc viên sai người đi tìm lại cái xứ kỳ lạ nọ chỉ thấy núi cao lớp lớp, vực sâu thăm thẳm, không có một con đường qua lại nào.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

VỤ ÁN TÌNH SI



Yên Chi)



Họ Biện ở Đông Xương chuyên nghề chữa bệnh cho trâu. Ông ta có con gái, tiểu tự là Liên Chi, tài sắc đủ về. Người cha yêu quý lắm muốn gả cho con nhà thanh quý, song những bậc giàu sang lại khinh là xuất thân hèn kém không xứng đáng để làm thông gia. Bởi vậy cô ta đến tuổi cập kê mà chưa có nơi có chốn.
Ở nhà đối diện có Vương thị- vợ họ Củng- tính khí lả lơi cợt nhả, là bạn trò chuyện tỉ tê trong chốn buồng the của Yên Chi. Một hôm tiễn chân Vương thị ra đến cổng, chợt thấy một chàng trai đi qua, quần áo trắng tinh, phong thái đĩnh đạc, Yên Chi đã chiều như phải ý, nét thu ba lúng liếng đôi hồi.
Chàng trai cúi đầu rảo bước đi qua. Đi đã rồi mà cô nàng còn cứ nhìn theo đăm đắm. Vương thị đóan biết ý tình mới nói chơi rằng:
- Tài sắc cô thế này mà sánh với người ấy thì không có gì đáng hận.
Cô gái ửng hồng gò má, nín thinh không nói một lời. Vương thị lại hỏi:
- Cô có biết chàng ta không?
- Không biết.
- Đó là tú tài Thu Chuẩn, con cố chử nhân họ Ngạc ở ngõ Nam. Tôi là người cùng làng nên có biết. Đàn ông trên đời này dễ không ai hòa nhã được như cậu ta. Cậu ta mặc đồ trắng vì tang vợ chưa hết. Cô vừa ý tôi sẽ nhắn lời mai mối cho.
Cô gái nín thinh. Vương thị cười quay về.
Mấy ngày sau vẫn không có âm hao gì, cô gái cho hoặc là Vương thị bận chưa đi ngay cho được, hoặc họ dòng dõi nhà sang không chịu hạ mình. Rồi cứ bổi hổi bồi hồi, nghĩ quanh nghĩ quẩn đến bỏ cả ăn uống nằm liệt giường. Vương thị đến thăm, gặng hỏi bệnh tình làm sao. Yên Chi rên rỉ:
- Em cũng chẳng biết vì sao? Từ hôm ấy chị về rồi em cảm thấy khó chịu, hơi thở bây giờ chỉ còn như mượn, sớm muộn gì thì em cũng sẽ đi thôi!
Vương thị thầm thì:
- Anh ấy nhà tôi buôn bán chưa về, cho nên chưa có người đánh tiếng đến nhà họ Ngạc, mình ngọc không an, phải vì thế chăng?
Đôi má Yên Chi ửng hồng hồi lâu. Vương thị lại đùa:
- Nếu quả vậy mà bệnh đến thế này thì còn e gì nữa? Trước tiên hãy gặp nhau một tối, chàng ta đến mấy mà lại không ưng?
Cô than thở:
- Đúng! Sự tình đến thế này thì không thể đừng được nữa. Tuy nhiên nếu họ không hiềm nhà em thấp hèn nhờ người mai mối ngay đi thì bệnh em ắt khỏi. Còn như hò hẹn tự tình thì quyết không thể được.
Vương thị cúi đầu đi về.
Thuở còn đào non, Vương thị đã từng tư thông cùng người học trò trong xóm là Túc Giới. Sau khi Vương thị thành gia thất, Túc cứ rình người chồng vắng nhà là ngựa quen đường cũ, lại tìm đến hú hí với người tình cũ. Tối ấy Túc đến, thị thuật lại chuyện cô gái, cốt làm trò cười rút rít với tình nhân, lại còn dặn đùa Túc đánh tiếng với Ngạc. Túc biết tiếng cô gái đẹp từ lâu, nghe chuyện ấy mà khấp khởi trong dạ, chuyến này có thể mượn gió bẻ măng. Nhưng muốn cùng mưa tình với tình nhân song lại sợ ả ta ghen, bèn ra vẻ vô tâm, khuyấy khỏa hỏi dò đường ngang lối tắt nhà cô gái.
Đêm hôm sau hắn trèo tường vào, đến ngay buồng Yên Chi gõ nhẹ vào cửa. Bên trong có tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Đáp: Ngạc đây!
Tiếng cô gái hổn hển nói vọng ra:
- Em sở dĩ nghĩ đến chàng là vì chuyện trăm năm, đâu phải vì một tối. Nếu chàng quả thực yêu thương em thì hãy nhờ mai mối tới ngay. Nếu có ý đòi tư thông thì em quyết không dám vâng lời.
Túc giả vờ ưng thuận, chỉ khẩn cầu được nắm bàn tay thon thả làm tin. Cô gái không nỡ cự tuyệt thẳng thừng, đành gượng dậy mở cửa. Túc nhảy xổ vào ôm chầm lấy đòi điều kia khác. Cô gái không còn sức nào chống cự, ngã quay ra đất, thở không ra hơi. Túc vội dìu lên, cô gái nói đứt đoạn:
- Sao tàn ác đến thế! Tất không phải là Ngạc lang... Nếu quả Ngạc lang là người thuần nhã thấy tôi đau ốm hẳn phải xót thương, có đâu lại cuồng bạo thế này! ... Nếu còn vậy tôi buộc phải kêu lên thì sẽ tổn thương đến phẩm hạnh cả hai. Hỏi có ích gì?
Túc sợ bại lộ tung tích không dám tiếp tục cưỡng bức chỉ xin được hẹn hò gặp gỡ sau này. Cô gái xin chờ ngày nghinh hôn. Túc cho rằng hẹn ấy xa quá, cứ nài nẵng. Để chóng thoát khỏi cảnh bày bây, cô đành hẹn khi khỏi bệnh. Túc xin vật làm tin, cô gái không cho. Túc sấn sổ tuột lấy chiếc giày thêu của cô gái rồi quay đi. Cô gái gọi, đòi trả lại:
- Đã có lời giao ước, tôi đâu dám tiếc? Chỉ sợ vẽ hổ thành chó, để rồi chịu tiếng chê cười. Nay của tin đã lọt vào tay anh, liệu không thể nào quay trở lại được nữa. Anh như có lòng nào phụ bạc, tôi chỉ còn một chết mà thôi.
Túc quay trở lại ngủ với Vương thị. Đã đi nằm rồi hắn vẫn không quên đôi giày, lén thò tay vào túi áo thì giày đã biến đâu mất. Hắn vội vàng dậy che đèn lục lọi áo, lần tìm trong bóng tối. Vương thị thấy thế gặng hỏi, hắn cứ im thin thít. Hắn nghi Vương thị dấu đi. Ả ta lại cứ cười cợt ỡm ờ làm cho hắn càng nghi. Rồi sốt ruột không kìm giữ được nữa, hắn nói toẹt ra. Nói xong hắn đốt đuốc ra tìm ngoài nhà nhưng vẫn không thấy, đành nuôi hận trở về buồng Vương thị. Hắn vẫn còn hy vọng, đêm hôm khya khoắt không ai qua lại, nếu có giày rơi thì vẫn còn ở ngoài đường. Tờ mờ sáng hắn đã trở dậy, lục lọi tìm tòi, song vẫn không thấy gì cả.
Nguyên là trong ngõ có Mao Đại là tên du thủ du thực, không có nơi ăn chốn ở nhất định. Hắn ve vãn Vương thị nhưng không ăn câu. Lại biết Túc thường lui tới nhà thị nên rình bắt để cho bêu rêu một phen. Đêm ấy hắn qua cổng nhà thị, đẩy cổng vào thì thấy chưa gài, hắn lẻn luôn vào. Vừa đến cửa sổ thì giẫm phải một vật gì mềm mại như nắm lụa. Nhặt lên xem thì ra cái giày con gái bọc trong khăn. Hắn rấp rình nghe được hết mọi điều Túc thuật lại với ả tình nhân, thì mừng rỡ vô cùng, liền quay ra ngay.
Vài đêm sau, hắn vượt tường đột nhập vào nhà Yên Chi. Vì không thuộc đường lối đi lại, cho nên hắn tới nhầm buồng ông bố. Ông Biện dòm qua cửa sổ thấy có bóng đàn ông, nhác thấy cung cách ấy biết ngay là kẻ gian đi mò gái. Ông ta nổi giận, rút dao xông ngay ra, Mao Đại sợ quá tháo chạy, đang định vọt tường thì ông Biện đã đuổi sáp tận nơi. Gấp quá, liệu khó bề tẩu thoát, hắn ngoắt lại cướp lấy dao. Bà Biện trở dậy, thấy thế hô lên. Mao thấy nguy cơ bị tóm, liền sẳn dao chém chết luôn ông Biện.
Yến Chi đã hơi đỡ, nghe tiếng huyên náo, hớt hơ hớt hải vùng dậy. Đốt đèn lên soi thì ông bố đã bị bể sọ không nói được tiếng nào, lát sau chết luôn. Thấy ở chân tường có cái giày thêu của con, bà mẹ tra hỏi, cô gái khóc lóc kể hết tình đầu. Song không nỡ để lụy đến Vương thị, cô gái chỉ nói là Ngạc tự tìm đến nhà mà thôi.
Sáng ra, gia đình họ Biện phát đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt luôn Ngạc. Ngạc vốn là người ngây thơ, chưa từng trải, mười chín tuổi rồi mà gặp khách lạ vẫn thẹn thẹn thò thò như con trẻ. Cho nên khi bị bắt, anh ta sợ hãi quá chừng, trước công đường chẳng biết mở miệng nói năng ra sao, chỉ những run như cầy sấy. Quan huyện thấy cung cách ấy, tin đúng anh ta phạm tội, sai tra tấn rất dữ. Tạng thư sinh yếu ớt, không chịu được đau đớn, Ngạc nhận hết những lời vu khác.
Giải lên quận, tình thế lại diễn ra như ở huyện. Ngạc xin được đối chất với Yên Chi, nhưng vừa giáp mặt, cô gái đinh ninh đó là kẻ thù giết bố mình, chửi mắng sỉ nhục Ngạc thậm tệ. Ngạc cứng lưỡi không sao giải tỏ được nỗi oan khiên. Do đó Ngạc bị luận án tử hình. Qua mấy quan toà lớn vẫn y án.
Sau này được ủy cho phủ Tế Nam phúc lại. Bấy giờ ông Ngô Nam Đại đang làm tri phủ, vừa thấy Ngạc sinh, trong thâm tâm đã ngờ: diện mạo ấy khó có thể là kẻ giết người. Ông ngầm sai người đến nói chuyện, hỏi riêng một cách thoải mái thì càng rõ Ngạc bị oan.Suy ngẫm mấy ngày rồi ông mới hỏi cung lại. Đầu tiên hỏi Yên Chi :
- Sau khi đính ước có ai biết chuyện hay không?
- Thưa không.
- Lúc gặp Ngạc có ai nữa không?
Thưa không.
Gọi Ngạc lên, ông ôn tồn, an ủi. Ngạc thưa:
- Khi tôi qua cổng ông Biện có thấy người hàng xóm cũ là Vương thị cùng một thiếu nữ đi ra, tôi vội rảo bước tịnh không nói nửa lời gọi có.
Ông Ngô quay ra quát cô gái:
- Ngươi vừa nói khi gặp Ngạc không có ai ở bên. Sao đây Ngạc lại nói có người đàn bà hàng xóm?
Nói rồi làm vẻ như định tra tấn. Cô gái sợ vội thưa:
- Tuy đúng lúc ấy có Vương thị, song thị không có quan hệ tới việc này.
Ông ấy kết thúc cuộc đối chất, sai lính đi bắt Vương thị.
Mấy ngày sau Vương thị đến, ông không cho ả ta liên lạc với cô gái và lập tức thẩm vấn. Hỏi Vương thị:
- Ai là kẻ sát nhân?
Thưa: không biết.
Ông vờ thắt buộc như thật:
Yên Chi đã cung, việc giết ông Biện nhà ngươi biết hết, sao còn dám giấu?
Vương thị vội kêu:
- Oan con quá! Con dâm nữ ấy phải lòng trai, con tuy có ngỏ ý mối manh chỉ để mua vui thôi. Nó tự dẫn gian phu vào nhà, con đâu có biết!
Ông Ngô truy vấn cặn kẽ, ả ta thuật lại tỉ mỉ những lời đùa bỡn trước sau. Ông gọi cô gái lên, làm mặt giận dữ:
- Ngươi khai ả ta không liên qua gì, thế sao bây giờ y lại cung cả hai phía?
Cô gái sụt sùi:
- Tự con không ra gì làm cho cha phải chết thê thảm. Kiện tụng chưa biết đến bao giờ mới xong, nếu làm lụy đến người khác thật là bất nhân.
Quan lại hỏi Vương thị:
- Đã cợt nhả quá đáng như thế, sau có nói lại với ai không?
- Thưa không.
Quan vặn lại:
- Vợ chồng tỉ tê đầu ấp tay gối, sao lại có thể không nói được? Lại còn chối?
- Chồng con vắng nhà đã lâu.
- Mặc dù vậy, phàm đã trêu cợt người khác đều là để cười người ta ngu, để tỏ ta đây là giỏi. Thế mà lại không nói với ai? Ngươi còn định dối trá ư?
Rồi quan sai kẹp mười đầu ngón tay, ả ta không chịu được phải khai thực: “Đã trót hở với Túc.’ Quan liền thả Ngạc đến bắt Túc.
Túc đến, cung là không biết gì cả. Quan phán:
- Đã ngủ ở nhà gái tất không phải là kẻ tử tế.
Sai tra khảo, Túc phải khai thật:
- Đúng là có lừa cô gái, nhưng từ khi đánh mất cái giày thì không dám đến nữa. Còn việc giết người thì quả thực không biết sự thể ra sao.
Quan nổi giận:
- Hừ! Kẻ trèo tường chim gái thì có đâu mà không đến?
Rồi lại sai tra khảo. Đau quá Túc không chịu nổi, phải nhận cả.
Án thành, cáo lên trên, không ai không khen tài thần minh của ông Ngô. Án sắt như núi, Túc chỉ còn vươn cổ đợi mùa thu chịu hành quyết.
Túc là kẻ phóng đãng song cũng là một kẻ sĩ ở đất Sơn Đông. Nghe thấy ông học sĩ Thi Ngu Sơn (Tên chính là Nhuận Cương, đỗ tiến sĩ, làm quan học chính đất Sơn Đông, là thầy học tác giả Bồ Tùng Linh) là bậc hiền năng, yêu người tài, thương kẻ sĩ, Túc làm một bài từ khiếu oan, lời lẽ rất thống thiết. Thi công nghiên cứu bản cung, lật đi lật lại suy ngẫm, ông vỗ bàn kêu lên: “Tay học trò này oan rồi”.
Ông xin với dình Tuần, dinh án được tra lại án ấy. Hỏi Túc:
- Để rơi giày ở đâu?
- Bẩm không rõ. Chỉ nhớ là khi gõ cửa nhà Vương thị thì giày vẫn còn trong ống tay áo.
Ông quay sang hỏi Vương thị:
- Ngoài Túc ra, còn ai thông gian với ai nữa?
- Bẩm, không có ai nữa.
- Đã là kẻ đĩ bợm, đâu chỉ có chuyện một người?
- Con đã trót dan díu với Túc Giới từ thuở nhỏ chưa thể đoạn tuyệt được. Về sau không phải là không có kẻ ve vãn, chim chuột, song thực chưa dám đi lại thêm với một ai khác.
Ông bắt nói rõ tên những kẻ ve vãn để chứng thực.Vương thị cung tiếp:
- Kẻ cùng làng là Mao Đại đã mấy lần rồi, lần nào cũng bị cụt hứng.
Thi công châm biếm:
- Gớm nhỉ? Sao tự nhiên lại trinh bạch thế?
Liền sai đánh trượng. Ả ta gục đầu chịu đòn, máu me đầm đìa, song vẫn hết sức biện bạch là quả không còn đi lại với ai khác. Lúc ấy Thi công mới tha đánh, vặn hỏi:
- Chồng ngươi đi xa, há lại không có kẻ nào thác cớ đến gạ gẫm hay sao?
- Thưa, thế thì cũng có. Tên Giáp, tên Ất... đến một vài lần, hoặc vay mượn, hoặc quà cáp.
Những tên Giáp tên Ất này đều là những tên du đãng trong ngõ, cũng có ý định với a nhưng chưa dám lộ.
Thi công ghi họ tên bọn ấy, sai bắt đến hết, giam chúng ra miếu Thành Hoàng, bắt quỳ phục trước hương án rồi phán bảo:
- Đêm qua ta được thần nhân báo mộng: kẻ sát nhân không ngoài bốn, năm tên lũ bay. Nay trước uy linh thần linh, bay không được dối trá. Đứa nào tự thú được hưởng lượng khoan hồng. Bằng không thì quyết chẳng khoan thứ.
Bọn chúng đều đồng thanh kêu là không có dính dáng đến vụ giết người. Thi công sai đem hết gông cùm, kìm kẹp bày ra trên mặt đất, như thể chuẩn bị gia hình. Chúng bị buộc trói lại, lột trần truồng ra, nhưng vẫn một mực kêu oan. Thi công sai ngừng gia hình, phán bảo:
- Bay đã không tự nhận thì buộc ta phải nhờ quỷ thần chỉ bảo.
Rồi sai người lấy chăn che kín các cửa đền, không để cho ánh sáng lọt vào; trật trần lưng bọn chúng ra dẫn vào trong buồng tối, đưa một chậu nước vào bắt đứa nào cũng phải rửa tay rồi sắp hàng đứng dưới bức vách. Xong xuôi ông mới ra lệnh:
- Bọn bay phải quay mặt vào vách, cấm không được động đậy để thần nhân viết chữ vào lưng kẻ có tội.
Lát sau, gọi chúng lên kiểm tra, ông chỉ vào mặt Mao Đại, thét lớn:
- Đây đúng là tên sát nhân.
Thì ra Thi công đã sai người xoa than lên vách. Nước rửa tay chính là nước muội đèn. Tên giết người sợ thần viết vào lưng, cho nên trong bóng tối đã quay lưng lại tựa vào vách, đến khi sắp ra lại lấy tay che lưng nên trên lưng có vệt đen. Khi thẩm phán, Thi công đã có ý nghi Mao, đến bây giờ càng rõ rành. Rồi dùng cực hình tra khảo, Mao phải khai ra hết sự thực.
Sau đó, Mao bị kết án chém đầu, Túc Giới là sĩ buông tuồng bị giáng một bậc học vị.
Văn án được công bố, xa gần đều truyền tụng.
Ngày từ khi được Ngô công phúc án. Yên Chi mới biết Ngạc Thu Chuẩn là oan. Mỗi khi ra vào chốn công môn, gặp nhau nàng thường nhìn chàng mà nuốt lệ, tựa như có điều gì đau đớn tiếc nuối mà chưa nói được thành lời. Ngạccũng cảm động vì tình quyến luyến không che giấu của cô gái, trong lòng cũng rất mực mến yêu. Song lại nghĩ đến điều cô ta xuất thân hèn kém, mỗi khi bị dẫn giải đến nha môn trăm nghìn người nhòm ngó, chỉ trỏ, nếu lấy e sợ người ta chê cười. Bởi vậy cứ ngày đêm nghĩ quanh nghĩ quẩn mà không dám tự quyết được. Văn án cuối cùng được ban bố, trong đó có mấy câu kết về Yên Chi thấu lý đạt tình: “ Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng. Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu. Bởi vậy mong quan huyện đứng ra tác thành cho đôi lứa”. Lúc ấy Ngạc mới ngả một bề.
Và quan huyện đã làm đúng theo lời quyết án.



LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Rất rõ ràng: xử kiện không thể không hết sức cẩn trọng vậy! Cũng có thể biết người này bị kết oan, song ai biết kẻ kia còn có nhiều điều khuất tất. Tuy sự việc có điều ám muội song ắt thế nào cũng có kẻ hở. Cho nên nếu không suy ngẫm nghiên cứu kỹ thì không thể được vậy! Than ôi! Người ta đều phục cái bậc hiền minh có tài xử đoán ngục tụng, mà không biết dụng tâm của trời giá kia cũng thực là công phu vậy. Những bậc cai trị dân trên đời này chỉ biết cờ rượu qua ngày, chăn gấm xỏ tay, dân tình bên dưới khốn đốn, nào có động một chút lòng? Đến khi trống gióng mở cửa công đường thì ngất ngưởng trên cao tót, dưới sân nháo nhác tố khổ thì lại gông cùm trấn áp. Thế thì có lạ gì trong chốn tối tăm còn biết bao nhiêu oan khiên trầm uất.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

Liêu Trai Chí Dị
Con Người Quốc Sắc
(Mao hồ)



Mã Thiên Vinh, con nhà làm ruộng, ngoài hai mươi tuổi goá vợ, vì nghèo quá không cưới nổi vợ khác.
Một hôm, đi ra thăm ruộng, trông thấy một thiếu phụ, mặc tử tế, xuyên bờ đạp lúa mà đi, mặt đỏ xem có vẻ phong lưu, Mã ngờ là người lạc đường, dòm quanh tứ phía không có ai, bèn chọc ghẹo chơi. Nàng mỉm cười, Mã toan đè ra giao hoan tại đó. Nàng gạt đi:
- Giữa thanh thiên bạch nhật, sao lại làm chuyện bậy bạ như vậy? Anh về nhà trước đi, khép cửa đợi tôi. Trời tối, tôi đến.
Mã không tin lời, nàng thề nguyền nói thật. Mã bèn vẽ đường lối cửa ngõ cho nàng biết, rồi nàng từ giã.
Đêm lại, quả đến, thuận cho giao hoan. Mã thấy mình mẩy nàng mềm nhũn, thắp đèn lên soi, da đỏ và mỏng manh như đứa trẻ sơ sinh lông tơ đầy mình, phải lấy làm lạ. Lại ngờ tông tích nàng vu vơ, tự nghĩ không khéo là chồn, liền thử hỏi đùa xem.
Nàng tự nhận ngay là chồn, không hề chối cãi giấu giếm. Mã nói:
- Đã là tiên nương, hẳn ai cần chi được nấy. Cô đã âu yếm với tôi, sao không cho tôi ít đồng qua cơn nghèo túng?
Nàng nhận lời. Đêm sau tới, Mã hỏi số tiền hứa cho đâu? Nàng làm bộ sửng sốt và nói: “Rủi tôi quên mất rồi”. Chừng sắp ra về, Mã lại nhắc. Đêm tới khi nàng vừa đến, Mã hỏi ngay:
- Món đó cô lại quên nữa chứ gì?
Nàng cười hẹn đến hôm khác.
Cách mấy hôm, Mã lại hỏi. Nàng vừa cười vừa rút trong tay áo ra hai nén bạc, đáng giá năm sáu đồng, hai bên rìa có những khía nhỏ trông xinh đẹp dễ thương. Mã mừng rỡ, cất kĩ trong rương. Chừng nửa năm sau, có việc cần xài bèn lấy ra cho người ta xem và nhờ bán giùm. Người ta nói:
- Đây là chì mà, đâu có phải bạc!
Đưa lên răng cắn thử, bể ngay. Mã sợ quá, vội vàng nhặt lấy về nhà. Đêm nàng đến, Mã gây gổ trách móc đáo để. Nàng cười:
- Mạng anh mỏng manh lắm, không xài được bạc thật đâu.
Thế rồi cười xoà bỏ qua chuyện đó. Mã cũng cười và hỏi:
- Nghe nói giống chồn thành tiên, đều là trang quốc sắc, nhưng nay tôi thấy đâu có phải vậy.
Nàng nói:
- Loài chúng tôi đều tuỳ theo hạng người gặp gỡ mà hoá thân hiện hình. Thứ anh, một đồng bạc còn không có phúc mà hưởng được, thì nhan sắc chim sa cá lặn, làm sao tiêu thụ cho nổi? Tôi xấu xí thế này, vốn không đủ dâng cho hạng thượng lưu, nhưng nếu đem so sánh với tụi chân to lưng gù thì tôi chính là quốc sắc đấy anh ạ!
Qua mấy hôm, nàng bỗng dưng đưa ra ba lượng bạc cho Mã và nói:
- Anh đòi hỏi nhiều phen, tôi suy nghĩ mạng anh không thể có tiền để dành mà cho anh làm chi. Nhưng nay đến kì cưới xin, vậy tôi đem cái giá cưới một con vợ để tặng anh, và xin cùng anh từ giã luôn thể.
Mã bày tỏ mình không hề có chuyện mối manh cưới hỏi gì cả. Nàng nói:
- Trong một hai ngày, sẽ có mụ mối tự đến.
Mã hỏi mặt mày người vợ sắp lấy xấu đẹp thế nào? Nàng đáp:
- Anh khao khát quốc sắc, rồi có quốc sắc cho anh mà!
- Tôi chẳng dám mong tới bực đó, nhưng với ba lượng bạc mua một con vợ sao đủ?
- Chuyện đó ông tơ bà nguyệt đã an bài, không cần ở nhân lực đâu.
- Nhưng tại sao cô vội từ giã tôi?
- Đêm nào tôi cũng dầm sương đội nguyệt mà đến hủ hỉ âm thầm với anh, đâu phải là cuộc lâu dài mãi được. Rồi anh sẽ có vợ anh, còn cầm giữ tôi làm chi?
Sáng hôm sau ra đi lại trao cho Mã một gói thuốc bột, dặn rằng: “Sau khi biệt nhau, e anh lâm bệnh, uống thuốc này thì khỏi”.
Liền ngày hôm sau nàng đi khỏi, quả có mụ mối đến. Mã hỏi nhan sắc người con gái trước hết. Mụ đáp rằng: ở giữa khoảng xấu đẹp. Lại hỏi tiền cưới độ bao nhiêu, mụ trả lời: chỉ độ bốn năm đồng.
Mã tuy không kèo nài về giá tiền đắt rẻ, nhưng chỉ muốn trông thấy người tận mắt cho được chắc ý. Mối tỏ ý lo ngại rằng con nhà tử tế, không chịu vác mặt đến nơi cho mình xem đâu. Nhưng rồi mụ hẹn cùng chàng đi đến nhà gái, sẽ tuỳ cơ liệu tính cho xem mặt cô dâu.
Khi đến làng đó, mối đi vào trước, bảo Mã đứng chờ bên ngoài. Lúc lâu mụ trở ra nói:
- Được rồi, người bà con bên ngoại tôi cùng ở nhà trên, vậy anh giả danh đến thăm bà con tôi. Nhà ngang trước cửa, chỉ cách gang tấc, tha hồ mà dòm.
Mã nghe lời, quả thấy nàng ngồi căn giữa, ngả mình xuống giường để cho người ta gãi lưng. Mã phớt qua, hai mắt ngó chăm thấy mặt mày như lời mối đã tả.
Đến lúc bàn định về khoản cưới, nhà gái không kèo nài gì hết, chỉ cần được một hai lượng, để mua sắm chút ít cho nàng xuất giá, có thế thôi.
Mã còn cò kè bớt một thêm hai, rồi mới nộp tiền, luôn dịp đền ơn mụ làm mai. Khi viết giấy tờ xong, tính ra ba lượng vừa hết, không thừa được xu con nào.
Vài hôm, chọn được ngày lành giờ tốt, đón vợ về nhà. Mã nhìn thấy vợ lưng gù bụng ỏng, cổ rụt như cổ rùa, trông xuống bàn chân to lớn phát sợ. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ những lời con chồn đã nói là có căn do vậy./.



Liêu Trai Chí Dị
Cô Tân thứ mười bốn
( Tân Thập Tứ Nương)



Quảng Bình Phùng sinh người ở khoảng triều Chánh Đức nhà Minh, từ lúc còn nhỏ đã có tính bê tha hay rượu. Một hôm tảng sáng đi chơi tha thẩn, gặp một thiếu nữ trùm vạt áo màu đỏ, nhan sắc cực xinh, có thằng nhỏ theo hầu, xăng xái dầm sương ướt cả giày tất; chàng trông thấy động lòng thầm mơ trộm nhớ.
Chiều tối, say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi nhà cũ, sân cỏ rêu mọc đã lâu, chàng bỗng thấy người con gái từ trong chùa ấy đi ra, nhìn lại chính là người đẹp ban sáng.
Nàng chợt thấy chàng đi qua, vội vàng day mình trở vào chùa.
Phùng sinh nghĩ thầm, người dẹp thế kia sao lại ở trong ngôi nhà hoang phế? Lập tức buộc buộc lừa ngoài cổng, rồi theo dõi vào tận chùa dò xem. Vào thấy tường đổ tứ tung , đầy thềm cỏ mọc, còn đương ngần ngừ về sự lui tới, thì một cụ già tóc bạc từ trong đi ra, áo mũ tươm tất sạch sẽ hỏi chàng từ đâu tới.
Chàng nói:
- Tôi thấy ngôi chùa cổ, nên muốn vào coi cho biết. Còn cụ vì sao lại ở trong này?
Cụ già đáp:
- Lão lênh đênh không có chỗ ở, nên phải tạm mượn cảnh chùa cho bầy trẻ ở đỡ. May mắn được ông chiếu cố, xin mời vào uống một chén trà núi để thay chén rượu.
Nói đoạn cụ kính cẩn mời Phùng vào chơi.
Phùng theo vào phía trong điện, tới một căn nhà đường đi lót đá bóng trơ, không thấy rêu phong cỏ mọc đâu cả. Vào trong nhà các thứ màn giường nệm chiếu đều có mùi hương ngào ngạt. Ngồi trò chuyện và hỏi thăm họ tên, cụ già đáp:
- Tôi là lão già Mông họ Tân.
Phùng thừa cơn say, hỏi liền:
- Nghe như cụ có một cô chưa lấy chồng, tôi không xét mình tự nguyện làm rể, mong đài gươong soi đến dấu bèo co được chăng?
Tân lão cười và nói để bàn tính với vợ đã. Phùng cao hứng liền cầm bút viết bài thơ:



Ngàn vàng mua chày ngọc
Ân cần dâng tận tay
Vân Anh nếu đoái tưởng
Giã thuốc hộ nàng ngay.(1)


Ông cụ xem thơ mỉm cười trao cho người nhà xem. Giây lát con hầu ở nhà trong ra nói thầm bên tai Tân lão. Tân lão đứng dậy, yên ủi chàng cố ngồi đợi, rồi cụ vén màn vào trong buồng, nghe văng vẳng cụ nói chuyện một hai câu lại trở ra liền.
Chàng tin chắc có tin lành, chẳng dè cụ ngồi nói những chuyện đâu đâu, không đả động chi tới việc đó, Phùng nhịn không được hỏi phăng:
- Việc đó ra sao, xin cụ dạy bảo cho tôi được yên lòng.
Tân lão nói:
- Cậu vốn là người xuất sắc, lão đem lòng kính mộ đã lâu, khốn nỗi vì có một cớ riêng chẳng dám hở môi đó thôi.
Chàng gạn hỏi cớ gì? Tân lão đáp:
- Con gái lão mười chín đứa mà mười lăm đứa có chồng rồi, việc gả bán thế nào là tự bà lão nhà tôi, chứ tôi không dự đến.
Chàng nói:
- Tiểu sinh chỉ cầu hôn với cô dắt một thằng nhỏ theo hầu, hồi sáng đi dầm sương đó.
Tân lão làm thinh. Hai người lặng lẽ ngó nhau. Nghe trong buồng có tiếng con gái rầm rì, Phùng hãy còn say, tức quá liền vạch màn xông đại vào nói:
- Cầu lấy làm vợ chẳng được, thì cũng phải để cho thấy tận mặt cho được hả lòng với nào!
Bên trong nghe cửa động, cùng đứng dậy nhìn sửng sốt. Trong đám quả có người vận áo đỏ đứng mân mê dải áo, có dáng e lệ. Cả nhà thấy chàng xông vào cùng hoảng hốt kêu lên. Tần lão cả giận sai mấy tên gia nhân lôi cổ chàng ra.
Lúc đó, hơi rượu càng nồng, chàng ngả lăn trong đám cỏ gai, gia nhân liệng gạch theo ngói như mưa, may sao không trúng vào người.
Chàng nằm trong đó một lúc mới tỉnh, nghe rõ con lừa của mình đương gậm cỏ bên đường, bấy giờ mới gượng dậy cưỡi lừa ra đi chập choạng. Trời tối, lạc đường, đi nhầm vào khe núi, những tiếng beo gầm vượn hú, làm cho chàng rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh tứ phía, không nhận ra chỗ này là đâu. Xa trông về phía rừng mù mịt, có ánh đèn thấp thoáng khi tỏ khi mờ, chàng nghĩ bụng chỗ đó tất có làng xóm, liền ra roi phóng lừa chạy tới. Nhìn lên thấy cổng cao lớn, chàng cầm roi gõ cửa. Bên trong có tiếng người hỏi” “Ai đó! Nửa đêm tới đây lảm chi?” Chàng đáp: “ Là kẻ lạc đường xin vào tạm trú”. Người bên trong nói: “Để hỏi chủ nhân đã, sẽ mở”.
Chàng đứng đợi sốt ruột, chợt nghe tiếng then động, cửa mở, một người tớ tráng kiện bước ra, đỡ lấy cương, dắt lừa vào mời chàng vào.
Nhà cửa rất sang trọng, gian giữa thắp sáng trưng. Chàng ngồi giây lát, một người đàn bà ra chào và hỏi họ tên. Chàng nói thật danh tánh của mình. Cách sau một khắc có hai ba con thanh y (con hầu mặc áo xanh) nâng đỡ một bà cụ tiến ra và nói: Quận quân ra đó! (Quận quân là danh từ tôn xưng bà mẹ vợ vua, hay các bà quý phái).
Chàng vội đứng lên, sửa soạn nghiêng mình cúi lạy, nhưng bà cũ ngăn lại, biểu chàng cùng ngồi và hỏi:
- Mi có phải cháu nội Phùng Văn Tử đó chăng?
Bẩm cụ phải ạ!
- Vậy thì mi là cháu gọi già đây bằng cô đây mà! Thân già bấy lâu như cảnh chuông đâm cành lụn, tuổi tác hồ tàn thành ra cách biệt bà con, chẳng tới lui thăm hỏi chi được.
- Thưa cô, con mồ côi từ nhỏ, những bà con đi về thăm nom ông nội, mười phần con không biết một. Cho nên hồi nào tới giờ chưa được hầu chuyện với cô, vậy xin chỉ bảo rõ ràng cho con biết.
- Rồi sau cháu sẽ tự rõ.
Chàng không dám hỏi nữa, ngồi đối diện với bà cụ mà óc tở tưởng ở đâu. Bà cụ lại hỏi:
- Đêm khuya sau cháu lần mò được đến đây?
Chàng muốn thừa dịp khoe mình gan dạ, bèn kể đầu đuôi câu chuyện gặp gõ trong ngày hôm đó. Bà cụ mỉm cười và nói:
- Thế cũng là một việc hay. Huống chi cháu là danh sĩ, sui gia với đám đó cũng xứng. Nhưng con chồn nhà quê lại dám lên mặt tự cao đến thế kia ư? Cháu đừng lo, để ta gọi nó tới đây.
Chàng vâng dạ cảm ơn lia lịa. Bà cụ day lại hỏi kẻ tả hữu:
- Ta không hay có gái nhà họ Tân có đứa nào xinh đẹp như thế à?
- Y có mười chín người con gái cả thảy, người nào cũng xinh xắn có vẻ, nhưng không rõ ngài định hỏi cô thứ mấy?
Chàng đáp cô ấy chừng mười lăm tuổi. Nàng áo xanh nói:
- Vậy thì là cô mười bốn đó. Cách ba hôm trước từng đi với mẹ tới đây chúc thọ Quận quân. Quận quân đã quên rồi sao?
Bà cụ cười:
- Hay con bé kết hột sen thành giày cao gót trong chứa bột thơm, ngoài bọc hàng mỏng mà đi, phải không?
- Thưa phải đó!
- Ừ! Con bé ấy biế làm ra vẻ quyến rũ khéo đáo để, nhưng quả thật có yểu điệu, thằng cháu ta thường đoán không sai tí nào.
Đoạn, bà cụ biểu nàng áo xanh:
- Sai thằng nhỏ đi kêu nói tới đây.
Nàng áo xanh dạ rồi đi liền. Một lát trở vào bẩm rằng:
- Cô Tân mười bốn đã đến.
Liền thấy cô mặc áo đỏ bước vào, cúi lạy bà cụ. Bà kéo dậy và nói:
- Mi sắp làm vợ thằng cháu ta, không nên làm lễ như con đòi đứa ở vậy nữa.
Nàng đứng thẳng mình buông tay, bà cụ vuốt ve mái tóc, rờ đôi bông tai của nàng và hỏi:
- Tân mười bốn, lúc này ở nhà có làm công việc gì không, con?
Nàng khe khẽ đáp:
- Bẩm lúc rảnh con chỉ thêu thùa.
Nói rồi day mặt trông thấy Phùng sinh có vẻ thẹn thùng bối rối. Bà cụ nói:
- Thằng cháu ta đó. Nó dốc lòng cùng con kết duyên sao con lại để nó đi lầm đường, đêm khuya lạc lõng vào khe núi thế này?
Nàng lẳng lặng không nói sao. Bà cụ tiếp:
- Ta sai gọi con tới đây không vì chuyện gì khác hơn là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi.
Nàng vẫn làm thinh.
Bà cụ gọi người nhà sửa soạn quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức. Nàng đỏ mặt nói:
- Xin để cho con về thưa với cha mẹ con đã.
- Ta làm mai cho con thì có chỗ nào sai sót mà lo chứ?
- Quận quân đã dạy, thế nào cha mẹ con cũng phải vân lời chớ đâu dám trái. Nhưng mà liều lĩnh như vậy con dù có chết, không dám phụng mạng đâu.
Bà cụ cười:
- Con bé này chí khí rắn rỏi, không thể ép uổng được, thật xứng đáng làm vợ thằng cháu ta.
Nói xong, bà rút lấy một cái trâm vàng gài trên đầu nàng, trao cho chàng giữ lấy làm tin, bảo chàng về nhà lựa chọn ngày lành giờ tốt thì làm lễ cưới.
Một mặt sai con hầu đưa cô Tân mười bốn về.
Lúc ngha xa xa có tiếng gà gáy, bà cụ hối gia nhân dắt lừa đến tiễn chàng ra đi.
Chàng đi mấy bước, nghoảnh lại chỉ thấy cây cối um tùm, lau sậy lấp mả mà thôi. Chàng định thần giây lát, mới nhớ ra đó là quan thượng thư họ Tiết. Ông này nguyên là em bà nội chàng, cho nên gọi chàng bằng cháu. Lúc đó chàng tự biết mình gặp ma, nhưng không hiểu rõ cô Tân mười bốn là người dính líu thế nào?
Chàng đoái cảnh thở than rồi đi về nhà, thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm những người ở gần họ nói trong chùa thường thấy chồn tinh xuất hiện. Chàng nghĩ thầm, miễn được vợ đẹp, có phảo là chồn cũng không sao.
Đến ngày lành đã định, chàng sai dọn dẹp quét tước trong nhà ngoài ngõ; người nhà thay phiên nhau túc trực chờ đợi. Mãi tới nửa đêm, còn lặng lẽ chẳng thấy động tĩnh gì, chàng đả chán nản thất vọng.
Giây lát, nghe ồn ào ngoài cổng, chàng vội vàng chạy ra xem thì kiệu hoa đã đến giữa sân, hai thể nữ đang đỡ nàng vào ngồi trong nhà; của hồi môn không có cái chi lạ, chỉ có hai đứa tớ trai khiêng một cái khạp, tục danh là “phúc mãn” làm bằng đất, có khe để bỏ tiền vào mà không moi ra được, khi nào đầy thì đập bể ra, to lớn như cái lu. Chúng đặt lu ấy vào một góc nhà rồi đi ra.
Chàng mừng được vợ đẹp, không ngờ là yêu ma, lấy làm lạ hỏi nàng rằng:
- Bà lão lia chính là người chết thành ma rồi sao cả nhà nàng kiêng sợ và phục tùng quá vậy?
Nàng đáp:
- Quan thượng thư họ Tiết, hiện làm chức Ngũ Do Tuân hoàn sứ, phàm loài chồn quỷ ở quanh miền này mấy trăm dặm đều phải theo hầu. Vì thế ngài có ít ngày giờ về mả đó.
Chàng không quên ơn mai mối cho mình được vợ, nên hôm sau,thân đến trước mả Tiết thượng thư để tế lễ tạ ơn.
Lúc về, thấy hai thị nữ mặc áo xanh, đem tới một cuộn gấm để mừng, vừa nói vừa đặt trên bàn rồi đi. Chàng kể chuyện này lại cho nàng hay. Nàng đem cuộn giấy ra và nói:
- Đây là vật báu của phu nhân đó!
Sở công tử, con một vị quan cũng ở trong miền, thuở nhỏ là bạn đèn sách với chàng, tình khá thân mật. Nay nghe tin mới cưới vợ là chồn tinh, công tử sai đem quà tặng, rồi lại đến nhà chàng uống rượu nói chuyện.
Cách mấy bữa sau, công tử gửi thư mời chàng đến nhà mình uống rượu.
Nàng nghe chuyện, nói riêng với chồng:
- Hôm nọ công tử đến đây, em dòm khe cửa, thấy con người ấy mặt vượn trán gồ, không giao du lâu bền, vậy mình đừn đi!
Chàng nghe lời.
Bữa sau, công tử thân đến nhà chàng trách sự lỗi hẹn hôm qua; nhân dịp đưa khoe bài văn mới làm. Chàng phê bình có vẻ giễu cợt, khiến công tử đỏ mặt ra về.
Chàng vừa cười vừa thuật chuyện cho vợ nghe, nàng tái mặt buồn thảm và nói rằng:
- Con người ấy bụng dạ độc ác giống như sài lang, chớ có chòng ghẹo nó mà khốn. Mình không thèm nghe lời em khuyên bảo, đi rước lấy tai vạ ắt đến nay mai.
Chàng cười và xin lỗi vợ. Về sau, chàng gặp lại công tử liền kiếm lời phỉnh phờ cho công tử mát ruột, nhờ vậy mà chuyện xích mích trước dần dần tiêu tan.
Vừa gặp có kỳ thi ở dinh đốc học, công tử được chấm đậu số một, lấy làm tự đắc, liền bày tiệc rượu để mời chàng đến.
Chàng cố từ. Công tử viết thư ân cần mời thỉnh mãi, chàng mới chịu đến. Khi đến nơi mới rõ là ngày ăn mừng sinh nhật của công tử, quan khách đầy nhà, cỗ bàn sang trọng. Công tử đưa quyển thi ra khoe khoang, chúng đưa nhau tán thưởng.
Rượu được vài tuần, dàn nhạc nổi lên, chủ khách chén tạc chén thù, hết sức vui vẻ. Bỗng dưng công tử nói với chàng:
- Tục ngữ có câu: “Trong trường học không luận văn chương hơn kém”, ngày nay mới rõ câu nói đó nói sai. Kỳ thi hôm rồi, em đậu trên anh chỉ nhờ có mấy câu khởi luận có ý kiến cao hơn của anh một bực đấy thôi.
Công tử nói đoạn, cử tọa hùa theo khen ngợi, Phùng sinh đang say ngà ngà, không sao nhịn được, cất tiếng cười vang và nói:
- Mãi tới ngày nay, anh mới biết văn chương sa sút tới mức ấy ư?
Nghe chàng nói ai nấy xanh mặt. Công tử vừa thẹn, vừa uất, không nói năng gì. Khách khứa lần lượt ra về, chàng cũng lẩn đi. Chàng tỉnh hơi men, lấy làm hối hận, kể hết chuyện thật cho vợ nghe.
Vợ trách:
- Mình thật là chú xã quê mùa. Phàm lời khinh bạc như thế, nói ra với người quân tử thì cái đức của mình thương tổn, nói ra với đứa tiểu nhân thì cái thân của mình nguy hiểm. Tất vạ sắp đến cho chàng, không con xa nữa. Em không nỡ trông thấy cảnh chàng khốn đốn lưu lạc, vậy em xin từ giã nhau từ đây.
Phùng sinh lo sợ khóc vùi tỏ ý ăn năn và cố lưu nàng ở lại, nàng nói:
- Nếu mình muốn cho em lưu lại thì phải hứa chắc với em điều này: Từ giờ trở đi, phải đóng cửa đọc sách, tuyệt hết bạn bè, không được bê tha trà rượu nữa.
Chàng xin y lời.
Cô Tân thứ mười bốn vốn có tính siêng năng cần kiệm, hàng ngày chăm chỉ dệt chiếu, thỉnh thoảng có về thăm gia quyến mình, nhưng đi rồi trở về nội ngày, không từng ở cách đêm bao giờ. Nàng lại xuất tiền ra mua bán kiếm lợi, hễ tiền bạc xài mỗi ngày còn dư, đều bỏ vào trong rương tiết kiệm như trên đã nói.
Ngày ngày chàng đóng cửa ngồi nhà đọc sách, bất cứ ai thăm viếng, nàng cũng bảo gia đinh ra từ tạ không tiếp.
Hôm sau ,công tử gửi thư đến, nàng giấu nhẹm không cho chàng hay.
Lại hôm sau nữa chàng phải vào trong thành điếu tang, gặp công tử ở trong nhà đám. Công tử lôi kéo, nài nỉ; chàng kiếm chuyện từ chối, không đi. Công tử sai bồi ngựa cố vực chàng lên lưng ngựa và nắm dây cương kéo đi bằng được mới thôi.
Về đến nhà, công tử liền sai bày tiệc, chàng uống vài chén rồi đứng dậy kiếu từ, công tử một hai nắm giữ, lại gọi mấy cô hầu đàn hát cho vui.
Phùng sinh sẵn tính ngang tàn bấy lâu lại bị giam hãm ở nhà, hơi thấy buồn bực. Nay gặp rượu ngon gái đẹp, đàn ngọt hát hay, bỗng sinh hào hứng trong lòng không còn lo nghĩ gì nữa, cứ việc uống cho say mèm đến nỗi nằm lăn trên bàn tiệc.
Vợ công tử, họ Nguyễn hung dữ và cả ghen rất đỗi, bọn hầu thiếp không dám trang điểm son phấn. Ban ngày hôm đó, một con hầu lẻn vào phòng học công tử. Nguyễn thị bắt được, dùng gậy đánh mãi trên đầu như mưa xối, con hầu bể óc chết liền, xác còn để đó chưa chôn.
Công tử vẫn căm giận Phùng sinh hay chế giễu mình, ngày ngày tìm cách báo thù, bây giờ gặp dịp bèn lập mưu phục rượuc ho chàng uống thực say, để vu hãm chàng vào tội gian dâm cố sát.
Sau khi chàng say rượu ngủ vùi, công tử cho khiêng xác con hầu kia đến bên cạnh rồi khép cửa bỏ đi. Chàng say tới canh năm mới tỉnh, bây giờ mới rõ lại mình ngủ trên ghế, liền đứng dậy đi tìm giường để ngủ thêm một giấc nữa. Bất đồ có vật gì mềm dịu, cản trở bước chân mình, rở xem, té ra là người. Trong ý chàng suy nghĩ có lẽ chủ nhà cho một tiểu đồng nằm bên để trông nom hầu hạ mình; nhưng chàng lại lay gọi và rờ nắn, thì người đó cứng đờ không cục cựa. Chàng cả sợ chạy vụt ra ngoài cửa, kêu la rầm rĩ.
Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác con hầu, liền tóm chặt lấy chàng hô hoán lên.
Công tử giả đò hốt hoảng chạy tới, trông thấy cớ sự liền vu cho chàng cưỡng gian sát hại con hầu nhà mình, hô người nhà bắt giải lên Quảng Bình để quan phủ xét xử.
Cách một ngày sau, cô Tân mười bốn mới biết câu chuyện là thế, khóc và nói:
- Từ trước ta đã tiên liệu có ngày hôm nay mà. Rồi đó mỗi ngày nàng gửi tiền bạc và thức ăn vào ngục cho chàng.
Trước mặt quan phủ, chàng nói nói rõ lý lẽ gì có thể giải bày nỗi oan của mình, cho nên sớm chiều bị tra khảo, đánh đập, đến tuột da nát thịt, mình mẩy không còn chỗ nào nguyên lành.
Nàng vào tận trong ngục hỏi thăm. Chàng trông thấy vợ đau đớn nghẹn ngào không thể nói ra.
Nàng biết chồng đã ngã xuống giếng sâu, bèn khuyên chàng đành phải nhận tội, cho khỏi bị tra tấn khổ thân. Chàng khóc lóc và xin nghe lời.
Chốn lao ngục canh gác nghiêm mật, mà nàng lui tới ra vào cách nhau gang tấc chẳng ai ngó thấy.
Hôm đó nàng đi thăm chồng trở về, buồn rầu than thở, đuổi hết tôi tớ ra ngoài, một mình đón cửa ở trong nhà luôn mấy ngày để nghĩ mưu tính kế.
Sau đó mấy hôm, nàng cậy mụ mối, đi mua hộ nàng một người con gái lương gia, tên là Lộc nhi, tuổi vừa đôi tám nhan sắc khá đẹp.
Nàng cùng Lộc nhi ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, yêu mến nâng niu, khác hẳn mọi người trong nhà.
Nói về Phùng sinh nghe lời nàng khuyên bảo, đành chịu nhận tội, quan phủ chiếu luật ngộ sát kết án thắt cổ, tên lão bộc hay tin khóc lóc thảm thiết, hộc tốc chạy về nhà báo tin cho nàng hay, mà không nói ra tiếng.
Nàng nghe với vẻ mặt thản nhiên dường như không thèm để ý.
Thấm thoát đã đến kỳ sửa soạn đem xử những tù phạm tử hình, bấy giờ nàng mới bồn chồn rối rít, ngày đi đêm về, không lúc nào yên nghỉ. Những lúc vắng vẻ thi ngồi than khóc một mình, đến nỗi bỏ ăn quên ngủ.
Một hôm trời nhá nhem tối, con hồ tì ( tức là con chồn thị nữ, lúc nàng còn ở trong mộ Tiết phu nhân rất yêu thương thắm thiết) xăng xái đến nhà, nàng vội vàng đứng lên dắt nó ra chỗ vắng nói chuyện thầm thì một hồi. Rồi thấy nàng tươi cười vui vẻ, trông nom cắt đặt việc nhà bình tĩnh như ngày thường.
Hôm sau tên lão bộc đến thăm, chàng gửi lời từ biệt nương tử vợ chồng vĩnh quyết nhau từ đây. Lão bộc về nhà thuật lại, nàng gật đầu qua loa mà nét mặt không thấy có chút đau thương buồn bã khi nghe chồn sắp bị hành hình. Trái lại nàng lạnh lùng như tuồng không thèm để ý đến chuyện đó.
Gia nhân bàn riêng lén với nhau, cho nàng là người vô tình và quá nhẫm tâm. Bỗng nghe đường sá tuyên truyền tin tức quan Sở ngân dài ( quan chánh án họ Sở, tức là cha ruột Sở công tử) đã bị cách chức, quan án Bình Dương vừa mới phụng chỉ xét lại vụ án Phùng sinh.
Lão bộc nghe tin, hớn hở chạy về báo với bà chủ. Nàng cũng vui mừng lập tức sai lão bộc vào ngục thăm dò, thì chàng đã được thả ra khỏi ngục thất. Thầy trò gặp nhau xiết bao mừng mừng tủi tủi. Giây lát thấy lính áp giải công tử đến dinh; quan án tra hỏi, công tử liền thúc hết thực tình vụ án. Vì đó Phùng sinh được quan tha ngay và cho về nhà.
Chàng về đến nhà trông thấy vợ, bất giác bưng mặt khóc ròng, nàng cũng khóc theo. Chàng khóc chán rồi mừng hớn hở, nhưng không hiểu vì sao vụ án của mình động tới tai hoàng đế, mà khỏi bị chết oan.
Nàng trỏ hồ tì và nói:
- Cứu tinh của chàng là con chồn nhỏ này đây.
Chàng kinh ngạc gạn hỏi mãi, nàng mới kể lại tự sự cho nghe.
Nguyên là hôm trước, nàng sai con hồ tì biến mình đến tận Yên kinh, muốn vào trong cung cấm để kêu hộ chàng. Nhưng cung cấm có thần canh giữ, nó không vào lọt phải lang thang quanh quẩn ở bên hồ ngự của nhà vua luôn mấy tháng không tài nào đến gần thiên tử mà tâu bày oan khúc.
Nó sợ dây dưa hỏng việc, tính trở về bàn mưu định kế với nàng, bỗng nghe tin thiên tử sắp ngự giá đi chơi Đại Đồng, nó liền tới trước giả làm con hát dạo, ở chốn hồng lâu. Thiên tử ngự vào đó chơi, thấy nó sắc đẹp hát hay rất mực yêu chuộng.
Ngài tỏ ý ngờ nó không phải là hạnh người phàm trần sa ngã, bấy giờ nó mới thừa dịp ôm mặt khóc nức nở. Nó liền thưa rằng, quê quán ở tận Quảng Bình con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan và kết án tử hình, cho nên nó bị bán vào chốn hồng lâu, thành ra lưu lạc đến đây.
Thiên tử nghe qua, vẻ mặt sầu thảm, ban cho một trăm lượng vàng trước khi ra đi, lại hỏi cặn kẻ đầu đuôi vụ án, lấy giấy bút ghi chép tên họ. Sau rốt ngài tỏ ý muốn rước nó về cung để chung hưởng phú quý. Nó tâu rằng, chỉ muốn cha con đoàn tụ là vui, chứ không dám mong hưởng giàu sang gì cả. Thiên tử gật đầu ba lời khen ngợi yên ủi rồi mới đi.
Con hồ ly thuật lại câu chuyện rõ ràng thêm cho chàng nghe. Chàng lật đật vái lạy tạ ơn, hai hàng lệ nhỏ ròng ròng.
Vợ chồng sum họp không được bao lâu, một hôm nàng nói với chàng:
- Em không vì tình duyên ràng buộc với chàng thì đâu có chịu lấy cảnh phiền não lâu này. Lúc mình bị bắt giam trong ngục, em ở ngoài bôn tẩu quanh nhà hàng họ thân thuộc, chớ hề có ai đoái hoài bày luôn cho một kế gì. Vì đó nay em chán đời phàm tục; em đả vì mình kén chọn người vợ hiền, còn em thì từ đây xin cùng chàng từ biệt.
Chàng nghe, nhào lăn mà khóc, nàng mới nể lòng ở lại không đi.
Đêm hôm, nàng sai Lộc nhi đến nằm với chàng. Chàng nhất định từ chối.
Sáng đến sau,. tự nhiên thấy nàng kém hẳn dung nhan. Hơn một tháng sau nữa thì da nhăn má hóp, gần như mụ già. Cách nửa năm lại đen thui và lọm khọm chả khác gì bà lão quê. Tuy nhiên, chàng vẫn một lòng kính mến, không hề suy suyễn.
Bấy giờ nàng lại nằng nặc đòi đi, nói rằng: “Nay chàng đã có vợ đẹo ia rồi, còn giữ mụ già xấu xí này làm chi?”
Chàng khóc lóc cầm giữ như trước.
Cách một tháng sau bỗng nàng phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống, chỉ nằm rủ riệt trong buồng. Chàng hầu hạ thuốc men, như đối với cha mẹ. Rước thầy pháp bà đồng về nhà, cúng lễ cũng vô hiệu; nàng tê liệt rồi chết. Chàng đau thương quá, chết giấc mấy phen. Nhờ có số vàng của con hồ tì được vua ban cho ngày trước, chàng làm lễ chôn cất long trọng.
Đám xong mấy hôm, con hồ tì cũng đi nốt.
Chàng bèn lấy Lộc nhi làm vợ, một năm sau, Lộc nhi sinh hạ một lúc hai đứa con trai. Nhưng chàng đi thi khoa nào cũng rớt, mà cảnh nhà ngày càng sa sút nghèo nàn. Vợ chồng không có cách gi mưu sinh, chỉ ngồi nhìn nhau buồn rầu than thở.
Bỗng chàng nhớ lại cái lu bể trong góc nhà, sonh thời cô Tân mười bốn thường hay ném tiền vào đó, chẳng biết có còn hay không? Chàng đến gần xem, thì vò tương chĩnh mắm bày la liệt bên trên, phải vời từng món đi mới đến cái lu, cầm đũa khoắn vào trong nhưng đũa không vào được. Bấy giờ đập lu tan vỡ, thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà.
Nhờ đó, chàng đương nghèo lại trở nen no đủ sung sướng.
Về sau, người lão bộc có dịp đi qua núi Thái Hoa, thấy cô Tân mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tì cưỡi lừa theo sau. Nàng trẻ và đẹp y như hồi nào, ân cần thăm hỏi Phùng lang có bình yên hay không. Lại căn dặn lão bộc về nói cho ông chủ biết rằng: Ta đã thành tiên rồi.
Lão bộc vừa nghe dứt lời thì nàng biến mất, không thấy gì nữa.



ĐÀO TRINH NHẤT dịch
(1) Nguyên văn:
Thiên kim cầm ngọc chữ
Ân cần thủ thượng tương
Vân Anh như hữu ý
Thân vị đảo nguyên sương
Bài thơ này lấy sự tích Bùi Hàng thi rớt, về qua Lam Kiều vô quán uống nước, thấy nàng Vân Anh đẹp quá, muốn hỏi làm vợ. Bà mẹ nàng thách cưới một cái chày bằng ngọc, hễ có đem đến thì bà gả con gái cho. Bùi Hàng tìm tiò mua được chày ngọc đem lại, bà cụ dùng chày ấy giã thuốc tiên đơn cho chàng với Vân Anh cùng uống, cả hai cùng thành tiên.
Liêu Trai Chí Dị
Một Đêm Lấy Ma
( Công Tôn Cửu Nương)



Vụ án Vu Thất dậy giặc, làm người ta vị vạ lây mà chết, nhiều nhất là người ở hai huyện Thế Hà và Lai Dương. Có ngày bị bắt mấy trăm người, điều ra trường tập võ chém tất, máu đào lênh láng, xương trắng ngổn ngang. Quan trên động lòng từ bi, giúp tiền mua hòm; các tiệm đồ gỗ ở Thế Thành, đóng hòm tới đâu, bán sạch tới đó. Những người bị xử tử, phần nhiều bị chôn vùi ở Nam Giao.
Khoảng năm Giáp Dần, có người học trò người huyện Lai Dương, có việc đến phủ Tế Nam chơi; vì chàng có hai ba bạn thân cũng ở trong đám chém, nên nhân dịp mua vàng hương đi viếng mộ bạn, rồi thuê một căn phòng ở trong chùa trọ.
Sáng hôm sau, vào trong thàh có công việc mãi đến trời xế chưa về.
Bỗng có một thiếu niên đến buồng trọ của chàng thăm viếng, nhưng thấy chàng đi khỏi, liền bỏ mũ leo lên giường, chân để nguyên giày mà nằm ngửa mặt. Tên đầy tớ chàng hỏi là ai, khách nhắm mắt làm thinh không trả lời.
Đến lúc chàng về thì trời đã nhá nhem tối, nhìn mặt người không rõ, đến bên giường hỏi khách; khách trừng mắt nói:
- Ta đã bảo rằng đến viếng ông chủ mi, sao cứ phải hạch hỏi lôi thôi mãi, bộ ta ăn cướp ăn trộm gì ư?
Chàng cười nói:
- Chủ nhân chính là tôi đây.
Thiếu niên vùng dậy, đội mũ mặc áo mà ngồi, vồn vã hỏi thăm. Chàng nghe tiếng nói như người quen , liền hô thắp đèn cho sáng, nhìn mặt hoá ra Châu sinh, người đồng hương chết vì tai nạn Vu Thất. Chàng sợ hãi khiếp vía, toan chạy. Châu sinh níu lại và nói:
- Tôi với anh là bạn văn chương, sao lại vô tình với nhau như thế? Bây giờ tôi đã chết thành quỷ, nhưng cái tình bạn cũ vẫn canh cánh bên lòng. Nay có một chuyện đến làm rầy anh, xin chớ coi nhau là dị vật mà ra chiều bạc bẽo.
Chàng mạnh dạn ngồi xuống, hỏi muốn chuyện chi, Châu sinh nói:
- Người cháu gái của anh hiện còn ở goá chưa lấy ai; tôi cần một người nội trợ đôi ba phen cậy mối đến dạm hỏi, nhưng cô ta khăng khăng từ chối, lấy cớ không có mạng lệnh bề trên cho phép. Vậy xin anh, anh nghĩ tình bạn cũ, tán thành cuộc nhân duyên này giùm tôi.
Nguyên trước chàng có đứa cháu gái, kêu chàng bằng cậu, từ nhỏ mồ côi mẹ nên chàng đem về nuôi nấng, mười lăm tuổi mới về ở với cha. Nó bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha vừa bị tử hình, thương xót quá đỗi, kêu thét lên mà đứt hơi chết luôn. Nay Châu sinh muốn cưới người cháu gái đó về làm vợ.. Nhưng chàng lưỡng lự nói:
- Ủa! Con bé đó thì nó có cha nó làm chủ, sao anh phải cầu đến tôi?
Châu sinh đáp:
- Ông thân sinh cô ta đã được thằng cháu lấy xương cốt đi cải táng chỗ khác cho nên hiện thời không có mặt tại đây.
- Vậy thì con bé ở với ai?
- Cô ta sống chung với mụ hàng xóm.
- Nhưng tôi là người, làm sao mối lái cho ma được?
- Được, hễ anh bằng lòng thì xin theo tôi.
Châu sinh đứng dậy, nắm tay chàng kéo đi. Chàng cố từ chối và hỏi đi đâu.
Châu nói:
- Cứ việc đi với tôi sẽ thấy.
Chàng phải miễn cưỡng ra đi. Châu dẫn đi về hướng bắc độ một dặm, thấy một xóm làng to, chừng mấy trăm nóc nhà. Đến căn nhà thứ nhất, Châu gõ cửa, tức thời có mụ già chạy ra mở cửa, hỏi Châu muốn hỏi ai?
Châu nói:
- Bà làm ơn nói cô ở trong nhà rằng có ông cậu của cô đến đây.
Mụ trở vô giây lát, ra mời chàng vào, day lại nói với Châu sinh:
- Nhà tôi chật quá, phiền công tử đứng đợi ở bên ngoài một lát nhé.
Một mình chàng theo gót mụ vào, thấy nửa mẫu sân rêu, hai túp nhà nhỏ. Cháu gái đứng trước cửa đợi cậu, vừa chào vừa khóc sụt sùi. Trong nhà đèn thắp li ti, sắc mặt cháu xinh xắn như lúc còn sống. Nàng gạt nước mắt hỏi thăm cô thím ở nhà làm ăn có mạnh giỏi không? Chàng đáp:
- Mạnh giỏi tất cả. Duy chỉ có mợ cháu tức là vợ chàng thì đã qua đời rồi.
Nàng lại khóc nức nở và nói:
- Hồi bé, cháu nhờ cậu mợ nuôi nấng dạy bảo, công đức ấy cháu chưa đền đáp được một chút nào thì không may đã chết trước, nghĩ thật ân hận trong lòng. Năm nọ người anh con nhà bác đã dời xương cốt cha cháu đi nơi khác chứ không nghĩ đến cháu, thành ra ngoài mấy trăm dặm, chiếc thân bơ vơ côi cút như én lạc đàn. Nhờ cậu có lòng đoái tưởng đến, đốt vàng mã cho, cháu đã nhận được rồi.Sau hết, chàng nói chuyện với Châu sinh cầu hôn, nàng cúi mặt làm thinh, mụ già đứng bên đỡ lời:
Ấy, hôm trước Châu công tử cậy bà Dương đến dạm hỏi năm ba phen, già bảo là việc rất nên, nhưng cô em không chịu lấy chồng một cách gần như lén lút, nay có ông cậu đến chủ hôn cho, thì thật là danh chính ngôn thuận. Mụ đang nói thì có một cô mười bảy, mười tám tuổi, có con tớ gái theo hầu, ở đâu phăng phăng bước vào, trông thấy chàng liền day mình toan chạy. Nàng nắm chéo áo lại và nói:
- Chị đừng ngại. Đây là ông cậu ruột tôi, không phải ai lạ.
Chàng vái chào, thiếu nữ bẽn lẽn đáp lễ. Người cháu gái giới thiệu:
- Cô này là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thái Hà. Ông thân cô là người dòng dõi, nhưng nay cũng bị sa sút, cô không thích chơi với ai, sớm tối chỉ đánh bạn với cháu.
Chàng liếc thấy vẻ người tươi tắn, bẽn lẽn mà tuyệt đẹp, gật đầu khen ngợi.
- Phải trông người đủ biết là đại gia, chứ lều tranh vách đất làm gì có sắc mỹ miều đến thế.
Cháu cười và nói:
- Đã đẹp lại là thi sĩ nữa, cậu ạ! Thơ phú làm hay đáo để, cô thường dạy bảo cháu luôn.
Cửu nương mỉm cười:
- Con nhỏ này khi không bêu rếu người ta làm cho ông cậu cười chết!
Cháu cũng cười nói tiếp:
- Mợ cháu qua đời, mà cậu chưa lấy ai. Cậu xem cô này có vừa lòng không?
Cửu Nương cười thẹn vừa chạy vừa nói:
- Ranh con này phát khùng nói nhảm rồi đó.
Nói đoạn đi thẳng.
Lời nói tuy gần như đùa bỡn, nhưng chàng nghe lấy làm thích ý. Cháu dòm thấy ý cậu bèn nói:
- Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp. Nếu cậu không chê là dị loại, thì cháu xin nói giùm với bà mẹ cô ta.
Chàng bằng lòng lắm, nhưng sợ người với ma làm sao kết thành vợ chồng được, cháu biện bạch:
- Không hề chi đâu cậu ạ! Cậu với cô ta vốn có lương duyên túc thế với nhau.
Chàng từ biệt ra về, cháu tiễn chân và nói:
- Năm bữa nữa, trăng thanh người vắng có người đến rước.
Chàng ra ngoài cửa, không thấy Châu sinh đâu cả,nghểnh cổ nhìn về hướng tây, bóng trăng lờ mờ, nhận ra con đường cũ mà đi, thấy một toà nhà ở mé nam. Châu ngồi trên bệ đá ngoài cửa, lật đật đứng dậy đón chào:
Tôi ngồi đợi anh đã lâu. Đây là nhà tôi, mời anh quá bộ vào chơi.
Nói đoạn dắt tay chàng vào, ân cần cảm tạ, rồi đưa ra một cái chén vàng, trăm hột trân châu, và nói:
- Thưa anh, tôi xin nộp mấy vật mọn này để làm lễ cưới. Kế đó nói tiếp ngay:
- Nhà tôi có rượu đây, nhưng đó là vật dưới âm ty, không muốn đem mời khách quý, xin anh lượng cho.
Chàng xin cáo thoái, Châu tiễn ra đến cửa đường mới trở lui.
Về chùa, nhà sư và người tùy tùng xúm hỏi, chàng giấu giếm và nói:
- Bảo tôi gặp ma, ấy là nói xam. Vừa rồi tôi đến nhà bạn nhậu chơi đó thôi.
Sau năm hôm, quả thấy Châu đến, gương mặt rất vui vẻ, mới vào tới sân đã chào hỏi cười nói:
- Việc cui mừng của anh đã xếp đặt xong rồi, động phòng ngay trong đêm nay.
Đoạn, ngồi lại đợi anh sửa soạn cùng đi. Chàng tỏ vẻ sửng sốt:
- Quái lạ, tôi vì chưa nhận được hồi âm, cho nên chưa nộp lễ cưới gì cả, sao anh lại bảo là xong việc rồi?
Châu nói:
- Tôi đã thay mặt anh mà nộp đâu đó cả rồi.
Chàng hết sức cảm tạ, rồi theo Châu tới nhà Châu vào thẳng trong buồng, thấy có cháu gái y phục sang trọng, chờ đón rước cậu. Chàng nói:
- Cưới nhau hồi nào?
Châu trả lời:
- Đã ba hôm nay.
Chàng đưa ngay số hột ngọc của bạn tặng riêng cho hôm trước, cho cô cháu gái để thêm vào của hồi môn. Cô từ chối đôi ba lần rồi mới chịu lãnh, rồi kể chuyện lại cho cậu nghe:
- Cháu đem ý muốn của cậu bày tỏ với Công Tôn lão phu nhân; bà bằng lòng lắm, nhưng chỉ lấy cớ mình già nua, mà đường con cái hiếm hoi, ngoài Cửu Nương không có cốt nhục nào khác cho nên không muốn gả nàng đi lấy chồng xa. Phu nhân hẹn đêm nay cậu đến gửi rể tại nhà. Nhà không có ai là đàn ông, vậy để nhà cháu dẫn cậu đi.
Châu liền dẫn chàng đi, tới cuối xóm, thấy một nhà mở cửa sẳn sàng. Hai người vào trong nhà, ngồi giây lát thì gia nhân báo tin phu nhân đến. Hai nàng thanh y nâng đỡ bà cụ bước lên thềm nhà, chàng muốn lạy chào, nhưng bà cụ gạt đi:
- Tôi già yếu lọn khọm đáp lễ không đặng, vậy xin khước đi nhé.
Nói rồi, truyền thanh y bày tiệc rượu mừng. Châu cũng gọi gia nhân đem cỗ bàn riêng ở nhà mình lại và một hồ rượu riêng, để chuốc chén mừng chàng. Trong tiệc ăn uống không khác trần gian, duy có chủ nhân tự uống tự ăn, chứ không vồn vã mời khách. Tiệc tan, Châu ra về.
Thanh y dẫn đường cho chàng vào nhà trong, Cửu Nương diện sang, ngồi bên đuối hoa đợi sẵn. Trai tài gái sắc, cá nước duyên ưa, cuộc gặp gỡ nhau vui sướng thế nào, không cần phải nói ra.
Nguyên lúc trước, mẹ con Cửu Nương bị bắt, người ta định giải về kinh đô, nhưng khi đến quận Tế Nam thì bà mẹ chết vì không chịu nổi cực khổ, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo mẹ. Nay cùng tân lang đầu ấp tay gối kể chuyện thân thế đã qua mà thổn thức không tài nào ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:



I
Áo lụa hồi xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng trách tiền thân
Mười năm bóng chiếc sương khuya lạnh
Gác tía đêm nay mới thấy xuân.
II
Nấm mồ côi cút gió mưa vây
Ai ngỡ dương đài lại hóa mây?
Chợt nhớ rương xưa đem vật cũ
Quần là vấy máu hãy còn đây.


Trời gần sáng, nàng hối thúc chồng:
- Mình nên về sớm đi chớ để bọn tôi tớ bàn tán khó chịu.
Từ đó ngày tới đêm đi lại ái tình hết sức gắn bó. Một đêm chàng hỏi vợ:
- Làng này tên chi?
- Tên là Lai Hà Lý. Nàng đáp- Trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương, Thế Hà cho nên thành tên.
Chàng nghe bùi ngùi khôn xiết, nàng cũng bi cảm nói:
- Cô hồn bơ vơ, ngàn dặm trôi nổi, tình cảm hai má con tôi, nói ra đau lòng xót ruột. Nếu chàng nghĩ đến ân nghĩa một đêm, thì lấy cốt em mà táng bên mộ ông bà để cho em có chỗ nương tựa muôn đời không còn ân hận gì nữa.
Chàng nhận lờ, nàng lại nói:
- Âm dương cách trở, người quỷ khác nhau, mình cũng không nên bịn rịn ở chốn này lâu.
Nói rồi đưa tặng chàng cái khăn lụa để làm kỷ niệm và gạt lệ giục chàng lên đường. Chàng rầu rĩ ra đi, trong lòng còn thương tiếc không đành, bèn tiện đường gõ cửa nhà họ Châu.
Châu chạy chân không ra đón, vợ cũng trỗi dậy, đầu tóc rũ rượi, thấy cậu nửa đêm đến nhà mình, có ý sửng sốt hỏi gạn căn do. Chàng ngẩn người giây lát, mới thuật lại lời nói của Cửu Nương. Châu nói:
- Mợ cháu không nói với cậu thì cháu cũng định nói, vì mấy hôm nay cháu suy nghĩ đêm ngày đã tính đến việc đó. Chốn này không phải là trần gian, thiệt tình cậu chẳng nên ở lâu.
Hai cậu cháu ngó nhau trào nước mắt. Một lúc chàng mới gạt lụy, từ biệt lên đường.
Trở về gõ cửa nhà trọ nằm trằn trọc tới sáng.
Thức dậy, muốn đi tìm mộ Cửu Nương ngay, nhưng lại quên hỏi dấu tích thì biết mộ nàng ở đâu mà tìm. Mong cho mau tới đêm tối lại đi nhưng mồ mả lố nhố ngổn ngang không đường nào xóm cũ đành phải thở dài bỏ về.
Chàng nhớ chiếc khăn nàng tặng, lấy ra xem, gặp gió thổi rách tả tơi, nát như tro tàn.
Thầy trò sửa soạn hành lý trở về quê quán, luôn nửa năm trời bứt rứt trong tâm, không sao chịu nổi, lại cưỡi ngựa đến trước cửa thành Tế Nam, may ra gặp được nàng chăng? Khi đến Giao Nam, trời đã chạng vạng, liền buộc ngựa gốc cây trước sân, rồi lần mò vào bãi tha ma.
Nhưng chỉ thấy mồ con mả lớn, gai góc um tùm, lập loè lửa ma. Tê lòng sởn óc, đành bóp bụng trở về quán trọ, rồi ngày hôm sau rầu rĩ lên đường hồi hương.
Đi chừng một dặm, xa trông thấy một thiếu nữ đi thơ thẩn một mình trong đám mồ mả, nhìn cách ăn mặc đi đứng thật giống Cửu Nương, vội vàng xuống ngựa để nói chuyện với nàng. Nhưng nàng bỏ chạy, làm như không từng quen biết. Chàng lại muốn tới gần mữa, thì nàng nhăn mặt trừng mắt tỏ vẻ giận dữ, đưa tay áo lên che mặt. Chàng kêu Cửu Nương mấy tiếng, nàng biến đâu mất.



ĐLiêu Trai Chí Dị
Ba Ông Tiên

Một người học trò đi vào thi ở Kim Lăng, đường qua huyện Túc Thiên, gặp ba ông đồ cùng nói chuyện rất khoáng đạt hơn chúng , bụng lấy làm thích lắm, mua rượu thết uống rồi cùng vui vẻ bày tỏ họ tên với nhau. Một người là Giới Thu Hành, một người là Thường Phong Lâm, một người là Ma Tông Từ. Rượu uống rất vui, trời tối lúc nào không biết. Giới nói: “Lê địa chủ chưa có gì, mà đã được hậu đãi như thế thực không yên. Vậy chỗ nhà tranh không xa đây, xin tiện mời được quá bộ tạm nghỉ”. Thường và Ma đứng dậy lôi áo gọi đầy tớ cùng nhau mời cùng đi. Đến chỗ núi phía bắc làng, chợt thấy có nhà cửa, có dòng nước chảy quanh, phong cảnh thực đáng yêu. Vào rồi thấy trong nhà sạch sẽ, gọi đầy tớ đốt đèn lại sai cho đứa đi hầu được yên nghỉ. Ma nói: “Từ trước ta vẫn chơi với nhau bằng văn chương, nay ngày thi đã đến nơi, không nên bỏ uổng phí đêm tối, xin gnhĩ bốn đầu bài, cho ai nấy tự bói chọn lấy một, văn làm xong hãy cùng uống rượu:” Chúng đều theo, mỗi người viết một đầu bài, viết để ra trên kỷ, ai nhặt được bài nào, đến chỗ làm riêng nghĩ ngồi làm. Chưa hết canh hai, mọi người đều xong cả bản ráp, rồi cùng đưa lẫn cho nhau xem. Ông đồ đọc ba bài làm rất là khen hay, chép bản thảo mà cất đi. Chủ nhân đem rượu ra kính khách, chén lớn uống ngụm to, đều say cả. Khách đứng dậy xin thôi, chủ nhân bèn đưa khách đến một chỗ mà ngủ. Trong lúc say không cởi giày nữa, mặc cả áo ngủ liền, tỉnh dậy thấy mặc trời đã lên cao, nhìn bốn xung quanh không có nhà cửa gì chỉ hai thầy trò nằm với nhau chổ hang núi. Sợ quá gọi đầy tớ dậy nốt, thấy ở cạnh có một cái động, như nước rót chảy ra, tự ngờ hay là mê chăng. Nhìn vào trong bọc, thời ba bài băn làm cũng còn cả. Xuống núi hỏi những người ở gần đó, mới biết chỗ ấy gọi là động ba vị tiên, vì trong động có ba con cua, rắn và ễnh ương rất thiêng, thời thường vẫn ngồi chơi người ta trông thấy cả. Sau rồi ông đồ vào trường thi, được ba bài đều trúng cả với ba bài tiên làm cho, thành thử được đỗ đầu.

ÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Đại Bợm
( Cục trá)



I

Gia nhân nhà quan ngự sử nọ đang thơ thẩn đứng ở chợ. Một người áo mũ tốt đẹp ra dáng tới gần bắt chuyện, dần dà hỏi đến họ tên, quan chức chủ nhân. Anh gia nhân cứ thực thà mà nói hết.
Người ấy nói mình là họ Vương, là chân trong cho một quý chủ nọ. Chuyện trò đã dần dần cởi mở, anh ta nói bâng quơ:
- Thời buổi này con đường làm quan thực là quanh quẩn nhiều bề. Muốn thăng quan tiến chức thì phải nương tựa vào cửa một vị quý nào đấy. Ông chủ tôn quý nhà ta nhờ ở ai?
Anh gia nhân cười, nói không rõ. Vương bảo:
- Như thế đúng như người ta thường nói: Tiếc phí nhỏ mà quên họa lớn đây!
- Nhưng biết nương tựa cửa nào cho được?- Anh gia nhân hỏi lại.
- Công chú lấy lễ đãi người lại có thể nhón tay che chở. Qua thị lang tôi cũng tiến thân qua bậc thềm tôi tớ ấy. Nếu ông chủ anh không tiếc nghìn vàng trong việc ra mắt công chúa thì việc tiến thân cũng không khó lắm đâu.
Anh gia nhân cả mừng, hỏi địa chỉ người ấy. Người ấy chỉ nhà cửa, còn có ý trách:
- Cùng ngõ, qua lại hàng ngày mà chưa biết hay sao?
Gia nhân hí hửng về nhà báo ngay với quan ngự sư. Quan Ngự mừng không xiết kể, lập tức sai bày tiệc, cử người đi mời Vương, Vương hớn hở đến ngay. Trong khi ăn uống hắn kể tỉ mỉ tính tình công chúa ra sao, lại bàn soạn kỹ lưỡng đường đi nước bước mọi sự lặt vặt như thế nào, lại còn nói rằng: Nếu chẳng phải tình ngõ xóm thân cận thì cứ phải biện cho hắn một trăm đồng tiền thưởng chứ hắn không chịu làm thân trâu ngựa không công. Quan Ngự Sử càng tỏ ý hàm ơn, chịu nghĩa hắn. Trước khi về hắn hẹn:
- Xin ngài cứ chuẩn bị lễ vật. Gặp dịp tôi sẽ bẩm ngay với công chúa, sớm chiều là tôi báo tin cho tôn ông.
Vài ngày sau anh ta đến, cưỡi một con ngựa cực đẹp, bảo quan Ngự:
- Xin ngài mau chóng chỉnh tề khăn áo vào hầu. Công chúa bận nhiều việc lắm, người đến ra mắt nối nhau tự sáng bảnh đến chiều hôm. Nay may được một khoảng trống, phải đi ngay kẻo lỡ thì không còn dịp nào nữa.
Quan Ngự lật đật đem vàng ròng lụa là tốt đi theo ngay. Quanh co hơn mười dặm mới tới phủ đệ công chúa, xuống ngựa đứng chờ. Vương đem lễ vật vào trước, lúc lâu ra dõng dạc nói lớn:
- Công chúa triệu ngay quan Ngự mỗ vào.
Mấy người nối nhau xướng lời tuyên triệu.
Quan ngự sử lật đật vào phủ.
Ngồi cao cao giữa nội điện là một nữ nhân, dung mạo như tiên, trang phục rực rỡ. Bọn thị nữ mặc áo gấm dàn hàng la liệt.
Quan Ngự Sử phủ phục làm lễ bái kiến rất mực cung kính.
Công chúa truyền lệnh cho ngồi dưới thềm, ban trà bằng chén vàng và phủ dụ những lời ngon ngọt.
Qua ngự kính cẩn xin lui. Trong nội điện lại truyền ban cho mũ lông điêu, bít tất bằng đoạn.
Về đến nhà quan Ngự cứ ca ngợi công đức Vương mãi. Lại sai người cầm danh thiếp đến tạ ơn. Nhưng nhà cửa Vương đã vắng tanh vắng ngắt. Quan Ngự đồ rằng anh ta đi hầu Chúa chưa về. Ba ngày liền vẫn không gặp.
Quan Ngự lại sai người đến hỏi ở cửa bà Chúa. Thì ở đây cũng kín cổng cao tường. Hỏi người xung quanh, họ đều nói đây không có bà chúa nào cả. Trước đây ít lâu chỉ có mấy người đến thuê tạm nhà ở, nay đã đi đâu từ ba ngày nay rồi.
Sai nhân về nói lại.
Cả chủ lẫn tớ chỉ còn tức uất lên thôi.

II

Viên phó tướng mỗ, mang tiền vào kinh đô để cầu đường thăng quan tiến chức, nhưng khỗ nỗi chưa tìm được chỗ đỡ đầu. Một hôm có một người mặc áo cừu, cưỡi ngựa béo đến chơi, tự nói anh ruột mình là người hầu cận với thiên tử.
Trà nước xong, tướng quân ngõ lời nhờ và. Anh ta nói:
- Trước mắt ở xứ ấy còn khuyết một tướng quân. Nếu ngài không ngại tốn thì tôi sẽ dặn anh tôi gợi khéo trước mặt thánh chúa. Việc ấy mà xong thì kẻ có thế lực mấy mà tranh được.
Viên phó tướng còn ngần ngại:
- Tôi e đường đột, không ăn thua gì.
Người ấy lại nói:
- Đã định làm thì chớ nên trù trừ. Tôi chẳng qua chỉ muốn bòn chút ít ở ông anh, còn đối với tướng quân thì tơ hào tôi không đòi hỏi. Bây giờ ta chỉ cần định số tiền bạc là bao nhiêu, viết giấy làm tin, đợi khi nào ngài được thiên tử triệu kiến rồi mới phải chồng tiền. Nếu không xong thì tiền của ngài còn đó chứ ai móc mất của ngài đâu.
Viên phó tướng hởi dạ, bằng lòng.
Ngày hôm sau, người ấy đến để dẫn ông Mỗ đi gặp người anh.
Người anh xưng họ Điền, hách dịch như bậc hầu gia, nhìn ông Mỗ mốt cách đặc biệt ngạo mạn, không lấy gì làm hợp lễ lắm. Người em đưa tờ giao kèo cho ông Mỗ, bảo:
- Tôi vừa bàn với ông anh, việc này không đủ vạn bạc không được, xin ngài ký xuống dưới này.
Ông Mỗ làm theo, Điền anh còn nói:
- Lòng dạ người ta khó lường, chỉ ngại việc xong rồi lại lật lọng.
Điền em cười mà rằng:
- Anh quá lo xa. Đã có thể cho rồi há không thể đoạt lại hay sao? Vả lại các bậc văn võ trong triều có người tình nguyện nộp tiền mà không được. Bước đường tiến thân sau này của tướng quân đây còn xa rộng lắm. Xin anh đứng để ý đến điều đó.
Ông Mỗ cũng thề thốt hết điều rồi mới đi. Điền em đưa tiễn dặn:
- Ba bữa nữa, xin trả lời ngài.
Mới hai ngày, trời vừa sẩm tối, có mấy người chạy đến phi báo:
- Thánh thượng đang ngồi đợi.
Ông Mỗ cả kinh vội tất tả vào chầu.
Thiên tử ngồi ở trên điện, quân nanh vuốt xúm quanh. Ông Mỗ phủ phục làm lễ bái kiến xong, hoàng thượng cho phép ngồi, hỏi thăm ân cần rồi nghoảnh bảo tả hữu:
- Trẫm nghe danh Mỗ vũ dũng phi thường, nay được thấy mặt, quả đúng là bậc chân tướng quân.
Rồi phán truyền cho ông Mỗ:
- Xứ ấy là đất hiểm yếu, nay ủy thác cho khanh, khanh chớ phụ ý trẫm, hãy đợi sắc phong chính thức.
Ông Mỗ bái tạ ơn mưa móc rồi lui ra. Lập tức đã có anh chàng mặc áo cừu cưỡi ngựa béo trước đây, đi theo đến nơi trọ, cứ đúng như giao kèo nhận tiền.
Rồi sau đó, ông Mỗ cứ nằm khểnh đợi sắc phong, hàng ngày đã úp mở khoe khoang với bạn bè. Qua mấy bữa, ông ta dò hỏi mới biết chân tướng quân khuyết trước đây, đã có người được bổ rồi. Ông ta nổi cơn thịnh nộ, thốc thẳng tới bộ binh chất vấn:
- Mỗ đây đã nhận được lệnh của Hoàng đế, sao các ngài lại trao cho người khác?
Quan Tư Mã lấy làm lạ. Ông Mỗ kể lại những điều đã mắt thấy tai nghe, khi vào bái mệnh thánh chúa mơ mơ hồ hồ đến phân nửa như cảnh trong mộng. Quan Tư Mã nổi giận bắt đưa xuống quan Đình úy xét xử.Lúc ấy ông mỗ mới cung tên họ người dẫn tiến, tra xét lại thì trong triều không có ai như thế.
Ông Mỗ lại tổn phí bạc vạn nữa để chạy chọt may phúc mà chỉ bị cách chức đuổi về.
La thay! Hạng võ biền tuy mu mơ song lẽ nào chốn triều đình lại có thế đóng gỉa được sao? Như người ta thường nói: Loại trộm bậc thầy không cần đến dao thuổng khoét vách đào nghạch!

III


Lý sinh người Gia Tường, rất giỏi đàn kìm. Tình cờ ra xứ đông, Sinh mua rẻ được một cây đàn , kìm loại cổ do thợ thổ đào được. Lau chùi đi, thấy thân đàn có ánh sáng lạ; so dây gảy thứ nhất thì tiếng kêu trong và vang lạ thường. Sinh mừng quá như bắt được châu ngọc quý liền cất đàn luôn vào túi gấm, giấu biệt vào trong buồng kín, người thân thích mấy cũng không cho xem.
Quan huyện họ Trình vừa mới về nhận chức, đưa danh thiếp đến thăm Lý. Lý là người ít giao du song vì là lần đầu tiên nên nhận tiếp. Vài ngày sau ông ta mời đến uống rượu, cứ nài nẵng mãi cho nên Lý phải đến. Trình là người phong nhã khác đời, nghĩ luận sâu rộng cho nên Lý cũng ưa. Hôm sau Lý gửi mời lại, chuyện trò vui vẻ, ý hợp tâm đầu, từ đó sớm ngắm hoa đêm thưởng nguyệt, không mấy khi không có nhau.
Cứ thế được hơn năm, một hôm Lý tình cờ vào công thự Trình thấy có một cái túi gấm trong đựng đàn kìm đặt trên ghế, Lý tiện tay mở xem. Trình hỏi có am hiểu thứ này không? Lý trả lời không sành lắm nhưng thường ngày cũng thích. Trình xuýt xoa:
- Mối tri giao chẳng phải mới một ngày, sao lại không thể cho thưởng thức tài nghệ tuyệt vời?
Rồi vội vã đốt lò hương trầm, xin Lý dạo chơi vài khúc. Lý vâng theo, Trình khen:
- Thật là tay đàn tuyệt vời! Tôi cũn xin hiến chút tài mọn, mong đừng cười.
Nói rồi gảy khúc Ngự Phong, thanh âm lạnh lẽo đến gai người, thực là tuyệt trần đời, Lý phục sát đất xin tôn làm thầy.
Từ đó hai người trở thành bạn tri âm, tình thân càng gắn bó. Cứ như thế được hơn năm nữa, Trình truyền lại cho Lý hết mọi ngón đàn. Song mỗ khi Trình đến nhà, Lý chỉ đem cây đàn thường ra chơi, chưa từng đưa dùng cây đàn quý.
Tối đó khi đã say ngà ngà, Trình nói:
- Tôi mới soạn được một bản đàn, không biết anh có thích nghe không?
Rồi ông ta gảy khúc Tương Phi vừa soạn ấy, tiếng đàn sao mà ai oán sầu thương. Lý khen hết lời. Trình bảo:
- Chỉ tiếc không có cây đàn tốt. Nếu không thì âm điệu còn hay hơn gấp bội.
Lý hởn hở:
- Tôi có một cây đàn khác hẳn đàn thường. Nay đã gặp tri âm sao dám giữ kín mãi.
Nói đoạn, mở hòm xách túi đàn bằng gấm ra. Trình mở ra, lấy vạt áo lau bụi, đặt đàn lên ghế chơi lại khúc nhạc vừa soạn, tiếng trong tiếng đục theo điệu, chơi hay quá làm mê mẩn cả tâm thần người nghe. Lý vừa nghe mà tay bất giác cứ đánh nhịp theo. Đàn dứt, Lý nói:
- Vẻ chi một chút tài mọn mà phụ cả cây đàn quý. Nên chi để tiện nội tấu một khúc thì cũng có thể lọt tai bậc tri âm được vài ba tiếng.
Lý kinh ngạc:
- Ôi bậc khuê các bên bác cũng tin diệu đến thế ư?
Trình cười:
- Những ngón vừa rồi là do tiện nội truyền cho cả.
- Tiếc rằng trong chốn buồng khuê tiểu sinh chưa kịp được nghe.
- Bọn ta chơi bời với nhau hai mà như một, có gì cần phải giới hạn tránh né. Ngày mai xin cho mang cay đàn này đi, tôi có thể khiến để bác được thưởng thức qua bức rèm the.
Lý bằng lòng, hôm sau xách đàn sang nhà Trình. Trình sai sửa soạn cỗ bàn để cùng vui chén, rồi mang đàn vào trong nhà, lát sau lại ra ngồi vào bàn.
Sau màn thấp thoáng bóng giai nhân, mùi hương lan tỏa ngào ngạt ra ngoài. Tiếng đàn nổi lên thánh thót không hiểu là khúc gì, chỉ thấy thổn thức cả con tim, rung động cả xương cốt, hồn như bay, phách như lạc. Tiếng đàn ngưng, Lý liếc mắt qua rèm thấy một tuyệt thế giai nhân khoảng ngoài hai chục tuổi xuân xanh.
Trình rót rượu vào chén lớn chuốc cho Lý. Trong rèm tiếng đàn đổi thành tiếng ngâm bài phú Nhân tình, cả thần hồn thần xác đều rung động, ngả nghiêng nâng chén quá say, rời mâm lên tiếng xin lại cây đàn. Trình can:
- Anh say rồi sợ ngã. Ngày mai xin lại mời đến để tiện nội trổ hết tài nghệ.
Lý chịu phép trở về.
Mai đến thì chốn công thất vắng tanh, chỉ có người lệ già coi cổng. Hỏi thăm Trình, người lệ già cho biết: Canh năm quan huyện đã đưa hết gia quyến đi, không biết về việc gì, chỉ hẹn ba ngày quay lại.
Đến hẹn, Lý lại tới ngóng trông tối mịt vẫn không thấy âm hao. Các nhân viên trong viện đều ngờ, bẩm lên quan trên rồi phá cửa vào nhà. Nhà trống hoang chỉ còn lại có bàn ghế giường chiếu. Quan trên cũng không rõ ra sao.
Lý mất cây đàn quý, bỏ ăn quên ngủ. Hỏi thăm các nhà trong khoảng vài nghìn dặm thì được biết: Trình sinh ở đất Sở ba năm trước đây vì quyên tiền mà được nhận chức ở Gia Tường. Bằng vào tên họ, que hương thì đất Sở không có người ấy. Hoặc có người nói chỉ có một đạo sĩ họ Trình, giỏi đàn kìm lại nghe đâu biết thuật luyện đàn, ba năm trước đây bỗng đi đâu mất không thấy về, Lý ngờ đúng là người ấy. Lại so sánh tuổi tác hình dung thì quả đúng không sai. Lúc ấy mới biết, đạo sĩ quyên tiền làm quan đều là vì cây đàn quý; kết bạn hơn một năm không nói gì đến âm luật rồi dần dần đưa đàn ra, rồi dạy đánh đàn, rồi lại mê hoặc bằng người đẹp; dần dà như thế ba năm lấy được đàn là băng đi tuốt.
Cách lừa bịp trong thiên hạ thì vô kể nhưng như đạo sĩ thì là một tay phong nhã trong làng bợm.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Liêu Trai Chí Dị
Tấm Gương Thu Hình
(Bát Đại Vương)



Lâm Thao Phùng sinh, tên thật là gì, người thuật chuyện không nhớ, chỉ biết chàng vốn dòng dõi thế gia nay đã sa sút rồi. Có người chài lưới thiếu nợ chàng mà không trả nổi, hễ lần nào bắt ba ba cùng loài cua đinh cũng đem biếu chàng. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, chàng thấy hình dạng lạ lùng, liền thả ra sông.
Sau đó có dịp đi thăm con rể trở về đến bờ sông Hoàng Hà trời đã chạng vạng, thấy một người say rượu, hai ba tiểu đồng theo sau, ngất ngưởng đi từ đầu kia tới, giáp mặt chàng hỏi chàng là ai đi đâu vậy? Chàng trả lời là kẻ đi đường. Người say giận nói:
- Chàng có tên họ gì, sao lại nói cụt ngủn là kẻ đi đường?
Đường xa trời tối, chàng sốt ruột đi về, cho nên chẳng buồn trả lời, cứ phăng phăng đi qua. Người say càng giận, nắm chặt lấy áo chàng không cho đi, mùi rượu xông lên sặc sụa. Chàng rất khó chịu mà cố sức gỡ mình ra không được bèn nói xẵng:
- Nhà ngươi tên chi?
Người say đáp giọng lè nhè:
- Ta là Lệnh Doãn cũ ở Nam Đô. Mà chú hỏi làm chi.
Chàng nói:
- Thế gian có thứ Lệnh Doãn như vậy, thật là chửi thiên hạ. Ấy, may là Lệnh doãn cũ, phải là Lệnh doãn mới, dễ thường phải giết hết người ta chăng?
Người say giận lắm, toan giở võ ra với chàng. Chàng dõng dạc nói:
- Ta đây là Phùng mỗ, không chịu anh đánh đâu.
Nguời say nghe nói, liền đổi giận làm vui, cúi mọp xuống lạy mà nói:
- Ngài là ân nhân của tôi, vừa rồi đường đột, xin đừng chấp trách.
Đoạn, trỗi dậy bảo tiểu đồng đi mau về nhà trước dọn rượu. Chàng từ chối không được, nắm tay cùng đi vài dặm, đến một xóm nhỏ. Vào trong thì nhà cửa sang trọng, như phủ đệ qúy nhân. Sau khi thấy chủ nhân đã tỉnh rượu, chàng mới hỏi thăm tên họ là gì. Chủ nhân nói:
- Thú thật với ông xin ông chớ kinh hãi. Tôi là bát Đại Vương ở sông Thao đây. Mới đây, Thanh Đồng ở Sơn Tây mời đi uống rượu trở về có hơi quá say, nên mới xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn.
Chàng biết là yêu quái nhưng thấy tình ý niềm nở cho nên chẳng sợ hãi. Giây lát tiệc bày linh đình, mời chàng uống rượu nói chuyện. Bát vương uống cực hăng một hơi đã cạn luôn mấy ly lớn. Chàng sợ hắn lại say, sinh sự rắc rối như hồi nãy, bèn giã đò mình say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý, cười nói:
- Ông sợ tôi say quá hóa cuồng chăng? Xin ông chớ lo. Phàm người say nói xằng làm bậy, mà bảo rằng qua sáng mà tỉnh rượu, không còn nhớ gì việc mình là, ấy là nói dối, nhưng đối với người trưởng giả như ngài, thật không dám làm điều vô hạnh. Tại sao ngài cự tuyệt tôi như thế?
Chàng nể lòng, lại ngồi xuống, nghiêm sắc mặt can gián:
- Ông đã tự biết mình lầm lỗi, sao không sử đổi đi?
Bát vương đáp:
- Lão phu hồi làm Lệnh Doãn, say sưa be bét còn quá ngày nay. Từ ngày chọc giận Thượng đế, bị đày ở cù lao, cố chừa thói cũ, được hơn mười năm. Nay nghĩ mình già yếu sắp sửa vào hòm, mà tấm thân còn vất vả chẳng được vẫy vùng, cho nên thói cũ lại muốn trở lại mà không tự biết đó thô. Nay được ngày khuyên bảo, tôi xin vâng lời.
Còn đang nói chuyện, thì nghe thấy tiếng chuông chùa xa đã gõ. Bát vương đứng dậy cầm tay chàng nói:
- Tôi cùng ngài tụ họp không được lâu, vậy có một vật báu, xin tặng ngài để báo đáp ơn xưa. Vật này chẳng nên mang lâu. chừng được như nguyện rồi, xin trả lại cho tôi.
Nói đoạn, khạc trong miệng ra một hình nhân bé tí hon, độ chừng một tấc, rồi móng tay nọn rạch cánh tay chàng đau như xé ruột, vội vàng đặt hình nhân lên trên mà đè thật mạnh. Khi buông tay thì hình nhân đã lọt vào da thịt, mà dấu móng tay còn rành rành. Chàng sợ hãi cuống quít, Bát vương cười mà không đáp, chỉ nói rằng:
- Ngài nên đi thôi.
Đoạn tiễn chân chàng ra cửa. Bát vương trở lại.
Chàng ngoảnh lại, xóm làng nhà cửa đều biến mất, duy một con ba ba đang bò xuống sông, chàng sửng sốt giây lâu tự nghĩ vật báu mới cho tất là ngọc ba ba.
Từ đó cặp mắt cực sáng; phàm chỗ nào có châu báu, dù ở suối vàng cũng trông thấy. Ngay đến vật gì thuở nay không từng biết bao giờ cũng ứng khẩu nói ra đích danh. Nhờ vậy mà đào lên được mấy trăm bạc chôn giấu ngay trong buồng ngủ, thành ra sự ăn tiêu hơi phóng túc.
Sau có người bán ngôi nhà cũ, chàng dòm thấy tiền bạc chôn giấu nhiều lắm, bèn mua giá đắt để làm nhà ở. Dần dà giàu có ngang bậc vương hầu, phàm loại ngọc quý trong thiên hạ, nhà chàng sưu tập tích súc đủ cả.
Trong số đó có một tấm gương, sau lưng chạm trỏ hình chim phượng và bà Tương Phi, bề mặt chiếu sáng tới ngót một dặm, rõ ràng từ mảy tóc sợi lông, có thể đếm được.
Nhất là mỹ nhân nào soi gương này, tức thời hình dạng in vào gương, chùi lau cách gì cũng không mất được. Nếu người đó thay quần áo khác mà soi lại, hoặc một mỹ nhân khác soi thì hình ảnh in trước mới được mất đi.
Lúc bấy giờ, bà chúa Ba, con gái Túc vương ( tức là Túc Trang Vương), hoàng tử thứ mười bốn của Thái tổ nhà Minh nhan sắc tuyệt đẹp, chàng vẫn nghe danh mộ tiếng. Nhân dịp bà chúa đi chơi núi Không Động, chàng đi trước, lén núp trong hang, rình khi chúa ở trên kiệu bước xuống, lấy gương ra thu hình ảnh rồi mang về.
Chàng về, đặt gương trên bàn, nhìn kỹ, thấy mỹ nhân ơ trong, tay cầm khăn, miệng mỉm cười và mấp máy muốn nói, làn sóng mắt cũng long lanh muốn động, chàng mừng quá giấu kỹ một nơi.
Hơn một năm, vợ ngồi lê đôi mách, nói lộ chuyện ấy ra, lọt đến tai Túc phủ.
Túc vương cả giận, bắt giam chàng lại, đòi lấy tấm gương và định đem đi chém. Chàng hối lộ rất nhiều cho một vị thân tín trong phủ, nhờ băn tin với Túc vương rằng:
- Nếu vương tha thì của gì báu nhất trên đời, muốn có cũng dễ. Bằng không, tôi chỉ chết là cùng, sự đó lại chẳng ích lợi gì cho vương.
Túc vương muốn tịch thu gia sản và đày chàng đi xa. Chúa Ba nói:
- Hắn đã dòm con rồi, dù hắn chết mười phần, cũng không gội rửa cái nhơ bẩn này, chi bằng gả con cho hắn là hơn.
Vương không nghe. Chúa đóng cửa không chịu ăn. Vương phi lo quá, hết sức nói với vương, bấy giờ vương mới chịu thả chàng ra khỏi ngục, lại sai người thân ngỏ ý với chàng. Chàng từ chối:
- Vợ tôi lấy từ thuở hàn vì, nghĩa không sao bỏ đặng. Tôi thà chết, chứ không dám phụng mạng. Nếu vương cho tôi chuộc tội thì hết nhà hết cửa cũng cam.
Vương giận lắm, lại bắt chàng giam ngục.
Bà vương phi vời vợ chàng vào trong cung, toan đánh thuốc độc cho chết. Nàng đem chiếc giá gương bằng san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ cực mềm mỏng. Vương phi rất vui lòng, sai giáp mặt Chúa Ba, chúa cũng ưng ý, đính ước làm chị em, rồi sai người vào ngục dụ dỗ chàng nữa. Chàng nhắn bảo vợ: “Con nhà vương hầu, không nên kể trước sau mà bàn chuyện lớn bé được”.
Vợ không nghe, cứ việc sắm lễ vật, đưa nộp vương phủ. Số người mang đội lễ có hàng ngàn, nhiều thứ châu báu quý ngọc lạ, nhà vương không biết tên gì. Vương mừng thả chàng về làm lễ cưới với chúa. Hôm chúa về nhà chồng, cũng đem gương báu cùng về.
Một đêm chàng nằm một mình, mộng thấy Bát vương nghênh ngang đi vào nói:
- Món đồ tôi tặng năm xưa, giờ nên trả lại. Mang nó trong mình lâu quá tổn hao tâm quyết và haị mạng nữa.
Chàng xin vâng, muốn cầm giữ Bát vương ở lại uống rượu chơi, nhưng Bát vương từ chối:
- Thôi, rượu thì tôi xin kiếu. Từ lúc nghe lời ông khuyên can, tôi bỏ dứt hơi men, được ba năm rồi.
Đoạn há miệng cắn vào tay chàng. Đau quá chàng tỉnh dậy, xem cục thịt nổi đã tiêu mất rồi. Từ đó y như người bình thường.



ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Gái Báo Thù Cha
(Thượng Tam Quan)



Xưa ở Chư Cát Thành có Thường Sĩ Vũ là kẻ sĩ nhân. Do say rượu nói điều ngỗ ngược với vị huyện hào, Thường bị vị nọ sai gia nô túm lại đánh cho tơi bời, về đến nhà thì chết.
Thường có hai con trai, cả tên Thần, thứ tên Lễ, người con gái là Tam Quan, tuổi vừa trăng tròn lẻ, đẽ hẹn kỳ xuất giá, song vì việc cha phải dừng. Hai anh đâm đơn kiện, một năm ròng chưa được hỏi đến. Nhà trai sai người đến thăm dò hỏi ý kiến bà mẹ xin cho được tòng quyền cưới chạy tang. Bà mẹ đã xiêu nhưng cô gái thưa lại:
- Cha mất chưa kịp lạnh, sao có thể tính chuyện vui mừng? Dễ họ không có cha mẹ hay sao?
Nhà trai nghe thấy điều ấy, lấy làm xấu hổ đành bỏ ý định.
Không bao lâu, vụ kiện không được xét, hai người anh trai đành đội đơn về, cả nhà khôn xiết đau thương. Hai anh bàn hãy lưu thi hài cha, chưa chôn cất vội để tiếp tục theo kiện, Tam Quan nói:
- Người bị sát hại mà không được xử, đủ biết sự thế ngày nay như thế nào rồi?Có dễ trời sinh riêng cho anh em ta một Bao Công chăng? Ta nỡ lòng nào cứ để thi hài cha phơi mãi như thế!
Hai anh phục lời nói ấy, liền lo ngay việc mai táng cha.
Việc tang vừa xong, bỗng ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Bà mẹ coi chuyện này là điều tủi hổ cho gia phong nên sợ nhà trai nghe thấy, không dám để lộ chuyện với bà con họ hàng, chỉ rỉ tai hai con trai phải kín đáo dò tìm xem sao. Song nửa năm dã qua vẫn không thấy tăm tích Tam Quan.
Gặp dịp huyện hào bày lễ mừng thọ, gọi phường hát đến mua vui. Trùm phường họ Tân, dẫn theo hai đàm em giúp việc, một gã tên Vương Thành dung mạo bình thường nhưng tiếng trong vắt, mọi người tán thưởng lắm; một gã tên Lý Ngọc, mặt mày xinh đẹp như con gái, chủ bảo hát cứ cố từ rằng không được thường luyện, nài ép mãi thì ca giọng hát nửa phần lẫn lộn những khúc điệu dân ca của đàn bà con gái. Nghe xong cả đám vỗ tay cười rầm rĩ. Tân xấu hổ quá, phải thưa thực với chủ:
- Nó mới học chưa được bao lâu chỉ mới biết hầu rượu xin chớ trách mắng.
Rồi Tân sai gã ta đi chuốc rượu. Lý Ngọc lại qua nhẹ nhàng lúng liếng khi rót ra mời, lại rất khéo chiều ý hướng của chủ khiến ông ta đẹp lòng lắm.
Rượu tàn, khách về, huyện hào lưu Ngọc lại cùng ngủ. Ngọc rũ giưòng cởi giày cho chủ ân cần, chu đáo lắm. Huyện hào vờ say rượu ôm ấp cợt nhả, Ngọc chỉ mỉm cười, cho nên lão ta càng mê tợn. Hắn đuổi hết đầy tớ ra chỉ để một mình Ngọc lại. Ngọc đợi mọi người ra hết liền đóng cửa, khóa trái.
Bọn đầy tớ sang nhà khác ăn uống. Lát sau nghe thấy tiếng động công cốc trên sảnh nơi chủ ngủ, một người chạy sang, chỉ thấy trong sảnh tối đen như mực, im lặng như tờ, quay trở về, bỗng nghe tiếng huỵnh như có vật gì nặng treo cao đứt dây rơi xuống. Lên tiếng hỏi, không thấy trả lời. Gọi mọi người phá cửa vào, thấy chủ nhân đầu lìa khỏi xác. Còn Ngọc thì treo cổ tự tử, dây đứt xác rơi xuống đất. Trên xác vẫn còn lủng lẳng một đoạn dây.
Mọi người trong nhà kinh hãi, tụ tập bàn tán, không hiểu ra sao. Họ khiêng xác Ngọc ra sân, thấy trong giày và bít tất dường như không có bàn chân, cởi ra thì thấy bàn chân bó nhỏ, hóa ra là con gái. Họ lại càng hoảng gọi Tân đến gặng hỏi. Tân hãi quá, không biết trả lời thế nào, chỉ biết sơ sài: “Tháng trước, Ngọc đến xin làm đàn em, được đi theo đến cuộc lễ mừng thọ, thực không biết từ đâu đến”.
Vì thấy Ngọc mang đồ tang, họ ngờ là thích khách nhà họ Thương, tạm cử hai người trông coi xác. Cô gái nét mặt vẫn đẹp như ngọc, vỗ về thì thân thể tay chân ấm lại. Hai chàng máu dê liền giở trò khả ố. Một anh ôm lấy thi thể vần vò xoay nghiêng xoay ngửa, đang lần cởi giải thì đầu như một đòn búa bổ, máu mồm, máu mũi hộc ra, chết đứ đừ, còn anh kia thoát chết, kể chuyện lại với mọi người. Co gái được coi như thần.
Vụ này được báo lên quận, Quan hỏi Thần và Lễ, họ đều nói không biết gì, còn cô em Tam Quan thì đã bỏ nhà đi từ nửa năm rồi. Họ đến thử xem thì đúng là Tam Quan. Quan cũng phải coi điều kỳ lạ, truyền hai anh em mang thi hài em về mai táng, lại sức khuyên nhà huyện hào chớ có cậy thế gây thù chuốc oán nữa.



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Bức Họa Trên Tường
Dịch Giả : Nguyễn Huệ Chi


Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.
Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.
Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.
Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.
Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.
Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.
Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.
Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:
- Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?
Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.
Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:
- Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.
Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.
Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.
Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.
Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.
Sứ giả nói:
- Ðã đủ chưa?
Có tiếng đáp:
- Ðủ cả rồi.
Sứ giả lại nói:
- Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.
Cả bọn đồng thanh đáp:
- Không có đâu!
Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.
Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:
- Mau trốn xuống gầm giường.
Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.
Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.
Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.
Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.
Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.
Vị sư cười đáp:
- Ði nghe thuyết pháp rồi.
Mạnh Long Ðàm hỏi:
- Ở đâu?
Nhà Sư đáp:
- Không xa.
Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:
- Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?
Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.
Nhà Sư lại gọi tiếp:
- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.
Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.
Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.
Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.
Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.
Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.
Nhà Sư cười đáp:
- Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!
Chu ỉu xìu mất cả khí thế.
Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.


Liêu Trai Chí Dị
Hồ Gã Con
Dịch Giả : Nguyễn Huệ Chi



Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.
Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.
Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:
- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.
Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:
- Khó gì việc ấy:
Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:
- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.
Ân cười đáp lại:
- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng
Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.
Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.
Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.
Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.
Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.
Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.
Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:
- Có người lạ trên này.
Người bên dưới hỏi:
- Ai vậy?
- Cô gái đáp rằng:
- Không biết.
Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:
- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.
Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.
Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.
Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:
- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.
Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:
- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.
Ông già đáp:
- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào
Ân cũng mừng, nhận lời.
Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.
Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:
- Ðây là tiện nội.
Ông vái chào lại.
Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:
- Ðến rồi!
Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.
Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.
Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.
Ông già bảo hãy chào quan khách trước.
Chàng trai đưa mắt nhìn ông.
Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.
Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.
Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.
Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.
Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.
Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.
Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.
Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.
Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.
Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp.
Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.
Ân nghĩ:
-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.
Mọi người đều nói:
- Ông lớn say rồi!
Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.
Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.
Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy.
Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.
Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.
Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.
Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường.
Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.
Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào.
Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.
Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.
Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.
Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.
Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận.
Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.
Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào.
Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:
- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.
Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.
Ân cười bảo:
- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.
Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.
Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.
Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.
Liêu Trai Chí Dị
Mưa Tiền
(Vũ tiền)



Thư sinh tú tài xứ Tân Châu đang đọc sách trong phòng học thì có tiếng gõ cữa. Một ông già tóc trắng phơ phơ, dáng người cũ kỹ bước vào.
Thư sinh đón mời vào hỏi họ tên. Ông cụ cho biết ông họ Hồ, tên Dưỡng Chân, vốn là hồ tiên, vì mến mộ chàng là người coa nhã, xin được đến cùng ăn ở sớm khuya.
Thư sinh tính khí khoáng đạt cho nên cũng không nghi ngại gì, hàng ngày cùng nhau bàn luận cổ kim. Ông cụ đặc biệt uyên bác, nói năng vanh vách như nhả ngọc phun châu, về mặt kinh nghĩa lại càng sâu sắc. Thư sinh tự thấy mình không thể kịp, càng kính phục lắm, lưu ông cụ ở lại rất lâu.
Một hôm thư sinh ngỏ lời tâm tình:
- Cụ thấy tôi là người hiền lành, phúc hậu mà lại nghèo khổ thế này. Cụ chỉ ra tay một chút là vàng bạc đến ngay, sao cụ không gia ơn cho chút đỉnh?
Ông cụ “hừ” một tiếng, tựa như cho là không thể được. Nhưng lát sau lại cười bảo:
- Việc đó cực dễ! Nhưng phải có mười đồng tiền mẹ làm mồi.
Thư sinh đưa ra đủ. Ông cụ dẫn vào một cái buồng kín đáo rồi làm phép, bắt quyết đọc chú. Chỉ một lát bỗng hàng chục vạn, tặm vạn đồng tiền từ trên nóc nhà loảng xoảng rơi xuống y như mưa rào vậy. Loáng cái đã ngập đến đầu gối người đứng dưới, rút chân đứng lên trên tiền lại ngập đến bắp vế. Một căn nhà rộng mênh mông mà tiền ngập đến ba, bốn thước.
Ông cụ quay lại hỏi chàng thư sinh:
- Thế nào, vừa ý anh chưa?
- Thưa đủ rồi - Chàng hoan hỉ trả lời.
Ông cụ vẫy tay một cái mưa tiền ngưng lại. Rồi cùng nhau đóng cửa gài then đi ra.
Chàng thư sinh mừng quá chắc mẩm phen này giàu nứt đố đổ vách. Lát sau phải vào căn nhà ấy để lấy đồ thì ôi thôi, căn nhà đầy tiền đã rỗng không. Chỉ còn mười đồng tiền mẹ làm mồi, nằm chỏng chơ ở đó.
Hy vọng thế là tiêu tan, chàng thư sinh tức điên lên, oán trách ông già lừa mình. Ông già nổi giận mắng lại:
- Lão này với anh chỉ là bạn văn chương chữ nghĩa, chứ không định cùng anh làm giặc. Muốn được như ý của anh thì phải kết thân với bọn trèo tường khóet vách, chứ lão đây không thể vâng mệnh!
Nói rồi phủi áo bỏ đi.


NGUYỄN VĂN HUYỂN dịch

Liêu Trai Chí Dị
Thuật Mồm
( Khẩu kỹ)



Có một cô gái tuổi chừng hai bốn, hai nhăm, khoác một túi thuốc đến làng bán. Người đến chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn bốc thuốc, khất đợi tối đến hỏi thần.
Tối đến, cô ta dọn dẹp sạch sẽ căn buồng nhỏ, cài chặt cửa bên trong. Mọi người xúm đến quanh cửa sổ nhưng chỉ dám thầm thào nói nhỏ không dám ho. Trong ngoài lặng ngắt như tờ. Khoảng nửa trống canh sau bỗng rèm động, cô hàng thuốc hỏi:
- Cô Chín đến đấy ư?
Tiếng con gái đáp:
- Đến đây.
Lại hỏi:
- Lạp Mai có theo hầu cô Chín đến đây không?
Ả thị tì trả lời:
- Đến rồi ạ!
Ba người líu ríu trò chuyện. Lát sau, rèm lại động, cô bán thuốc reo lên:
- A! Cô Sáu đến rồi.
Tiếng tíu tít hỏi:
- Xuân Mai có bế cậu nhỏ theo không?
Tiếng một ả khác:
- Cậu cứ khóc không chịu ngủ, nằng nặc đòi theo nương tử. Gớm, nặng đến hàng tạ, cõng tưởng chết người.
Rồi tiếng cô bán thuốc ân cần, tiếng cô Chín thăm hỏi, tiếng cô Sáu hàn huyên, tiếng hai thị tì rúc rích, tiếng cậu bè cười đùa, tất cả cứ rối rít lên. Lại nghe cô hàng thuốc cười nói:
- Chàng nhỏ này nghịch quá xá, xa thế mà còn đem theo cả con mèo.
Sau đó lời qua tiếng lại thưa thớt dần. Bỗng rèm lại động. Gian buồng lại lao nhao lên:
- Cô Bốn sao đến chậm vậy?
Tiếng một cô bé gái lí nhí:
- Đường xa hơn nghìn dặm, đi với cô bao nhiêu lâu mới tới được. Cô đi hơi chậm.
Rồi tiếng nói chuyện dông dài, tiếng chuyển chỗ, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ láo nháo lào nhào, phải chừng giập bả trầu mới tạm ngớt.
Đến lúc cô hàng thuốc cầu xin đơn thuốc. Cô Chín nói phải có sâm. Cô Sáu nói phải có kỳ. Cô Bốn nói phải có truật, cùng bàn nhau châm chước. Một lúc có tiếng cô Chín lấy bút nghiên, tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt cán bút canh cánh, tiếng mài mực rí rách, tiếng cầm bút viết, tiếng chân chạm ghế, rồi tiếng gói thuốc loạt soạt.
Lát sau, cô hàng thuốc vén rèm gọi con bệnh nhận thuốc lấy đơn. Khi cô ta quay vào buồng, tức thì tiếng bà cô cáo biệt, tiếng bà thị tì cáo biệt, tiếng cô bé bi bô, tiếng con mèo meo meo, tất cả lại rộ lên. Giọng cô Chín trong, hơi cao. Giọng cô Sáu chậm mà buồn. Giọng cô Bốn mềm mại dịu dàng. Gịong ba ả thị tì đều có sắc thái riêng nghe thường có thể phân biệt.
Dân làng tin là thần giàng thật, song uống thuốc thử không kiến hiệu.
Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc cho chạy. Song ở đời cũng khối việc kỳ như vậy!



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Liêu Trai Chí Dị
Kiếm Khách
( kiếm khách)



Đổng sinh, người Từ Châu ưa thích kiếm thuật thường hay khoe khoang tự phụ. Một hôm đi cùng đường với một người lạ. Sinh gợi chuyện làm quen tuôn ra toàn giọng an hùng quá đáng. Được biết người ấy họ Đổng ở đất Liêu Dương, Sinh hỏi ông ta đi đâu. Người ấy đáp:
- Tôi xa nhà lang bạc đã hai mươi năm nay, vừa từ hải ngoại về.
-Ông ngao du bốn bể, gặp người cũng nhiều, có thấy bậc dị nhân nào không?
- Dị nhân về mặt nào?
Đổng kể sở thích của mình và lấy làm tiếc không được bâc dị nhân nào truyền cho kiếm thuật. Người lại hỏi:
- Ở đâu mà chẳng có dị nhân. Song phải là tôi trung, con hiếu thì mới mong được dị nhân truyền cho.
Đổng hứng chí huênh hoang là mìn sẽ làm được như thế. Rồi rút gươm ra, vỗ vào gươm mà hát. Nhân đà hưng phấn, Đổng phạt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Khách vuốt râu mỉm cười, tiện thể mượn gươm ngắm xem, Đổng đưa cho xem lấy lệ. Khác chê:
- Đây là thứ kiếm xoàng, thép đã non lại ám mồ hôi. Kẻ hèn này tuy chưa nghe về kiếm thuật nhưng cũng sẳn có một thanh dùng được.
Nói rồi ông rút trong áo ra một thanh đoản kiếm chừng một thước, lấy nó gọt gươm của Đổng ngọt như cạo khoai. Tiện tay lại phạt một ô đất chằn chặn như tiện. Đổng phát khiếp nằng nặc đòi xem, rồi lại ngứa ngáy nghề cầm lấy múa máy trông như phủi bụi. Rồi Đổng mời người nọ về nhà cố lưu lại một đêm, lân la hỏi han về kiếm pháp. Khách một mực tạ từ không biết. Đổng phải quỳ gối xin, lời lẽ vẫn hùng hồn trống rỗng. Khách chỉ kính cẩn lặng im ngồi nghe.
Đêm đã khuya. Bỗng ở nhà bên-nhà cha mẹ Đổng ở- có tiếng ồn ào mã bắt. Đổng sợ hãi không biết chuyện gì, vội chạy đến sát tườnội giámnghe. Có tiếng quát tháo:
- Gọi con mày ra chịu tội chết. Nếu không sẽ bắt mày.
Rồi tiếng đánh đập tới tấp. Tiếng rên rỉ không dứt. Đúng là tiếng cha của Đổng.
Đổng vớ lấy ngọn mác muốn xông sang. Khách ngăn lại:
- Ra khỏi đây, e anh khó thóat chết. Hãy nên xét kỹ được vẹn toàn.
Đổng đâm hoảng xin chỉ giáo cho, khách nói:
- Quân cướp tìm bắt anh là rắp tâm muốn giết anh. Anh không còn ai là cốt nhục ở đây, vậy nên dặn dò trối trăn lại vợ con đã. Tôi sẽ mở cửa giúp anh trị tội bọn ấy.
Đổng theo lời, vào nói với vợ. Vợ níu lấy áo khóc. Thế là bao “hùng khí” ở Đổng bỗng chốc xẹp hết. Anh ta theo khách lên lầu, tìm cung, tìm tên để đề phòng bọn cướp đánh sang. Anh ta còn hoảng hốt đã nghe tiếng khách trên mái lầu cười ha hả:
- May quá, cướp chạy rồi!
Đổng vội đốt đuốc lên, thì khách đã biến đâu mất, thập thò cổ ngó sang nhìn nhà bên thì Đổng ông đang ở hàng xóm uống rượu. Đốt đèn mời ông về nhà chỉ thấy trên sân đầy cỏ may và than bụi.
Mới biết ông khách lạ đó chính là dị nhân.
Trung hiếu là quý tính của người xưa. Xưa nay những kẻ là con không thể xả thân vì cha, lúc đầu há không có một chút toan cầm mác xông ra như Đổng ư? Cuối cùng chỉ cần trong nháy mắt lại nhầm lẫn u mê. Ngày xưa Giả Đại Thân và Phương Hiếu Nhu đã thề cùng nhau sống chết thế mà sau lại nuốt lời (1). Biết đâu khi về nhà lại nghe tiếng bạn cầu cứu ở đầu giường.
Làng ta có một anh lính thuộc loại vô lại. Một hôm đi đâu trở về, hắn bắt gặp một chàng trai trẻ từ trong buồng vợ mình ra. Ngờ vực, căn vặn vợ, vợ khăng khăng chối. Sau hắn bắt được tang chứng gã trai kia để lại ở đầu giường, vợ không chối được quỳ xuống khóc lóc xin tha tội. Hắn giận lắm, vứt cho cuộn dậy bắt phải thắt cổ chết. Vợ xin vào buồng trang điểm, hắn ngồi đợi ngoài, vừa rót rượu uống vừa chửi mắng thúc giục. Lát sau, cô vợ lộng lẫy trong y phục choáng lộn bước ra, nuốt lệ trách:
- Anh nhẫn tâm quá, nỡ bắt tấm thân xấu xa hèn mọn này chết thật ư?
Hắn vẫ làm vẻ tức giận, đùng đùng quát tháo ầm ĩ. Vợ không làm thế nào được đành trở vào buồng, vừa định tròng dây vào cổ thì chồng nâng chén rượu giật giọng gọi ra cười hềnh hệch:
- Thôi ra đây ta bảo: Một thằng khăn xanh (2) như ta lẽ nào bắt người khác chết được ư?
Rồi lại ăn ở với nhau khắn khít nồng nàn như thuở ban đầu.
Anh này cũng loại Đại Thân, Đổng Sinh. Đáng buồn cười vậy.



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) theo Minh sử: Giả Đại Thần thời Hồng Vũ (Minh Thái Tổ, từ năm 1368) kết nghĩa cùng với một số danh sĩ trong đó có Hiếu Nhu, thề sống chết hoạn nạn có nhau. Sau Hiếu Nhu bị phanh thây ngoài chợ, có vài người bạn chết theo, còn phần lớn nuốt lời làm ngơ.
(2) thời Xuân Thu, ở TQ có những kẻ chuyên buôn bán đổi chác vợ kiếm lời, gọi là “xuớng phu”. Bọn này phải lấy khăn xanh bịt đầu để phân biệt với các loại người sang. Sau gọi chung những kẻ bịt đầu xanh (lục đầu cân) là loại ti tiện.
Liêu Trai Chí Dị
Lấy Vợ Công Chúa
(Vân La công chúa)





An Đại Nghiệp, người Lô Long, mới lọt lòng đã biết nói, bà mẹ phải lấy máu chó đổ cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai, chẳng ai bì kịp, lại thông minh học giỏi, nhiều nhà giàu sang muốn gả con gái cho.
Lúc trước, bà mẹ thường chiêm bao thần dạy:
- Con mụ sẽ lấy công chúa.
Trong bụng rất tin. Nhưng con đến mười lăm, mười sáu tuổi, chưa thấy linh nghiệm, khiến bà lần hồi ăn năn mình tin thần mộng quàng xiên.
Bữa nọ, An ngồi một mình, chợt có mùi thơm lạ sực nức, rồi một thị nữ đẹp chạy vào nói:
- Công chúa đến.
Vừa nói vừa trải chiếu dài trên mặt đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà, khít bên giường chàng ngồi. Chàng đang kinh ngạc hốt hoảng, thấy một thiếu nữ vịn vai gái hầu lững thững bước vào, y phục dung nhan sáng chiếu khắp nhà. Gái hầu lấy gối thêu, nệm gấm lót trên giường, rồi đỡ thiếu nữ ngồi xuống.
An luýnh quýnh không biết làm sao, vòng tay nói rất cung kính:
- Ngài là thần tiên ở núi nào, động nào, có lòng đoái tưởng, chịu dời gót giáng lâm nhà tôi?
Nàng mỉm cười, lấy tay áo che miệng không nói gì. Thị nữ nói:
- Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Vì Thánh Hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự đến xem nhà cửa đó.
Chàng mừng quá không nói ra lời. Nàng cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau làm thinh.
Bình nhật chàng vốn thích đánh cờ, bàn cờ thường để bên cạnh. Một thị nữ lấy khăn đỏ lau bụi sạch sẽ, đem ra đặt trên bàn và nói:
- Thường ngày công chúa ưa cuộc tiêu khiển này, thử chơi với lang quân xem ai thắng nào?
Chàng dời ghế gần. Công chúa cười và gật đầu ưng thuận. Hai người qua lại độ ba chục nước, thị nữ thò tay xoá bàn cờ và nói:
- Thôi phò mã thua rồi.
Lượm quân cờ bỏ vào hộp, nói tiếp:
- Có lẽ phò mã là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ có thể nhường sáu con thôi.
Liền chọn sáu con cờ đem ra bày lại bàn cờ, công chúa cũng gật đầu.
Lúc nàng ngồi đánh cờ, sai thị nữ ngồi dưới, đưa lưng cho nàng gác cẳng, còn cẳng kia thõng xuống đất, thì một thị nữ khác phục xuống mà đỡ. Hai bên hai con bé đứng hầu. Mỗi lúc An ngẫm nghĩ nước cờ khó khăn, nàng co một cánh tay gác lên vai, ngồi đợi.
Ván cờ đánh mãi chưa phân thắng phụ, con hầu nhỏ cười nói:
- Phò mã thua một con.
Nhân dịp, thị nữ xen vào, thưa:
- Công chúa đã mệt mỏi, nên dẹp đi thôi.
Nàng nghiêng mình nói nhỏ bên tai thị nữ điều gì không rõ. Thị nữ chạy ra, giây lát trở lại, đặt ngàn vàng trên giường và bảo chàng:
- Mới rồi công chúa nói nhà cửa ẩm thấp, chật chội, vậy phiền lang quân dùng số tiền này sửa sang lại, sửa xong thì sum họp đó.
Một thị nữ khác nói:
- Tháng này phạm vào sao Thiên Hình, không nên xây dựng gì cả. Qua tháng sau tốt lắm.
Công chúa đứng dậy, chàng ra trước mở cửa. Thị nữ lấy ra một vật trông giống như cái túi bằng da, liền gõ tại đó, tức thì có mây ở bên trong toả ra tứ phía rồi thì hợp lại, mù mịt chẳng trông thấy công chúa và bọn tuỳ tùng đâu nữa.
Mẹ chàng hay chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng chàng mơ tưởng mẩn mê, không sao quên được, lo gấp công việc cất nhà bất chấp ngày tháng kiêng kị. Chàng hối thúc thợ làm, không mấy ngày mà cửa nhà mới hẳn.
Nguyên trước có người học trò Loan Châu, tên là Viên Đại Dụng, đến trọ ở xóm bên, đưa danh thiếp vào tận nhà chàng để xin ra mắt. Chàng vốn ít giao du bè bạn, cho nên thác cớ đi vắng không tiếp, lại dò được hồi Viên không có ở nhà tọ, mà đến chơi đáp lễ.
Hơn tháng sau, thình lình gặp nhau ngoài cửa, té ra Viên là chàng thiếu niên mới ngoài đôi mươi, y phục thanh nhã. An đứng nói chuyện qua loa, thấy người rất đứng đắn, trong bụng khoái lắm, liền mời vào nhà đánh cờ tướng chơi, mỗi bên đều có hơn thua. Sau đó bày rượu ra uống liên miên, chuyện vãn cực tương đắc.
Ngày hôm sau, Viên mời chàng đến nhà trọ mình, cũng đãi tiệc rượu ân cần tử tế. Có thằng tiểu đồng lối mười hai, mười ba gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui.
Chàng say quá bước đi không nổi, Viên sai tiểu đồng cõng về. Chàng thấy nó nhỏ con, yếu đuối, sợ không cõng mình đặng, nhưng Viên một hai bảo cứ để nó cõng xem. Quả nhiên nó chàng về nhà khoẻ re. Chàng lấy làm kì. Hôm sau đem tiền đến thưởng nó, nó chối từ đôi ba phen rồi mới chịu lãnh.
Từ đó, Viên với chàng giao tình thân mật, cách đôi ba ngày lại đến nhà nhau một lần.
Viên có tính sơ sài, lặng lẽ, mà khảng khái hay giúp đỡ người ta. Trong chợ có kẻ mắc nợ phải bán con gái đi, Viên trút túi ra chuộc giùm, không có vẻ tiếc của chút nào. Vì thế An càng kính trọng.
Cách mấy hôm sau, Viên đến từ giã chàng, tặng những đũa ngà, kì nam, cả thảy mười món, lại thêm năm trăm đồng bạc để giúp chàng chữa nhà. Chàng trả bạc lại, chỉ lấy đồ vật, và đưa vải lụa tặng lại.
Vài tháng sau đó, ấp Lạc Đình có người đi làm quan xa về, hòm xiểng đầy nhóc của cải. Đêm khuya, cướp vào nhà, bắt trói chủ nhân mà nung sắt nướng kìm, tra tấn thảm độc, rồi vơ vét sạch sành sanh.
Người nhà biết họ Viên làm vụ đó, bèn trình báo quan sở tại. Quan tư giấy khắp nơi tróc nã.
Lối xóm An có nhà họ Đồ, ngày thường vốn xích mích với nhà chàng, nay thấy chàng xây dựng cửa nhà to tát, trong bụng âm thầm ghen tức. Sẵn dịp có thằng nhỏ ở của chàng lấy trộm đũa ngà, đem đến nhà Đồ dạm bán. Đồ biết là vật của Viên tặng, liền báo quan huyện.
Huyện sai lính kéo về bao vây nhà chàng, nhằm lúc chàng với tôi tớ vắng mặt, liền bắt mẹ chàng đi. Bà cụ già yếu lại bị kinh khủng, thở không ra hơi, luôn hai ba bữa không ăn uống gì cả, quan huyện thả cho về.
Chàng nghe tin mẹ, vội vã trở về nhà, thì mẹ đã bệnh nguy rồi, hôm sau qua đời. Thu liệm vừa xong còn chưa kịp chôn, thì chàng đã bị lính huyện áp giải đi.
Quan huyện thấy bộ tịch trẻ trung nho nhã, thầm nghĩ chàng bị vu oan, nhưng bề ngoài cũng làm ra nạt nộ. Chàng nói thật nguyên do kết bạn với Viên, không giấu một chút nào. Quan lại hỏi tự nhiên phát giàu là của ở đâu, chàng đáp:
- Mẹ tôi có chôn giấu được ít nhiều tiền của, nay tôi sắp sửa lấy vợ, cho nên sửa sang nhà cửa, thế thôi.
Quan huyện tin lời, liền viết tờ bẩm và cho lính đưa chàng lên quận xét nghỉ. Thằng cha hàng xóm là họ Đồ kia, biết thế nào lên quận chàng cũng vô sự, bèn đem nhiều tiền hối lộ cho tụi lính áp giải để chúng giết chàng ở dọc đường là xong.
Đường đi lên quận, phải qua núi sâu, lính kéo chàng đến sườn núi lởm chởm, rồi đấy xuống vực sâu là rồi đời. Giữa lúc thiên nguy vạn cấp đó, bỗng dưng một con cọp từ trong bụi rậm nhảy ra, cắn hai tên lính chết rồi tha chàng đến một nơi có lâu đài nguy nga, bỏ nằm ở đó.
Chàng hồi tỉnh, mở mắt thấy Vân La công chúa vịn vai thị nữ đi tới, nức nở chia buồn với chàng rồi nói:
- Thiếp muốn giữ lang quân ở lại đây, nhưng nghĩ lại chàng còn việc tang bà cụ chưa chôn cất xong, mà dính với quan nha cũng đang lỡ dở, nên ở lại đây không tiện. Vậy chàng nên cầm lấy tờ bẩm, lên quận tự nạp mình, chắc chắn là vô sự đó.
Nói đoạn lấy sợi dây lưng trước bụng chàng, thắt lại hơn mười nút, dặn dò chàng khi đứng trước mặt quan cứ lần mở những nút này, tức thì tia qua nạn khỏi.
Chàng nghe lời khuyên bảo, một mình đến quận, tự đầu. Quan thái thú mừng là người thành thực, lại xem tờ bẩm, hiểu rõ oan tình, liền phê cho chàng về.
Về nửa đường gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình trạng rắc rối bấy lâu. Viên nghe tức giận xám mặt, làm thinh không thốt lời. Chàng nói:
- Vẻ người như anh, làm chi tới chuyện trộm cướp để tự nhơ xấu danh tiếng.
Viên đáp:
- Tôi giết toàn hạng người bất nhân, tôi lấy toàn là tiền của phi nghĩa. Không vậy thì của bỏ rơi ở đường cũng không thèm lượm. Điều anh khuyên răn tôi rất phải, nhưng xin hỏi thứ người như thằng cha lối xóm nhà anh, có nên để nó sống ở trên đời không chớ?
Nói xong chào biệt, thúc ngựa đi thẳng.
Chàng về chôn cất mẹ rồi, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm, trộm vào nhà hàng xóm, cha con trên mười người, đều bị giết sạch, chỉ chừa lại một con ở. Giết xong cuốn gói tiền của đồ vật, chia bớt cho tiểu đồng mang xách. Lúc ra đi, lấy đèn soi mặt và bảo con ở:
- Mi nhìn cho kĩ nghe. Giết người nhà này là tao đây, chứ không dính dấp tới ai.
Nói đoạn không cần mở cửa, hai thầy trò vọt lên mái nhà, nhảy qua vách tường đi mất.
Hôm sau, vụ án này đến quan. Quan ngờ An sinh hay biết, lại bắt chàng đi, trừng mắt xem hỏi cực nghiêm. Chàng đứng giữa công đường, tay rờ vào dây lưng thắt nút, vừa tranh biện vừa cởi nút ra, quan không có chỗ nào buộc tội, lại tha cho về.
Lần này được về, chàng lại càng giữ gìn, chỉ ở nhà đọc sách, không đi đầu nửa bước, nội nhà chỉ có một vú già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang mẹ rồi, ngày ngày quét dọn nhà cửa chờ đợi tin lành.
Một hôm, mùi hương lạ thơm ngát trong nhà. Chàng leo lên gác xem, thấy trong ngoài đã bày biện khác hăn, cuốn rèm lên thì thấy công chúa đã ngồi chững chạc từ hồi nào rồi. Chàng vội vàng vái chào, nàng nắm lấy tay và nói:
- Chàng không tin số, thành ra xây dựng nhà cửa lỗi thời gây nên tai vạ, lại thêm tang tóc, làm trễ cuộc sum họp của chúng ta mất ba năm.
Muốn gặp, té ra lại chịu trì hoãn, ấy việc đời đại khái như thế cả.
Chàng tính lấy tiền cho mụ vú đi chợ, nàng gạt đi bảo không cần. Thị nữ lấy trong rương ra các món đồ ăn nóng sốt, như mới xào nấu dưới bếp đem lên, rượu cũng thơm ngon lạ lùng. Hai người uống rượu nói chuyện một lúc thì trời đã sẩm tối, mấy con hầu đưa lưng cho nàng gác cẳng đều tản mát đi hết. Nàng uể oải tay chân, co duỗi bắp đùi, dường như không che đậy gì cả. Chàng liền ôm nàng hôn hít. Nàng nói:
- Khoan đã! Chàng hãy buông tay ra, em giao hẹn câu này. Bây giờ có hai cách, chàng muốn chọn cách nào?
Chàng ôm cổ nàng và hỏi hai cách nào. Nàng đáp:
- Em với chàng, nếu kết bạn chén rượu cuộc cờ, thì được tụ họp đến ba chục năm, còn nếu kết bạn thú vui chăn gối, thì chỉ được sum họp sáu năm thôi. Chàng chọn cách nào?
Chàng cao hứng quá, nói đại:
- Hãy được sáu năm rồi sau lại tính.
Nàng làm thinh. Hai người giao hoan. Nàng nói:
- Em vốn biết chàng không sao tránh khỏi thú vui phàm tục, âu cũng là số mạng khiến vậy.
Rồi đó khuyên chàng nuôi thêm vú già con hầu, cho ở riêng căn nhà phía nam, lo việc thổi nấu cơm nước và kéo sợi dệt vải làm sinh kế. Còn ở căn nhà phía bắc tịnh không khói lửa, bên trong chỉ có bình rượu bàn cờ mà thôi, cửa đóng kín tối ngày. Chàng đẩy nhẹ thì cửa tự mở ra, ngoài chàng, không ai được tới đó. Tuy thế những người ở căn nhà phía nam làm việc chăm chỉ hay trễ nải, nàng đều biết rõ, thường khi bảo chàng qua rầy mắng người nào, thì người ấy phải chịu lỗi ngay.
Nàng không nói nhiều lời, không cười nói lớn tiếng, cùng chàng nói chuyện gì, chỉ cúi đầu cười nụ, hễ sánh vai ngồi thì ưa nghiêng mình dựa vào chàng. Có khi chàng ẵm nàng lên đầu gối, thấy nhẹ như ẵm trẻ thơ. Chàng nói:
- Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay người ta múa được.
Nàng trả lời:
- Chuyện đó có khó khăn gì đâu, có điều chỉ là phần việc của mấy con thị nữ, tôi không thèm làm đó thôi. Ví dụ con Phi Yến mà sách vở trần gian vẫn ca tụng đó, nguyên là thị nữ của chị Chín tôi, hay lẳng lơ mà bị tội, đày xuống trần gian, lại không biết giữ trinh tiết, cho nên bây giờ đang bị nhốt kín một nơi.
Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông chẳng thấy lạnh, mùa hạ chẳng thấy nóng. Giữa mùa đông lạnh lẽo cắt ruột, nàng cũng mặc áo mỏng và nhẹ. Chàng may áo mới, ép nàng phải mặc, nàng vì nể, mặc vào chốc lát, cởi ra nói:
- Vật phàm ô trọc đè nặng vào xương cốt đến thành bệnh lao chết.
Một hôm chàng ẵm nàng trên gối bỗng thấy nặng khác mọi ngày, lấy làm lạ. Nàng cười trỏ vào bụng:
- Trong này có giống phàm tục rồi.
Cách mấy hôm sau, nàng ngỏ ý muốn ăn đồ nấu nướng, chàng liền mua sắm những món lạ cho nàng ăn. Từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một bữa, nàng nói:
- Em vốn ốm yếu, không kham nổi việc sinh sản, con thị nữ Phàn Anh khoẻ mạnh, vậy để nó thay em.
Nói đoạn cởi áo lót mình, mặc vào cho Phàn Anh rồi nhốt nó trong phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ khóc, mở cửa ra coi té ra con trai. Nàng mừng và bảo:
- Thằng con này có phúc tướng, chắc sau thành người khá to, nên đặt tên là Đại Khí.
Nàng ẵm con trao cho chàng đưa về căn nhà phía nam cho vú sữa nuôi. Từ khi nàng thoát nợ sinh sản, vóc vạc lại nhỏ thó như cũ và không ăn vật thực phàm trần nữa. Bỗng từ biệt chàng để về thăm nhà. Hỏi bao giờ trở lại, nàng đáp là ba ngày. Lúc đi, lại có túi da tuôn mây rồi biến đi như bận trước.
Đến kì hẹn, không thấy nàng về. Hơn một năm bặt luôn tin tức, chàng đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, thi đậu cử nhân, song không chịu lấy vợ, mỗi đêm nằm ngủ một mình ở căn nhà phía bắc, tắm gội với hương thừa hãy còn phảng phất.
Đêm nọ, thao thức trên giường không ngủ, chợt thấy đèn lửa sáng trưng, rọi qua cửa sổ, rồi thì cửa giữa tự mở, bọn thị nữ xúm đỡ công chúa bước vào. Chàng mừng hết sức, vùng dậy chào hỏi và trách lỗi sai hẹn. Nàng nói:
- Em có sai hẹn đâu nào. Trên trời mới có hai ngày rưỡi đó thôi.
Chàng khoe khoang thi đâu, ý hẳn nàng mừng. Không dè nàng buồn rầu và nói:
- Ôi! Cái thứ danh vọng thoảng qua đó có nghĩa lí gì đâu. Chẳng qua làm tội người ta tổn thọ thì có. Ngờ đâu vắng mặt có ba bữa mà chàng đã vương phải tục luỵ sâu thêm một lớp nữa rồi.
Chàng nghĩ lời vợ nói phải, cho nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Cách mấy tháng nàng lại đòi về thăm nhà. Chàng bịn rịn không muốn cho vợ đi, nhưng nàng năn nỉ bằng được:
- Chuyến này em trở về mau, không để cho chàng trông đợi như kì trước. Vả lại, đời người biệt li đều có định số, mình xem trọng quá thì thấy nó dài, mặc kệ nó thì thấy nó ngắn mà.
Nàng ra đi, hơn tháng trở lại. Từ đấy thành lệ một năm hay nửa năm, có đi một kì, chừng vài tháng lại về, chàng thấy sự thường, không lạ gì nữa.
Vợ chồng ăn ở với nhau, lại sinh hạ thêm đứa con trai. Nàng ẵm lên và nói:
- Thằng này sài lang, nên bỏ đi, chớ nuôi.
Nhưng chàng không nỡ lòng bỏ, cứ để lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm, nàng đã gấp tìm nơi hỏi vợ sẵn sàng cho nó. Các bà làm mai mách mối, tới lui liền liền. Nàng hỏi tuổi đứa con gái kĩ lưỡng, đứa nào cũng chê không hợp, than thở rằng:
- Ta có ý muốn mưu sẵn một cái chuồng sắt để nhốt thằng con hùm beo này, mà mưu không thành, âu cũng là số.
Đoạn, dặn dò chồng:
- Chàng nhớ bốn năm sau, Hầu thị sinh đứa con gái, sườn bên tả có cái bướu nhỏ, chính là vợ của thằng Khả Khí đó. Chàng nên dạm hỏi cho nó, bất chấp nhà gái sang hèn gì cả.
Nàng nói rồi, buộc chàng chép vào giấy tức thời cho khỏi quên. Sau đó nàng lại về thăm nhà. Bận này đi luôn không trở lại nữa.
Chàng nhớ lời vợ căn dặn, thường cậy bạn thân đi hỏi, quả có Hầu thị sinh ra đứa con gái mọc bướu cạnh sườn, nhưng Hầu thị là người hèn hạ mà tính tình rất xấu, không ai thèm chơi với. Chàng mặc kệ, cứ việc cậy mối lái đi hỏi con gái Hầu thị cho thằng Khả Khí.
Con trưởng là Đại Khí mười bảy tuổi thi đậu, cưới vợ họ Vân. Hai vợ chồng đều hiếu hạnh, chàng rất yêu chuộng. Còn Khả Khí càng ngày lớn lên, xem chừng không thích học, chỉ lén ăn cắp tiền nhà đi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để trả nợ chơi bời. Cha giận đánh đòn nhiều trận, nhưng chứng nào vẫn giữ tật ấy không chừa. Thế rồi cả nhà bảo nhau đề phòng, không thể lấy gì được nữa, bèn đi đêm ăn trộm lặt vặt của người ta, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện xem rõ tên họ, viết danh thiếp cho lính đưa trả về nhà, nhưng cha và anh cùng trói lại. Cha lại đánh suýt chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ, cha mới chịu tha.
Vì đó cha phẫn uất sinh bệnh, kém ăn, bèn làm tờ chia của cho hai con. Những nhà lầu, ruộng tốt đều về phần Đại Khí. Thấy vậy Khả Khí tức tối, nửa đêm xách dao vô buồng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Nguyên trước công chúa có để lại chiếc áo cũ, nhẹ và mềm nhuyễn, anh giữ làm áo ngủ, giờ Khả Khí chém vào áo nảy lửa, cháy lập loè tứ tung làm hắn ta sợ hãi chạy mất.
Cha hay việc này, bệnh nặng thêm, mấy tháng sau thì mất. Khả Khí nghe tin cha qua đời mới mò về. Anh đối đãi tử tế, nhưng hắn ngày càng hư, chỉ hơn một năm, phá hết điền sản của cha chia cho, rồi làm đơn thưa anh tại quận. Quận thừa biết là người thế nào cho nên xé đơn đuổi về không xét. Tình nghĩa anh em thành ra đoạn tuyệt từ vụ đó.
Cách hơn năm sau, Khả Khí hai mươi ba tuổi. Hầu nữ mười lăm rồi, anh nhớ lời mẹ dặn dò, muốn gấp cưới vợ cho xong, liền kêu Khả Khí về nhường toà nhà đẹp cho ở. Khi cưới vợ về nhà, anh lại đem bao nhiêu ruộng tốt cha để lại, toàn số giao cho và nói với em dâu rằng:
- Mấy đám ruộng này, bấy lâu anh cố sống cố chết giữ gìn hộ, ngày nay anh giao lại hết đó. Em tôi vốn mất nết, dù cho nó nhiều ít gì cũng đều như của bỏ. Từ đây về sau, nên hay là hư cốt ở nơi thím. Nếu chú nó biết sửa nết, chịu khó làm ăn, thì chả phải lo đói rét, không vậy thì anh đây cũng chịu phép không lấy gì mà lấp đầy cái vực sâu không đáy kia đặng.
Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh, có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo gì cũng không dám trái ý. Đi đâu, hẹn giờ khắc mà về không đúng thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn uống chung.
Nhờ vậy, Khả Khí cũng chừa bớt lêu lổng ít nhiều. Hơn năm sau, sinh đứa con trai, Hầu nữ nói:
- Từ nay, chẳng cầu gì ai. Mấy đám ruộng tốt đó, ta lo cày cấy, mẹ con no ấm có thừa, bây giờ chẳng có chồng cũng chẳng cần.
Có hôm Khả Khí xúc trộm lúa đi bán để đánh bạc, vợ hay, cầm cung tên đứng chặn ở cửa để chống cự. Khả Khí sợ quá, lẩn trốn mất mặt. Chừng dòm thấy vợ vào trong nhà rồi, lại mon men trở vào, định lấy lúa cho bằng được. Không ngờ vợ xách dao rình sẵn. Khả Khí bỏ chạy, vợ rượt theo chém trúng mông, máu tuôn đẫm ướt giày tất, liền đến mách với anh, nhưng anh mặc kệ, đành hổ thẹn ra đi.
Sáng hôm sau lại bò về, quỳ trước mặt chị dâu mà khóc lóc kêu ca, nhờ chị nói giùm để vợ cho về nhà. Vợ nhất định không nghe. Khả Khí nổi xung định giết chết vợ. Anh cũng mặc kệ, không nói gì. Khả Khí càng phẫn, xách ngọn mác hầm hầm ra đi. Chị sửng sốt, toan chạy theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ cho Khả Khí đi rồi, mới cắt nghĩa:
- Nó làm bộ tịch vậy đó, cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt về.
Nói rồi, sai người theo dõi, thì Khả Khí đã bước vào trong nhà rồi. Bấy giờ anh mới đâm lo tính, chạy theo can gián cho kịp, chẳng dè đến nơi, thì Khả Khí đã cúi mặt nín thít đi ra. Té ra chàng vào nhà, vợ đang đùa giỡn với con, thoáng trông thấy, liền đặt con trên giường, vào bếp xách con dao bổ củi ra. Chàng hết hồn hết vía, kéo lê ngọn mác chạy mất. Vợ rượt theo tới ngoài cổng mới chịu lui.
Anh biết rõ sự tình như vậy, nhưng làm bộ như không biết, cố ý gạn hỏi đã đâm vợ chết rồi chưa. Khả Khí chỉ úp mặt vào tường mà khóc nức nở, hai mắt đỏ ngầu. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu tiếp. Chờ anh đi rồi, phạt chàng quỳ dưới đất, buộc phải thề độc, bấy giờ mới lấy cơm đựng vào tô xấu cho ăn.
Từ đó chàng sửa nết làm lành, vợ lại chịu khó chăm nom công việc làm ăn, thành ra nhà được phong túc. Chàng chỉ có việc ngồi ăn sẵn mà thôi. Đến năm bảy mươi tuổi, con cháu đầy nhà, còn có lúc bị vợ nắm râu bạc và bắt quỳ./.


Người dịch: Đào Trinh Nhất
Liêu Trai Chí Dị
Thiên Cung
( Thiên cung)



Quách sinh, người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều tà có bà già mang đến cho một chén rượu. Sinh hỏi duyên cớ, bà già cười bảo: “Không phải hỏi, uống đi, sẽ thấy cảnh tuyệt vời”. Nói rồi đi, Sinh nâng chén khẽ nhấp, thấy hương thơm tỏa khắp. uống vào rồi, say lịm đi không biết gì nữa.
Tỉnh ra Quách thấy mình nằm với một người. Sờ soạng thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, thì ra là con gái. Hỏi không nói, chẳng cần biết sấp tẻ. Quách cứ làm tới luôn. Xong rồi, lấy tay sờ mó xung quanh thấy bức vách toàn đá, không khí âm ấm hơi đất như ở trong mộ vậy. Hoàng quá, Quách nghi là quỷ bẫy. Thủ thỉ với cô gái là thần gì, cô gái đáp:
- Ta không phải là thần mà là tiên. Đây là động phủ. Ta với anh vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Vào qua một lần cừa nữa, nơi có ánh sáng lọt vào có thể đại tiểu tiện được.
Dặn rồi cô gái trờ dậy, đóng cửa đi mất. lâu sau, bụng Quách đã đói, một cô gái mang bánh bao canh vịt cho ăn. Xung quanh vẫn cứ đen như mực, không biết sớm tối. Chỉ khi cô gái vào ngủ mới đoán là đêm. Quách bực dọc bảo:
- Ngày không ánh nắng mặt trời, đêm không tia đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu. Cứ thứ này, nàng Hằng Nga có khác gì mụ La Sát, thiên đường không phân biệt với địa ngục.
Cô gái cười an ủi:
- Vì anh là người trần tục hay bép xép cho nên ta không muống lộ mặt. Vả lại ăn nằm trong bóng tối, méo tròn đẹp xấu cũng có thể phân biệt, hà tất phải đèn đuốc làm gì?
Ở mấy ngày buồn quá, Quách đòi về. Cô gái bảo:
- Đêm mai cùng chàng lên thiên cung rồi sẽ chia tay.
Hôm sau cô tiểu hoàn xách đèn lồng vào bảo:
- Nương tử đợi chàng lâu rồi.
Quách đi theo, trong ánh sao vằng vặc, thấy vô số lầu gác. Qua mấy khúc hành lang chạm vẽ thì đến một nơi: trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng tựa như ban ngày. Bước vào thấy một mỹ nhân tuổi trạc hai mươi, ngồi quay hướng nam, trang sức cự kỳ hoa lệ, đầu đính minh châu, áo gấm hoa mắt, quần sa bóng lộn, đúng là người trời. Quách bối rối, người như mụ đi, bất giác quì xuống. Mỹ nhân sai nữ tì đỡ dậy, dìu vào ghế. Lát sau các món sơn hào hải vị bày la liệt. Mỹ nhân rót rượu mời:
- Nâng chén rượu này để tiễn chàng về.
Quách gập mình thưa thốt:
- Trước đây giáp mặt mà không biết người tiên, thực lấy làm xấu hổ. Xin cho chuộc lỗi, được làm kẻ bầy tôi suốt đời không hai lòng.
Mỹ nhân đưa mắt nhìn tì nữ cười mủm mỉm, sai thu tiệc soạn giường.
Trong nội thất cũng thướt tha trướng gấm,, chăn gối nức hương. Mỹ nhân bảo Quách ngồi vào giường. Trong lúc uống nàng nhắc mấy lần:
- Chàng xa nhà lâu, nay về cũng được.
Đã hết canh một, Quách vẫn chưa ngõ lời từ biệt. mỹ nhân gọi nữ tỳ xách lồng đèn đưa tiễn. Quách nín thít giả vờ say rượu nằm lăn ra giường, lay gọi không dậy. Nàng sai các tì nữ cởi quần áo. Một cô gí vào chỗ kín của Quách giỡn:
- Anh chàng mặt mũi có vẻ ôn nhã mà cái của này lại chẳng “văn vẻ” tí nào!
Họ đưa Quách vào trong giường khúc khích đi ra. Mỹ nhân cũng lên giường. Quách trở mình. Nàng hỏi:
- Say à?
- Tiểu sinh có say đâu! Chỉ mới thấy người tiên, thần hồn đã nghiêng ngửa.
Mỹ nhân dặn:
- Đây là thiên cung, gần sáng phải ra. Vào trong động phủ nếu hiềm không vừa ý, chi bằng sớm từ biệt.
Quách gạ khéo:
- Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa đẹp, chỉ cầm cánh ngửi hương mà không thấy sắc màu thì tình cảnh ấy làm sao chịu được?
Nàng cười lấy đủ đèn đến, sáng trưng.
Vừa sang canh tư, mỹ nhân đã gọi nữ tì mang đèn lồng, ôm áo, đưa Quách vào động ngủ. ở đây các đồ trang sức màu hồng tinh xảo, nơi ngủ thì nệm da, thảm lông dày dặn. Quách cởi giày ôm chăn, ả nữ tì còn bần thần quanh quẩn chưa đi. Quách để ý nhìn kỹ thất phong tươi tốt, liền cợt nhả:
- Có phải cô bảo tôi cái của ấy không “văn vẻ” phải không?
Ả cười, lấy chân đá cái gối nói:
- Thôi anh cứ nằm đờ ra đi cho được việc, đừng lắm lời nữa.
Nhìn đôi giày của ả có đính ngọc châu long lanh, to như hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo ả vào, ả ngã vào lòng Quách, rồi ôm lấy nhau, hú hí rên rỉ mãi. Quách hỏi:
- Bao nhiêu tuổi rồi?
Đáp:
- Mười bảy.
- Xử nữ đã biết thế nào là tình chưa?
- Em không còn là xử nữ, song hoang vắng đã ba năm nay rồi.
Quách hỏi dò họ tên, tông tích tiên nữ bấy lâu chung đụng, ả nữ tì dọa:
- Chớ hỏi! Không phải là tiên nữ trên thượng giới thì cũng là dị nhân ở trần gian. Nhược bằng muốn biết tỉ mỉ chuyện đó thì e rằng không có đất mà chôn.
Thấy nói thế, Quách không dám hỏi thêm.
Đêm sau nữa nữ nhân lại mang đèn tới, cùng nhau ăn ngủ liền liền như vậy. Một tối, nàng bảo:
- Những ước được cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, cho nên không thể ăn nằm với nhau được nữa. Xin cùng chuốc chén từ biệt.
Quách khóc, xin một vật gì làm kỷ niệm ái ân. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng, trăm hạt ngọc châu.
Hết canh ba, Quách bỗng say lịm, tỉnh dậy thấy tứ chi bị trói rất chặt, chân không thể duỗi, đầu không thể thò ra, hết sức giãy giụa thì lăn xuống chân giường. Quách lấy tay sờ đoán thì biết mình bị nhét vào trong túi chăn gấm, ngoài nịt chặt dây. Ngồi dậy đắn đo suy gẫm, thoáng thấy cái giường mới biết đây là nhà mình.
Tính đến bây giờ, Quách biệt tích đã ba tháng, người nhà đều cho là anh ta đã chết. Giải thoát được rồi, lúc đầu Quách chưa dám ngỏ chuyện cùng ai, chỉ sợ bị tiên trừng phạt. Song mối ngờ vực vẫn day dứt trong lòng, dần dà anh ta thuật lại với bạn. Không ai biết duyên cớ ra sao. Cái chăn bọc anh ta vẫn gấp để đầu giường mùi hương sực nức, giở ra xem kỹ thì đó là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, liền trân trọng giấu đi. Sau có một quý quan biết chuyện ấy, hỏi căn hỏi vặn đến điều rồi cười mà bảo:
- Đó là ngón chơi của Giả hậu (1) bắt đĩ đực về đấy. Tiên nào lại như thế. Tuy nhiên phải hết sức giữ kín chuyện, lộ ra là chết cả họ. Có người thầy bói thường ra vào các nhà quyền quý, nói rằng hình dạng các lầu gác như Quách kể đúng là dinh Nghiêm Đông (2) rồi không sai.
Quách nghe thấy vậy, vô cùng sợ hãi, vội đưa cả gia đình đi nơi khác, ít lâu sau Nghiêm bị giết mới dám mon men trở về.



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

(1) Giả hậu: hoàng hậu của Tấn Huệ Đến, là người vô cùng dâm đãng, thường sai các mụ hầu ra ngoài tìm kiếm các trai tơ khỏe đẹp mang vào trong cung cấm để thỏa mãn lòng dục.
(2) Nghiêm Đông là tên hiệu của Nghiêm Thế Phan, con Nghiêm Tung đời Minh. Nhà này ỷ thế làm quan to người quyền thế, cho nên nhà cửa vô cùng xa hoa, đời sống hết sức phóng đãng, dâm dật.

Liêu Trai Chí Dị
Giấc Mộng Đắc Chí
(Vương Tử An)



Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật hoài trong sự lều chõng Khoa ấy, vào trường thi hương xong rồi, Vương rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mèm về nằm ở buồng trong.
Bỗng có người đến bẩm:
- Ngựa đã tới!
Vương chồm dậy bảo:
- Thưởng cho người báo mười nghìn!
Người nhà biết là say, nói theo đà để cho Vương yên:
- Xin ngủ cho! Thưởng rồi.
Vương nằm ngủ yên.
Lát sau có người vào bẩm:
- Ngài đỗ tiến sĩ rồi!
Vương nói rằng mình chưa về Kinh thi Hội làm sao đỗ tiến sĩ? Người ấy nói:
- Ngài quên rồi ư? Đã qua tam trường rồi.
Vương mừng quá, trỗi dậy gọi:
- Thưởng người báo mười nghìn!
Người nhà lại nói gạt:
- Xin cứ ngủ đi! Đã thưởng rồi.
Không lâu, một người vội vã vào bẩm:
- Ngài được bổ vào viện Hàn Lâm, ông trưởng ban cũng đã đến.
Nhìn ra, quả có hai người, áo mũ chỉnh tề đang sụp lạy dưới giường. Vương gọi dọn rượu khoản đãi. Người nhà lại nói lừa cho ngủ và cứ cười mãi sao ông ta say quá thể như thế.
Vương lại nghĩ không thể không đi ra ngoài cho vẻ vang làng xóm, liền cất tiếng gọi to trưởng ban. Gọi đến hơn chục lần, không thấy ai thưa. Người nhà cười mà bảo:
- Xin tạm nằm đợi một chút, đã sai người đi tìm ông ta rồi.
Rồi trưởng ban tới thật. Vương đập giường giậm chận mắng:
- Đồ rùa!
Trưởng ban nổi giận cãi lại:
- Thực là đồ vô lại! Tôi chỉ muốn đùa ông một chút mà ông mắng thật à?
Vương tức lắm vùng dậy tát cho ông ta một cái làm rơi cả mụ xuống đất. Vương cũng ngã theo. Bà vợ đỡ dậy bảo:
- Trời ơi! Sao mà say thế này?
Vương lẩm bẩm:
- Tên trưởng ban ăn hại, tôi phải trị nó. Say đâu mà say!
Bà vợ cười:
- Trong nhà chỉ có bà lão giúp việc, ngày thổi cơm, đêm đốt lò cho ông, làm gì có trưởng ban, trưởng biếc gì? Thôi, đến khi ông rạc xương ra.
Con cái trong nhà đều cười phá.
Cơn say của Vương rồi cũng dần phai đi. Vương như vừa tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả. Song ông ta vẫn nhớ việc trưởng ban rơi mũ. Tìm ở sau cửa thì thấy một cái núm dải mũ to như cái chén. Mọi người đều lấy làm lạ.
Vương tự cười rằng:
- Xưa thì người bị quỷ trêu cợt, còn nay ta bị hồ báng bổ sỉ nhục.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Tú tài của trường thi có bảy cái “giống như”:
* Lúc mới vào trường, chân trắng vác chõng giống như ăn mày.
* Lúc gọi tên, quan thét lệ mắng giống như tù nhân.
* Lúc về nhà trọ, hốc vách rút đầu, buồng buồng thò cẳng, giống như ong lạnh cuối thu.
* Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thản thốt, trời đất đổi màu giống như chim ốm rời lồng.
* Lúc đợi yết bảng thì cây cỏ đều kinh, mộng tưởng cũng ảo. Nếu đỗ ư, thì khoảnh khắc đã này lầu này gác! Nếu trượt ư, thì nháy mắt xương cốt mục ra. Lúc ấy thôi đứng ngồi không yên giống như con khỉ bị bắt.
* Lúc xướng danh không có tên thì tinh thần đổ sụp người chết lặng đi giống như con nhặng nhả bả,có ai trêu đùa cũng thây kệ.
*Sau đó bất đắc chí mắng quan trường mù, bút mực không thiêng. Mọi vật dụng học hành đều đem đốt. Đốt không hết thì đập vỡ. Đập không hết thì đem ném xuống nướcbẩn. Từ đó xõa tóc vào núi tu tiên, úp mặt vào vách đá. Nếu có người thương tình bảo sẽ tiến cử, nhất định giơ dao dọa đuổi. Rồi thánh ngày qua mau, cơn uất hận tạm lắng, tài cũng dần mòn đi, chẳng khác gì con chim cưu vỡ trứng, thôi thì đành lại cõng rác làm tổ, ôm ấp trứng mà thôi.
Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười.
Tấc lòng Vương Tử An ngổn ngang muôn nỗi, chắc rằng quỷ, hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu như thế. Con người trên giường tỉnh rượu, há không phá lên mà tự cười mình sao? Thử xem cái ý vị khoa bảng đắc chí chẳng qua trong một lát, các ông nên danh nên giá chỉ trong đôi ba lát. Thế mà mới trong một sớm Vương Tử An đã được nếm hết. Cái ơn của hồ đáng là ơn bậc thầy vậy.



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Liêu Trai Chí Dị
Người Học Trò Phượng Dương
( Phượng Dương sĩ nhân)



Một người học trò ở Phượng Dương (thời Minh Thanh là phủ Phượng Dương, tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về. Thế rồi hơn mười tháng qua mà vẫn tuyệt vô âm tín, chị vợ ở nhà mỏi mắt chờ trông.
Một đêm, chị ta lên giường nghỉ, bóng trăng lung linh ve vuốt tấm rèm the cửa sổ, càng làm thổn thức thêm nỗi nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì một cô gái đẹp, bím tóc cài trâm ngọc, vai quàng khăn hồng, vén rèm bước vào, nhoẻn miệng cười bảo chị ta:
- Thế nào, chị tôi có muốn gặp anh tôi không?
Chị ta hớn hở vùng dậy. Người đẹp rủ cùng đi, chị ta còn e ngại đường xa xa xôi, hiểm trở. Người đẹp khuyên nhủ đừng lo rồi dắt tau nhau, gội ánh trăng suông lên đường.
Mới độ tầm tên bắn, chị ta thấy người đẹp đi nhanh quá mà đôi giày của mình siết vào chân khó đi, liền gọi hãy đợi một chút, mình trở về thay đôi giày đế cao khác. Người đẹp kéo ngồi xuống bên đường rồi cởi giày của mình cho mượn. Chị vợ mừng quá, xỏ vào may mà vừa khít, liền đứng dậy đi theo, chân bước cứ thấy thoăn thoắt như gió lướt.
Chẳng bao lâu, họ gặp anh học trò đang cưỡi con la trên đường trở về. Anh ta trông thấy vợ ngạc nhiên, vội nhảy xuống hỏi:
- Mình đi đâu đó?
Chị vợ đáp:
- Tôi đi thăm mình chứ còn đi đâu?
Anh ta quay về phía người đẹp, rồi hỏi vợ là ai? Chị vợ chưa kịp trả lời.
Người đẹp đẽ bưng mìệng cười:
- Thôi, anh chẳng phải hỏi nữa. Chị đây thì đi đốc thôi đốc hồi chẳng nghỉ. Còn anh thì rong duổi suốt đêm, người ngựa đều mệt mõi. Chi bằng nhà em cũng không xa đây, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai hãy đi cũng không muộn.
Hai vợ chồng nhìn quanh, cách đó ít bước quả có một xóm, liền nhận lời cùng vào. Vào đến một ngôi nhà, người đẹp gọi con hầu đang ngủ trở dậy sửa soạn cơm nước cho khách và bảo:
- Đêm nay trăng sáng vằng vặc thế này, chẳng cần phải đốt đèn nữa. Ngồi ngay trên sạp đá ở căn nhà nhỏ này cũng được..
Anh học trò buộc la vào gốc cây ngô đồng bên mé nhà rồi ngồi ngay xuống.
Người đẹp nói với chị vợ:
- Đi giày to không vừa chân, trên đường về chắc sẽ phiền anh ấy đấy! Nhưng dù sao đã có vật đỡ chân, xin chị cho em xin lại.
Chị vợ cảm ơn, rút giày trao trả.
Lát sau, rượu quả bày ra, người đẹp nâng chén mời:
- Loan phượng xa lâu, đêm nay chắp cánh, xin có chén rượu nhạt kính mừng!
Anh học trò cũng nâng chén mời lại, bên trên, chủ khác nói cưòi, bên dưới giày dép lẫn lộn. Anh học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, luông buông những lời chọc ghẹo cợt nhả, còn chẳng thèm nói một lời với chị vợ bao lâu mới gặp lại. Người đẹp cũng sáng mắt đưa tình, thả lời bả lả. Còn chị vợ cứ ngồi câm lặng giả như kẻ ngu đần.
Lâu sau, hơi men đều ngấm, điều đối tiếng đáp ý tình hai người lại càng xoắn xuýt. Người đẹp rót rượu vào chén lớn mời khách, khách từ đã say, ả càng cố sức nài ép. Anh học trò cười mà rằng:
- Em hát cho nghe một khúc, tôi sẽ xin uống.
Người đẹp chiều ý ngay, liền dùng tre ngà voi gẩy đàn cầm mà hát rằng:



Bóng hoàng hôn ngã màu son phấn nhạt
Gió lạnh ngoài song ngăn ngắt thấu màn the
Thánh thót tàu tiêu mưa từng trận não nề
Mà nơi ấy, cùng ai mãi mê chi lắm
Trông mòn mắt chẳng về, một thân quạnh bóng
Lệ cạn đôi hàng những ngóng cùng mong
Nhớ vô chừng mà càng giận vô chừng
Thử lấy giày thêu tung quẻ bói (1)


Ca xong còn cười mà bảo:
- Đó là khúc hát ở chỗ đầu đường xó chợ, chẳng bõ làm bẩn tai anh. Song do thói đời hiện nay đang ưa chuộng, em mới học đòi bắt chước mà thôi.
Giọng hát của ả ta đậm đà, điệu bộ lả lơi làm cho anh học trò mê mẩn cả tâm thần dường như không còn tự chủ được nữa. Lát sau ả ra vẻ say sưa đi ra, anh học trò cũng đứng dậy theo.
Lâu lắm không thấy họ trở về, đứa con hầu mệt mõi nằm lăn ra ngủ ngoài hành lang. Còn chị vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không thể nào chịu được. Chị ta đã định bỏ ra về, song đêm tối mịt mờ, không nhớ đường đi lối về nên lại thôi. Lòng dạ cứ trăn trở khôn nguôi, chị ta mới đứng dậy thử lần dò xem anh chồng với cô ả ở đâu. Vừa đến gần cửa sổ một căn buồng, đã nghe phản phất tiếng cuộc mây mưa rả rích trên giường. Lại gần nghe rõ hơn thì mới biết mọi trò anh chồng vẫn thường giãi bày với mình trong chốn buồng the nay đến giở ra hết với ả nọ. Lúc đó tim chị ta đập mạnh, tay run bắn lên, vừa giận vừa tức, nghĩ chi bằng ra ngoài kia đâm đầu xuống rãnh ngòi mà chết đi cho khuất mắt.
Đang định đi thì cậu em thứ ba cưỡi ngựa đi tới. Cậu ta trông thấy vội vã xuống ngựa. Nghe chị kể lể mọi nỗi nguồn cơn, cậu Ba giận quá bảo chị cùng quay vào. Nhà đã đóng cửa cài then chặt chẽ, song vẫn có thể nghe thấy tiếng nói cười rúc rích trên gối. Cậu Ba vác luôn một hòn đá to tướng như cái đấu ném mạnh vào cửa sổ, làm cho mấy cái chấn song gãy gập. Bỗng bên trong vọng ra tiếng kêu thất thanh:
- Thôi anh ấy vỡ sọ rồi. Làm thế nào đây?
Chị vợ nghe thấy thế, kinh hoảng khóc lớn, mếu máo bảo em:
- Tôi có bảo cậu giết anh ấy đâu. Làm thế nào bây giờ?
Người em trợn mắt lên nói:
- Chị đã chẳng hu hu giục tôi vào, nay vừa mới tiêu xong cái hận trong bụng, đã lại vì chồng mà oán trách anh em. Tôi là tôi không có quen mà ngón tay trỏ cho hạng con đòi đâu.
Nói rồi ngoắt mình bỏ đi. Chị níu áo bảo:
- Cậu chẳng đưa chị về còn đi đâu?
Người em dứt áo ra làm chị ngã lăn xuống đất, rồi bỏ đi mất. Chị giật mình tỉnh dậy thì ra vừa rồi là giấc mộng .
Ngày hôm sau, quả nhiên anh học trò cưỡi con la trắng trở về. Chị vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì về chuyện mộng mị. Người chồng kể trước, đêm qua cũng nằm mộng, mọi chi tiết đều y như vợ đã nghe đã thấy. Cả hai đều cho là quái lạ.Rồi cậu Ba nghe tin anh rể đi xa về cũng đến chơi thăm hỏi. Cậu ta bảo anh rể:
- Đêm qua em nằm mơ thấy anh về, nay quả nhiên như thế. Thật lạ quá!
Anh học trò cười bảo:
- Cũng may mà tôi không bị đá choảng chết.
Cậu Ba ngạc nhiên hỏi tại sao anh biết? Anh nói là nằm mộng thấy. Cậu Ba càng kinh ngạc, hóa ra cậu ta cũng nằm mơ gặp chị khóc lóc tố giác chuyện bờm xơm của anh rể, tức giận quá cậu có ném đá thật.
Ba giấc mộng hợp nhau, song không biết người đẹp là thế nào?


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) nguyên văn:


Hoàng hôn xã đắc tàn trang bãi
Song ngoại tây phong lãnh thấu sa
Thinh tiêu thanh, nhất trận nhất trận tế vũ hạ
Hà xứ dữ nhân nhà hạp nha
Vọng xuyên thu thủy, bắt kiến hoàn gia
Tiềm tiềm lệ tự ma
Hựu thị tưởng tha,hựu thị hận tha
Thử nã chước hồng tú hài chi chiêm qủy quái.

Ngày xưa phụ nữ có chồng đi xa, muốn biết sắp về hay chưa thường bói bằng cách lấy giày đang đi tung lên cho rơi xuống đất. Hễ giày úp sấp là chồng sắp về.
Liêu Trai Chí Dị
Trộm Đào
( Du đào)



Thời còn trẻ, đang dịp tết lập xuân ta lên quận thi. Theo lễ cũ, trước lập xuân một ngày, mỗi nhà treo đèn kết hoa chiêng trống vang lừng, người ta đi mua bán và đến trước đình quan Tuần dự hội “xuân diễn”. Ta cũng theo bè bạn đi xem.
Đúng ngày lập xuân, người ta nô nức kéo nhau đi chơi đông như kiến cỏ. Trên công đường, bốn vị quan lớn đều mặt áo đỏ, đối diện theo bốn hướng đông tây. Lúc ấy ta còn nhỏ không biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng nói cười ồn ã, chiêng trống rát tai.
bỗng có người đàn ông dắt một đứa trẻ còn xỏa tóc, vai vác hòm nặng, tiến thẳng lên công đường, tựa như có việc gì muống bẩm báo. Thế là muôn ngàn tiếng hò reo sôi động, không còn nghe rõ là gì, chỉ thấy trên công đường, các quan nhìn nhau trao đổi. Viên nha lại hỏi giỏi về trò gì. Người ấy thưa: trò “đảo lộn vật sống”. Viên nha lại bẩm quan, lát sau hạ lệnh diễn trò “hái đào”.
Người biễu diễn tiếng dạ ran, cởi luôn áo trùm lấy cái hòm, cất tiếng làm bộ than oán:
- Bậc trưởng quan sao chẳng thấu tình! Trời rét băng chưa tan, đào đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, vậy làm sao đây?
Đứa bé nói:
- Cha đã xin nhận, từ chối sao được?
Người cha rầu rầu suy nghĩ hồi lâu:
- Ta tính kỹ: đầu xuân băng tuyết, tìm đâu được đào trên cõi đời này. Chỉ có trên vường Tây Vương Mẫu bốn mùa hoa lá xanh tươi. Phải lấy trộm trên trời mới được.
- Úi chà! Trời chứ có phải cái thang đâu mà lần bậc lên được.
- Đã có phép chứ!
Nói rồi người cha mở hòm lấy ra một cuộn dây ước vào trăm thước, thắt nút thòng lọng một đầu rồi tung lên không trung. Sợi dây dựng đứng lên y như được treo móc vào một vật gì đó. Không lâu, càng ném càng cao, dây cứ lẩn dần vào mây cho đến khi hết.
Lúc ấy người đàn ông mới gọi con:
- Lại đây! Cha già thân nặng, lóng ngóng khó lên. Con đi giúp cha! Cứ bám lấy dây mà leo.
Con cầm lấy đầu dây, tỏ vẻ khó khăn ngao ngán:
- Cha thật là bất nhẫn. Một sợi dây mỏng manh thế này, bảo tôi bám vào để leo lên trời cao muôn trượng. Ngộ nhỡ chừng dây đứt thì còn gì xương thịt nhà tôi.
Người cha lại giục:
- Cha lỡ mồm nhận với quan trên, hối không kịp nữa. Nhờ con đi một chuyến, đừng có phàn nàn, nếu lấy được đào ắt có thưởng trăm đồng tiền vàng, thế nào cũng cưới cho mấy con vợ đẹp.
Thằng con có vẻ bùi tai, cầm đầu dây, bám lấy leo lên, tay co đến đâu, chân quấn đến đấy y như con nhện leo tơ. Cứ thế khuất dần trong đám mây trời không trông thấy đâu nữa.
Lâu sau có quả đào rơi xuống to như cái bát. Người nha hớn hở nhặt lấy dâng lên công đường. Trên ấy các quan truyền tay nhau xem xét hồi lâu, cũng không biết là thật hay giả.
Chợt, sợi dây từ trên trời bỗng rơi tuột xuống đất. Người cha kinh hoàng:
- Chết rồi! Trên ấy có người cắt dây. Con tôi biết tựa vào đâu?
Lát sau,. Có một gì rơi bịch xuống . Không bao lâu chân tay mình mẩy đều lần lượt rơi xuống đủ cả. Người cha buồn rũ rượi, thu thập tất cả bỏ vào hòm đậy lại ca thán:
- Lão này chỉ có một thằng bé hàng ngày cùng lên bắc xuống nam. Nay phải vâng nghiêm lệnh quan trên chẳng dè chuốc lấy vạ thảm thương kỳ lạ này. Tôi phải đi chôn nó thôi.
Rồi bước lên công đường, quỳ xuống kêu:
- Vì chuyện đào mà giết mất con tôi. Các quan thương đến kẻ hèn mọn mà cấp cho chút đỉnh tiền chôn cất thì tôi xin kết cỏ ngậm vành báo đền ơn ấy.
Quan khách ngồi xem rùng mình khen ngợi, đều bỏ tiền ra cho. Người cha tu lấy giắt vào thắt lưng rồi ra gõ vào cái hòm, gọi:
- Cu Bút! Bút ơi! Không ra ta thưởng còn đợi gì nữa.
Bỗng cái đầu bù đội nắp hòm lên, cả người nhoài ra, hướng về phia bắc, cúi đầu bái tạ. Thì ra thằng bé vừa leo dây.
Thật là một thuật lạ, mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ. Sau nghe nói phái Bạch Liên (1) còn có người làm được thuật ấy, ý giả là dòng dõi chăng?


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) tức Bạch Liên giáo. Đó là một tổ chức bí mật của quần chúng ở TQ, xuất hiện vào thế kỷ 13, 14. Thông qua các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Hội đó đã tổ chức đoàn kết để mọi người tiến hành đấu tranh chống ách thống trị ngoại tộc Nguyên- Mông. Đến đời Thanh- thời tác giả- nó phát triển thành một tổ chức dân gian với mục đích chống ngoại tộc Mãn Thanh thống trị. Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra hơn mười năm ở nhiều tỉnh. Sau bị triều Thanh trấn áp rất khốc liệt.
Từ đó có thể thấy ý nghĩa sâu xa của câu chuyện này.
Liêu Trai Chí Dị
Ba Ngày Làm Diêm Vương
(Lý Bá Ngôn)



Lý Bá Ngôn, quê huyện Hàn Thủy tỉnh Sơn Đông, là người nghĩa khí cương trực. Một hôm bỗng nhiên mắc bệnh nguy cấp, người nhà đem thuốc đến ông ta không chịu dùng bảo:
- Bệnh ta không thể uống thuốc mà khỏi được, dưới âm phủ hiện nay khuyết Diêm vương cho nên ta được tạm cử thay thế. Ta chết rồi, nhất thiết không được mai táng, cứ để đấy, đợi sau này sẽ hay.
Thế rồi ông ta chết luôn ngày hôm đó. Còn đang trong cơn mơ mơ hoảng hoảng thì một đoàn hộ tống đã đến đón ông đi, vào một tòa cung điện, đem mũ áo ra mời mặc. Hai bên nha dịch đứng hầu, mười phần cung kính, nghiêm túc. Trên bàn đã xếp đống nhiều án tờ, trong đó có vụ án tên mỗ ở Giang Nam. Tra ra sinh thời hắn đã tư thông với 82 cô gái lương thiện. Xét hỏi đều có chứng cứ không chút oan uổng. Lý bèn theo đúng pháp luật dưới âm ty xử tội “nướng”
Dưới thềm có một cột dây đồng rỗng ruột cao khoảng 8-9 thước, chu vi đầy một ôm, trong ngoài cùng đốt than củi, cột đỏ rực. Một bầy quỷ sứ vác gậy đánh phạm nhân, xua phải leo cột đồng. Y hai tay ôm cột níu lên, hai chân quặp lấy cột đẩy tới, cứ từng nấc từng nấc choài lên. Vừa lên đến đỉnh cột bỗng một làn khói phun vọt, một tiếng nổ uỳnh như pháo đại. Phạm nhân ngã lộn xuống, sõng soài trên mặt đất, một hồi lâu mới tỉnh dậy. Quỉ sứ lại vác gậy đánh, bắt phải leo nữa. Một tiếng nổ ùng. Y lại bắn xuống đất giống như lần trước. Ba lần như thế, phạm nhân chỉ còn như một đụn khói lan tỏa trên mặt đất rồi tan đi, không khôi phục lại hình người.
Một vụ khác: Vương mỗ người cùng huyện Hàn Thủy, bị cha vợ bé anh ta tố cáo tội cưỡng đoạt con gái của ông. Nguyên trước đây có một người bán một cô gái, Vương biết do lại lịch song chính vì ham giá bán rẻ liền chuốc lấy. Đến giờ Vương chết đột nhiên. Một ngày sau bạn anh là Chu mỗ gặp ở đường biết anh là ma, vội chạy về thư phòng nằm, Vương theo hút vào. Chu sợ lắm hai con mắt cứ chằm chằm nhìn anh, hỏi cần gì? Đáp:
- Phiền anh xuống âm ty làm chứng cho.
Chu cả kinh hỏi việc gì. Đáp:
- Cái cô vợ bé nhà tôi, thực tôi bỏ tiền mua, nay bị họ vu cáo. Việc này chính anh đã thấy tận mắt, nay chỉ xin nhờ anh làm chứng, nói một câu sự thực. Ngoài ra không có việc gì khác nữa.
Chu kiên quyết không đi. Vương đành quay ra miện lẩm bẩm:
- Chỉ sợ anh không thể tự theo ý anh thôi.
quả nhiên lát sau Chu chết, hồn được dẫn đên trước Diêm vương đối chất, Lý vốn là thân thích của Vương nay trông thấy anh ta, tâm tư hơi ngầm có ý thiên vị. Bỗng trên nóc điện bùng cháy, Lý vội vọt dậy. Một viên thư lại bảo riêng Lý:
- Âm ti và dương thế khác nhau. Ở dưới này không dùng một chút lòng riêng. Xin ngài mau bỏ những tư tình không thẳng thắn, lửa kia sẽ tắt.
Lý nghe theo, quả nhiên ngọn lửa lập tức tắt ngấm.
Đến khi thẩm án, Vương và người bố cô gái tranh biện qua lại. Hỏi đến Chu, Chu cứ thực tình trình bày. Luận án: Vương vì đã biết trước có sự không minh bạch mà vẫn cố pạm, phải phạt đòn. Xử xong, Lý phái quỷ sứ dẫn Chu và Vương trở về dương thế. Hai người đã chết mấy ngày đều sống lại.
Lý Bá Ngôn làm việc công ở dưới âm phủ xong hạn, ngồi xe ngựa trở về nhà. Giữa đường thấy một đoàn mấy trăm người, kẻ cụt đầu, kẻ mất cẳng, bò lê bò càng trên mặt đất mà kêu gào thê thảm. Ông ta dừng xe, hỏi thăm cặn kẻ mới biết đó là những hồn ma chết ở nơi đất khách, nay muốn trở về quê nhà lại sợ các cửa quan ngăn trở không cho đi, mới kêu khóc khẩn cầu ông ta cấp cho giấy thông hành. Lý khuyên giải:
- Ta chỉ thay mặt Diêm vương có ba ngày, nay đã hết nhiệm kỳ còn có quyền gì để giúp các ngươi việc ấy được? Các hồn ma lại thưa:
Ở thôn nam có ông họ Hồ đang muốn làm chay cứu độ chúng sinh. Nhờ ngài thay chúng tôi nói giúp với ông ra để có thể sớm làm được.
Lý nhận lời. Về đến nhà, ông cho những người tùy tùng quay về hết, còn ông sống trở lại. Hồ sinh ở nam thôn, hiệu Thủy Tâm, là bạn thân của Lý. Ông ta nghe Lý hồi sinh liền đến thăm viếng. Lý hỏi ông ta chuẩn bị bao giờ lập bàn làm chay, Hồ kinh ngạc:
- Vừa trải qua một cơn binh hỏa lớn, gia quyến tôi may được chu toàn, vì thế tôi và bà vợ từ lâu đã có ý nguyện mở một đàn chay. Song chúng tôi chưa hở cùng ai, sao ông anh lại biết?
Lý thuật lại lời khẩn cầu của các hồn ma. Hồ than thở:
- Chỉ bàn một câu chuyện trong buồng mà dưới âm đã lan truyền khắp. Thật đáng sợ!
Do vậy ông thuận lập ngay đàn tràng.
Hôm sau, Lý đến nhà Vương, Vương còn đang mệt mỏi nằm trên giường, thấy Lý đến vội cung kính cảm tạ ông ta đã hạ cố. Lý bảo:
- Pháp luật không thể khoan thứ bất kỳ ai có tội. Bay giờ anh còn đau không?
- Không còn đau đớn gì khác, chỉ đợi những vết đòn liền miệng là khỏi.
Hơn hai mươi ngày sau Vương bình phục. Trên bắp vế đùi còn hằn những vết sẹo như những rằn roi.
Liêu Trai Chí Dị
Mối Tình Già
(Chúc Ông)



Thôn Chúc, huyện Tế Dương, có ông họ Chúc, tuổi hơn năm mươi ốm chết.
Người nhà đang tất bật sửa soạn làm tang, bỗng nghe tiếng ông gọi gấp, vội chạy đến chỗ đặt thi thể thì ông đã sống lại. Mọi người mừng quýnh xúm quanh hỏi han. Ông chỉ bảo riêng bà vợ:
- Tôi vừa mới đi, đâu tính chuyện trở lại. Nhưng đi được mấy dặm đường, nghĩ đến cái thân già mình còn ở lại phải nhờ vả lũ con, khi nóng nực, lúc rét mướt đều trông cậy ở người, sống như thế còn thú gì, chẳng thà cùng đi với tôi thì hơn. Bởi vậy tôi phải trở về rủ cả mình cùng đi nốt.
Ai cũng cho là ông mới sống lại nói mê nói sảng, không tin. Ông lại nhắc lại. Bà vợ nể lời đáp:
- Kể như thế cũng hay. Nhưng đang sống khoẻ mạnh trờ trờ thế này, chết ngay sao được.
Ông lấy tay vẫy, giục đi nói:
- Có khó gì! Những việc nhỏ nhặt trong nhà, xếp đặt qua loa chốt lát nhanh thôi!
Bà vợ cười nấn ná không đi.
Ông ta lại giục.
Bà chiều ý, ra ngoài cửa chốc lát quay vào, nói quấy nói quá:
- Đã thu xếp ổn cả rồi.
Ông bảo đi thay quần áo tử tế. Bà chần chừ, ông lại giục gấp.
Bà không nỡ trái ý cũng phải làm theo.
Con cái trong nhà, con gái con dâu đều bịt miệng cười.
Ông đặt đầu mình lên gối, vỗ vỗ tay bảo bà nằm xuống bên cạnh. Bà sượng sùng:
- Con cái đứng cá đó chúng nó cười cho, nằm sóng đôi nhau sườn sượt còn ra cái gì!
Ông đập mạnh tay xuống giường gắt:
- Cùng chết với nhau, cười cười, có cái gì đáng cười!
Con trai con gái thấy bố nổi nóng quá cũng khuyên mẹ tạm chiều.
Bà đành phải nghe theo, ghé mình nằm xuống cạnh nhau gối chung gối.
Cả nhà cùng phì cười mà không dám cười lên.
Lát sau nụ cười bà dịu đi, mắt nhắm dần lại. Chút nữa, nằm im bằn bặt lịm dần như ngủ hẳn.
Các con thấy lạ, lại gần để coi thì da thịt bà đã lạnh, hơi thở tắt hẳn. Thăm đến ông cũng thế.
Năm Khang Hi thứ 21, người em dâu ông Chúc đến làm thuê ở nhà ông thứ sử họ Tất, kể lại chuyện rõ rành lắm.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Liêu Trai Chí Dị
Xấu Người Đẹp Nết
(Kiều nữ)



Ông Kiều ở Bình Nguyên có cô con gái vừa đen vừa xấu, khuyết mũi thọt chân. Cho nên tuy cô đã hai lăm, hai sáu cái xuân xanh mà chưa ai đến hỏi. Trong huyện có chàng họ Mục hơn bốn mươi tuổi đầu, vợ chết mà nghèo quá không có tiền cưới vợ kế, mới chịu phép cưới chị ta. Ba năm sau chị ta sinh con trai. Sau đó ít lâu Mục chết. Gia cảnh túng quẫ, phải ngửa tay xin mẹ đẻ cưu mang, song mẹ cũng không cán đáng được. Chị ta đành ở lại nhà chồng, trông vào nghề canh cửi, lần hồi sinh sống.
Mạnh sinh cũng goá vợ, đứa con trai Ô Đầu mới tròn tuổi tôi. Thiếu người bú mớm cho con, chàng phải gấp nhờ người mối lái cho mấy đám nhưng chưa vừa ý. Bắt gặp Kiều thị chàng ta ưng lắm, nhờ người đánh tiếng. Kiều thị từ chối:
- Tôi đói rét thế này, nương bóng quan nhân sẽ được ăn no, sao lại chẳng muốn. Song tôi tàn tật xấu xí chẳng được bằng người. Điều còn đáng tin ở tôi là chữ đức, thế mà lại để mắc tiếng thờ hai chồng, vậy còn đi bước nữa làm gì?
Mạnh phục là hiền đức, càng đem lòng mến mộ, nhờ mối đem tiền bạc, vải lụa đến nói lót với bà mẹ. Bà mẹ thân đến nơi chị ta ở, cố khuyên nhủ nhưng không lay chuyển nổi. Bà mẹ xấu hổ vì trót nhận lời, định đem con gái út thế cho Mạnh. Người trong gia đình đều vừa ý, song Mạnh nhất quyết không chịu.
Chẳng bao lâu, Mạnh bị bệnh nặng chết. Kiều thị đến viếng tang, kêu khóc hết sức thảm thiết. Mạnh không có người thân thích gì đáng kể nên bọn vô lại trong thôn thừa gió bẻ măng, tìm cách lừa bịp lấy hết mọi vật dụng trong nhà và còn mưu tính chia nhau chiếm đoạt cả điền sản. Gia nhân cũng thừa cơ bỏ trốn. Trong nhà chỉ còn một bà vú ẳm đứa con nhỏ của Mạnh đang khóc ngằn ngặt trong màn.
Nghe chuyện đó, Kiều thị rất bất bình. Biết Lâm sinh bạn thân với Mạnh, chị ta tìm đến tận nhà mà bảo:
- Tình vợ chồng, nghĩa bạn bè là nhân luân lớn của con người. Tôi xấu xí bị người đời coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh là hiểu biết tôi. Trước đât tuy bề ngoài tôi từ chối song bên trong đã có ý bằng lòng. Nay chẳng may anh ấy thiệt phận, con còn trứng nước tôi tự thấy phải đền đáp ơn tri kỷ. Song việc nuôi dưỡng con côi cút cho anh ấy thì dễ, chống chọi lại sự cướp đoạt mới là khó. Anh không có cha mẹ anh em, nếu chỉ ngồi đó mà nhìn con bạn chết, nhà bạn tan mà không ra tay cứu giúp thì trong ngũ luân hóa không còn tình nghĩa bạn bè. Về phía tôi, tôi không góp sức được gì nhiều nhặn với anh, song đầu một lá đơn tố cáo với quan huyện, chăm sóc đứa con côi thì tôi không dám ngại khó.
Lâm hứa làm theo. Lúc ấy chị ta mới về. Lâm đang tìm cách giúp nhà bạn thì bọn vô lại biết, tức lắm, định thí cho một nhát dao. Lâm sợ quá đóng chặt cửa không dám đi nữa. Kiều thị đợi mấy ngày rồi mà chẳng có tin tức gì. Hỏi ra, điền sản nhà Mạnh đã bị cướp sạch trơn.
Kiều phẫn uất quá, bọc dao nhọn trong người, tức tốc lên quan. Quan vặn hỏi chị ta là người thế nào với Mạnh? Đáp:
- Ngài là quan tể một huyện. Cái căn cứ của ngài là có lý. Nếu như nói càn thì kẻ chí thân cũng không trốn được tội. Nếu không phải là nói càn thì tiếng nói của người qua đường cũng cần phải nghe.
Lời nói cương trực ấy đã làm quan nổi giận thét đuổi Kiều thị ra ngoài. Không còn đâu giãi bày nỗi oan phẫn, Kiều thị tìm đến cửa quan một thân sĩ. Ông Mỗ nghe chuyện ấy, cảm tấm nghĩa khí của người đàn bà, giúp đỡ đề bạt lên quan trên. Quan trên tra cứu quả điều tố cáo của chị ta là đúng, liền bắt bọn vo lại trừng trị nghiêm khắc, bắt phải haòn lại tài sản cho khổ chủ.
Có người bàn là Kiều nên chuyển sang ở hẳn nhà Mạnh để chăm sóc con côi, nhưng Kiều không chịu. Chị ta khóa chặt cửa nhà Mạnh, bảo bà vú ẵm thằng bé Ô Đầu cùng về nhà mình, để cho ở một căn riêng. Phàm những vật dụng cần thiết hàng ngày cho Ô Đầu, Kiều cùng bà vú đến nhà Mạnh mở cửa lấy để chi dùng dần. Còn mẹ con thì vẫn giữ phận nghèo, rau cháo hàng ngày như xưa, chứ không mảy may đụng đến con của Mạnh.
Khi Ô Đầu lớn, Kiều tìm thầy cho học, còn con đẻ của mình phải tập nghề nhiệp tay chân. Bà vú khuyên cho cả hai trẻ cùng học với nhau cho vui. Nàng đáp:
- Mọi phí tổn học hành là của cậu ta. Nếu tôi hao phí của người mà để cho con tôi học, sự tình ấy làm sao có thể coi là sáng tỏ được.
Mấy năm sau, Kiều đã để dành cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc. Liền hỏi con gái nhà dòng dõi cho nó, tu sửa nhà cửa, thu xếp cho nó trở về nhà cũ. Ô Đầu khóc lóc xin mẹ Kiều cùng về ở chung. Nể tình Kiều cũng nghe theo song vẫn giữ nghề dệt vải như trước. Hai vợ chồng Ô Đầu đem giấu hết đồ nghè canh cửi đi. Nàng bảo:
- Mẹ con tôi chỉ ngồi ăn thì sao yên tâm được?
Rồi sớm chiều Kiều chăm sóc việc trong nhà, lại sai con tuần hành đồng ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Vợ chồng Ô Đầu có làm sai điều gì dù nhỏ bé, nàng khiển trách luôn không nương nhẹ. Nếu có chút nào không có ý sửa lỗi, nàng lập tức thu xếp đòi đi. Hai vợ chồng phải quì xuống ăn năn xin lỗi lúc ấy nàng mới nguôi.
Ít lâu sau, Ô Đầu vào học trường quận, Kiều đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Chàng ta lại góp tiền cưới vợ cho chàng con họ Mục. Kiều cho con đẻ về ở nhà riêng cũ. Ô Đầu lưu thế nào cũng không được mới ngầm mua một trăm mẫu đất thôn để cho Mục làm phương tiện sinh sống.
Sau khi Kiều ốm lại đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Bệnh nguy kịch, bà trăng trối: thế nào cũng phải đưa về chôn nơi cũ. Ô Đầu nhận lời. Song đến khi bà mất, Ô Đầu đem vàng nói lót với con Mục, xin cho hợp táng với ông Mạnh. Đến khi đưa đám, cỗ quan tài tự nhiên quá nặng, ba chục người khiêng không nổi. Còn con Mục tự nhiên ngã lăn đùng ra đất, máu mũi hộc ra, tự miệng thốt lên:
- Đứa con bất hiếu! Sao được bán mẹ mày như thế.
Ô Đầu sợ quá, lễ lạy cầu khấn mãi hắn ta mới khỏi. Việc tống tánh phải đình lại mấy ngày để kịp sửa sang lại phần mộ ông Mục rồi hợp táng bà vào đó.
LỚI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Cảm ơn tri kỷ mà đem hi sinh thân mình đền đáp, đó là việc làm của trang nam nhi nghĩa liệt. Người đàn bà kia hỏi có hiểu biết gì nhiều lắm mà lại hành động cao cả lạ lùng đến thế? Nếu Phương Cửu Bình (1) còn sống mà gặp Kiều nữ ắt hẳn đánh giá ngay chị ta là “ngựa cự quý”
Truyện này ý nói: Phải coi trọng cái tinh thần bên trong và không nên chú ý đến những hình thức bên ngoài.

(1) Tức Cửu Phương Cao- một người xem tướng ngựa cực giỏi thời xuân thu- được Tần Mục Công sai đi tìm ngựa quý. Tìm được ngựa như ý ông ta về báo đó là ngựa cái màu vàng. Đến khi người khác đi lấy về thì đó là một con ngựa đực màu đen song rất cực tốt.
Liêu Trai Chí Dị
Mũi Dao Kinh Kha
(Điền Thất Lang)



Võ Thừa Hưu người Liêu Dương, thích giao du, phàm bạn chơi đều là người có tiếng. Đêm nằm chiêm bao, thấy một người đến nói rằng:
- Anh kết giao hầu khắp trong nước, nhưng toàn là bạn chơi phiếm. Duy có một người có thể cùng chia hoạn nạn, thì lại không hay.
- Người đó là ai?
- Điền Thất Lang chứ ai!
Võ tỉnh giấc lấy làm lạ, sáng ngày gặp bạn nào quen, cũng hỏi thăm Thất Lang là ai. Có người nói cho biết Thất Lang là thợ săn ở thôn Đông. Võ thân hành đến tận nhà, cầm roi ngựa gõ cửa; giây lát một người ở trong bước ra, độ hai mươi tuổi, lưng ong mắt báo, vận áo chẽn quần cụt, nhiều chỗ mạng vá, đứng chắp tay ngang trán, hỏi khách ở đâu tới. Võ tự khai tên họ và mượn cớ đi đường thấy khó chịu, muốn vô nghỉ nhờ cho đỡ mệt, nhân dịp hỏi Thất Lang. Người ấy đáp:
- Thất Lang là tôi đây.
Đoạn mời khách vào trong nhà. Võ thấy mấy gian nhà nát chống đỡ bằng cây. Vào một căn nhà nhỏ, trên vách treo đầy những da hổ báo, mà không có giường ghế chi để ngồi. Thất Lang trải tấm da cọp dưới đất, cùng Võ ngồi đàm đạo, lời lẽ thật thà. Võ nghe rất ưng bụng, liền đưa ra một món tiền, gọi là giúp chàng sinh kế.
Chàng không chịu lãnh. Võ nài ép mãi, chàng cầm tiền vô nhà trong nói cho mẹ hay. Lúc trở ra, lại đưa trả, nhất định không lấy. Võ ép đôi ba phen, chợt cụ già lọm khọm từ trong nhà bước ra, nghiêm sắc mặt nói:
- Già chỉ có vẻn vẹn thằng con đó, không muốn nó chơi với khách sang.
Võ thẹn ra về,, dọc đường suy nghĩ tới lui không hiểu ý bà cụ ra thế nào. Lúc nảy kẻ tùy tùng có dịp ra sau nhà nghe lõm được những lời bà cụ nói, giờ kể lại cho Võ hay.Nguyên lúc Thất Lang cầm tiền vô thưa mẹ, mẹ nói:
- Tao vừa dòm mặt công tử thấy có nám đen, tất sẽ gặp tai vạ lớn. Mẹ nghe cổ nhân có nói: được người ta biết đến thì chia sẻ điều lo, mang ơn của người ta thì phái gánh đỡ tai nạn. Giàu báo đáp bằng tiền, nghèo báo đáp bằng nghĩa. Nay vô cớ mà người ta cho được nhiều tiền, ấy là điềm chẳng lành. Mẹ e người ta sẽ đòi con đem cái chết ra báo đền ơn nghĩa đó.
Vì thế bà cụ khuyên con đừng nhận tiền.
Võ nghe chuyện, khâm phục bà cụ là người giỏi, lại càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang, qua hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang không đến, Võ đến tận nhà đòi uống rượu. Thất Lang mua rượu về thết đãi với nộm thịt nai, hết sức niềm nở theo lễ.
Cách ngày hôm sau, Võ lại mời tiệc, bấy giờ Thất Lang mới đến. Hai người uống rượu nói chuyện cực vui vẻ. Nhưng đem tiền ra tặng chàng vẫn không chịu lấy. Võ kiếm cớ đặt tiền để mua da cọp, chừng đó chàng mới chịu nhận, rồi từ biệt ra về.
Về nhà xem lại những tấm da cọp để dành, không đủ gán với số tiền, bèn nghĩ sự vào núi săn cọp mới có thể đủ số đem nạp cho Võ.
Vào núi luôn ba ngày không săn được gì. Lại nhằm hồi vợ lâm bệnh, phải ở chăm sóc thuốc men chẳng nghĩ tới việc săn bắn gì được. Ngót tuần vợ lại chết. Thất Lang phải lo việc ma chay, số tiền nhận phải đem tiêu xài gần hết. Võ đến nhà điếu tang, lễ phúng rất hậu.
Chôn cất vợ xong xuôi, Thất Lang lại mang nỏ đeo gươm lần mò vào núi, trong trí thiết tha về việc trả món nợ cho Võ. Nhưng rốt cuộc vẫn không săn được con cọp nào.
Võ dò biết ý tứ khuyên bảo đừng gấp, chỉ mong mời Thất Lang đến nhà chơi là vui, song Thất Lang băn khoăn về món nợ còn thiếu chưa trả được, nên chi nhất định không chịu tới.
Muốn buộc chàng phải đến. Võ đòi giao trước những tấm da để dành ở nhà cũng được. Thất Lang kiểm điểm da cũ, thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, trong lòng càng buồn.
Võ biết thế vội vàng đến nhà ân cần an ủi, rồi vào xem những tấm da cũ và nói:
- Da này cũng được, bản ý tôi không cần đủ cả lông mà.
Nói đoạn gỡ những tấm da xuống đem về, mời Thất Lang cùng đi chơi một thể. Chàng không chịu đi. Võ đành về một mình.
Luôn suy nghĩ về sự chưa trả đu số da cân với số tiền, lấy thế làm tấm tức, chàng lại gói lương khô, mang khí giới vào tận núi sâu. Rình mò mấy ngày đêm, hạ sát được một con cọp, để nguyên lông da, đưa nộp cho Võ.
Võ mừng, bày tiệc khoản đãi nài Thất Lang ở lại chơi luôn ba bữa với mình. Chàng khăng khăng từ chối. Võ sai gia nhân khóa chặt cửa ngõ để cầm chân chàng ở lại cho kỳ được.
Khách khứa bạn bè trông thấy Thất Lang thô kệch, thầm chê Võ công tử chọn bạn sai lầm, nhưng Võ săn sóc chiêu đãi Thất Lang hơn cả mọi người. Lại mang y phục mới nguyên cho chàng thay đổi, chàng không chịu. Võ thừa lúc chàng ngủ đem áo mới để bên, mà lấy áo cũ giấu đi. Cực chẳng đã chàng phải dùng mặc áo mới. Sau khi về nhà, vâng lời mẹ dạy, sai người đem áo mới trả lại và đòi áo cũ của mình về.Võ cười và nói với người thừa sai:
- Chú về thưa dùm với cụ rằng áo cũ đã lỡ cắt ra may lót giày rồi!
Từ đó, thường ngằy Thất Lang sai mang thịt thỏ, hoặc thịt nai đến biếu Võ, duy có mời đến chơi thì không đến nữa.
Một hôm Võ đến nhà Thất Lang, nhằm lúc chàng đi săn vắng, bà mẹ ra đứng tựa cửa nói:
- Từ nay xin ông chớ rủ rê con tôi nữa! Có ác ý gì đó vậy?
Võ rất kính lễ bà cụ, tự thẹn ra về.
Cách chừng nửa năm, gia nhân báo tin, Thất Lang vì tranh giành con heo săn được, mà đánh chết người ta, hiện đã bị giải lên quan rồi.
Võ nghe báo cả kinh, tức tốc đến quận nghe ngóng, khi chàng đã bị giam vào ngục rồi. Chàng thấy mặt Võ, không nói gì nhiều, chỉ dặn dò chăm nom giúp đỡ mẹ mình. Về nhà, Võ liền lấy ra nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm bạc nhét cho bên trên, cầu xin bãi nãi. Hơn tháng, xử vô tội, thả Thất Lang ra về. Bà cụ khẳng khái bảo con:
- Da thịt tánh mạng của con nhờ có Võ công tử mà còn, mẹ không có quyền chi nữa. Mẹ chỉ trông mong công tử suốt đời yên ổn không vướng họa chi, tức là cái phước cho con đó.
Thất Lang muốn đến tạ ơn Võ, bà mẹ lại nói:
- Con đến thì đến chớ có tạ ơn làm chi. Cái ơn nhỏ còn tạ được, chứ ơn to thì không tạ được đây!
Thất Lang đến nhà Võ, Võ tiếp rước niềm nở, Thất Lang chỉ vâng dạ lơ là, không đả động chi tới chuyện vừa qua. Người nhà Võ đều lấy làm lạ, cho là chàng sơ tình. Trái lại, Võ mừng tình ý thành đạt, càng đối đãi tử tế hơn.
Sau đó thường cách vài ba ngày, chàng lại ở chơi nhà công tử, hễ tặng món chi cũng nhận liền, không chối từ mà cũng không nói sự báo đáp.
Gặp ngày mừng sinh nhật của Võ khách khứa và bọn phục dịch tùy tùng đông quá, căn nhà chứa khách ngủ đêm đầy ứ. Võ và Thất Lang nằm trong căn nhà nhỏ. Ba người gia bộc lót rơm nằm ngay dưới chân giường. Qua canh hai, chúng đều ngủ kỹ, còn hai người vẫn nói chuyện chưa thôi.
Con dao của Thất Lang treo trên vách bỗng thò đầu ra ngoài vỏ đến mấy tác, nghe tiếng khua loảng xoảng, mà lưỡi dao lóe sáng như điện. Võ thất kinh, Thất Lang cũng chồm dậy hỏi ai nằm dưới giường.
Võ trả lời chúng nó đều là tôi tớ trong nhà. Thất Lang nói:
- Nội trong nhà này tất có đứa hung ác.
- Tại sao anh biết?
- Con dao này của tôi mua ở ngoại quốc. Nó giết người chưa từng thấm máu, họ nhà tôi đeo nó đã ba đời rồi, tính lại chặt đầu có tới số ngàn, mà vẫn bén tốt như mới rèn. Hễ có kẻ ác thì nó reo và nhẩy lên chắc chắn phải giết người đến nơi. Xin công tử nên thân người quân tử , xa kẻ tiểu nhân, họa chăng tránh khỏi tai vạ đến mình.
Võ gật đầu, Thất Lang vẫn ngậm ngùi chằng vui, cả đêm trằn trọc không ngủ. Võ nói:
- Chuyện lành chuyện dử đều do số cả, việc gì phải lo quá thế?
- Bất cứ chuyện nguy hiểm tới đâu tôi cũng chẳng sợ, chỉ băn khoăn còn có mẹ già thôi.
- Có lý đâu tai vạ đến nơi mà lo?
- Tôi trông đừng đến càng may.
Ba đứa gia bộc ngủ dưới giường là: Lâm nhi ở trong nhà đã lâu, Võ rất vừa ý; một thằng nhỏ sai vặt mới mười hai mười ba tuổi; một đứa nữa là Lý Ứng rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ mà cãi cọ với công tử luôn, khiến công tử phát giận vì nó.
Đêm ấy công tử nghĩ thầm có lẽ ác nhân là nó: cho nên tảng sáng gọi nó đến nói khéo dỗ về rồi đuổi nó đi.
Người con trường của công tử tên là Than, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm nhi ở coi nhà học giữa mùa cúc đang trổ hoa rực rỡ. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi khỏi nhà học vắng vẻ không ai, liền đến hái bông cúc. Lâm nhi chạy ra chòng ghẹo, nàng toan kêu lên, thì nó ôm đại vào trong nhà toan cưỡng hiếp. Nàng kêu khóc chống cự, đến nỗi xám mặt khản tiếng, Thân nghe chạy vào, Lâm nhi mới chịu buông nàng, rồi trốn đi mất.
Võ về nhà hay chuyện, nổi giận tìm Lâm nhi, nhưng không biết nó đi đằng nào. Qua hai ba bữa mới biết nó đã tới làm bộ hạ trong nhà ông Ngự sử nó. Ông ta làm quan ở kinh đô, việc nhà giao phó cho người em, Võ lấy tính thanh khí nói với nhau, viết thư đòi trả Lâm nhi. Người em ngự sử không trả, Võ càng tức, làm đơn lên huyện thưa.
Ông huyện có thảo trát đi bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi đến. Bấy giờ công tử cho người đến thăm dò tận nhà Thất Lang, thấy cửa đóng then cải, tứ bề vắng ngắt. Xóm giềng cũng đều không rõ tăm hơi của chàng.
Một hôm, người em Ngự sử đang ngồi trong tư thất ông huyện cùng nhau bàn chuyện riêng. Người chức việc đem hương bổng đến nộp. Bỗng dưng một người tiều phu xông tới trước mặt, đặt gánh củi xuống, rút dao nhọn ra chạy tới trước mặt Mỗ (tức là người em ông ngự sử) mà đâm. Mỗ hoảng sợ, đưa tay ra đỡ dao, dao chặt đứt cánh tay, tiều phu chém thêm nhát nữa đầu rơi xuống đất.
Ông huyện cả kinh chạy trốn. Tiều phu ngó dáo dác xem ông huyện chạy đường nào. Trong lúc đó bọn lính tráng và bọn chức dịch trong huyện, kịp đóng cửa ngõ, cầm dao vác gậy xúm lại vây bọc. Chú tiều phu tự biết khó thoát thân liền trở mũi dao tự đâm vào cổ chết.
Ai nấy xúm quanh nhìn mặt. Có kẻ nhìn biết đó là Điền Thất Lang.
Ông huyện lúc đó mới hoàn hồn hết sợ, trở ra phúc nghiệm, trông thấy Thất Lang nằm chết cứng giữa vũng máu lênh láng, tay vẫn nắm chặt dao nhọn.
Đột nhiên tử thi chồm dậy chém bay đầu ông huyện rồi lại ngã xuống.
Lính đến bắt bà mẹ Thất Lang nhưng bà mẹ đã trốn đi từ mấy bữa trước rồi.
Võ nghe Thất Lang chết, vội vàng đến nhìn mặt bạn khóc lóc cực thảm. Ai cũng bảo chính Võ chủ ý cho Thất Lang làm ra thảm sát này Võ bán hết điền sản để lo chạy quan, mới được vô sự.
Xác Thất Lang khiêng bỏ ngoài đồng, dầu dãi hơn ba chục ngày, các loài chim muông thay nhau canh giữ, Võ xin quan cho đem về tống táng rất hậu.
Đứa con Thất Lang trốn tránh đến Đặng Châu, đổi ra họ Đông, lớn lên đi lính, có nhiều công trận, được thăng dần dà tới chức đồng tri tướng quân. Khi ấy mới trở về Liêu Dương. Võ đã ngoài tám mươi, trỏ cho biết mồ mả thân phụ.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Hoá quạ, lấy vợ thần
(Trúc Thanh)



Ngư Dung, quê Hồ Nam (người kể chuyện quên mất quận, huyện). Nhà anh ta nghèo lắm, đi thi bị trượt trở về, tiền lưng không còn một đồng dính túi, đói quá phải đi ăn xin. Anh ta vào tạm trú trong miếu Ngô Vương, bi phẫn mà khấn vái trước bàn thờ thần. Ra nằm ngoài hè, bỗng có một người dẫn đến yết kiến Ngô Vương. Người ấy quỳ tâu:
- Đội Hắc Y hiện nay còn thiếu một lính, xin cho người này sung vào cho đủ.
Ngô Vương phán được. Ngư được trao một tấm áo đen, mặc vào biến ngay thành quạ, vỗ cánh bay lên. Ra đến ngoài thấy bạn quạ tụ tập thành đàn theo nhau bay đi, phân ra từng bầy đậu trên các cánh buồm. Người trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không trung, đón đợi tranh thịt. Anh ta cũng bắt chước làm thế, lát sau đã no bụng, bay đậu trên ngọn cây, cũng tạm lấy làm mãn nguyện.
Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương tình Ngư Dung còn lẻ bạn, ghép cho một con mái tên gọi Trúc Thanh. Đôi vợ chồng mới thương yêu nhau lắm. Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng nguy hiểm. Trúc Thanh nhiều lần nhắc nhở khuyên lơn nhưng Ngư đâu có chịu để vào tai. Một hôm có một người lính đi thuyền qua, bắn cho một phát trúng bụng. May có Trúc Thanh kịp cứu, quắp mang đi, Ngư mới thoát nạn. Đàn quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng cuồn cuộn nổi lật úp con thuyền. Còn Trúc Thanh thì công mồi mớm cho Ngư. Ngư bị thương nặng, một ngày sau thì chết.
Ngư Dung thốt nhiên bừng tỉnh mộng, mở mắt ra thấy mình nằm trong miếu. Số là, trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ người thấy còn nóng chưa cứng, liền cử người thay nhau xoa bóp. Đến khi Ngư tỉnh dậy, họ hỏi rõ căn do liền góp tiền bạc giúp đỡ cho về quê.
Sau đó ba năm, Ngư lại qua chốn cũ, vào bái yết Ngô Vương. Rồi soạn bữa, gọi đàn quạ xuống ăn, khấn rằng:
- Trúc Thanh có đây, xin ở lại gặp!
Ăn no nê xong, đàn quạ bay đi mất.
Sau Ngư đỗ cử nhân trở về qua đây, lại vào bái yết miếu Ngô Vương, dâng cỗ thịt dê thịt lợn. Xong lại bày cỗ lớn mời tất thảy các bạn quạ, lại khấn như trước.
Tối hôm ấy, thuyền Ngư dừng chèo trên hồ. Chàng đang chong đuốc ngồi chơi, bỗng thấy như có một con chim sa xuống trước ghế, nhìn ra thì là một nữ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi tỉnh hỏi thăm:
- Từ khi chia tay đến nay, chàng vẫn mạnh giỏi?
Ngư kinh ngạc hỏi là ai? Đáp:
- Chàng không nhận ra Trúc Thanh ư?
Ngư mừng quá hỏi nàng từ đâu đến? Đáp:
- Ngày nay thiếp làm thần nữ sông Hán, ít khi có dịp về cố hương. Trước đây, bạn quạ hai lần kể lại tấm tình luyến ái của chàng, cho nên hôm nay đến họp mặt.
Ngư càng bồi hồi cảm động như đôi vợ chồng xa cách lâu ngày, vui thú yêu thương nồng nàn khôn xiết.
Hai người bàn chuyện, Ngư muốn đưa nàng xuôi Nam về quê mình. Nàng lại muốn cùng nhau sang Tây nơi nàng đang làm thần nữ. Ý kiến chưa ngã ngũ. Khi Ngư tỉnh ngủ, thấy nàng đã trở dậy rồi, chung quanh không còn là cảnh chật hẹp trên thuyền mà là một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng trưng. Chàng kinh ngạc trở dậy hỏi:
- Đây là đâu?
Nàng cười:
- Đây là Hán Dương. Nhà thiếp là nhà chàng, hà tất phải xuôi Nam.
Trời dần sáng. Kẻ hầu người hạ tề tựu. Rượu thịt đã bày. Hai vợ chồng lên giường cao cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi về người đầy tớ theo hầu mình ở đâu? Nàng đáp:
- Còn ở thuyền.
Ngư lo nhà thuyền không đợi được lâu. Nàng cho biết:
- Chàng đừng ngại. Thiếp phải giúp chàng bảo cho họ biết.
Thế là từ đó vợ chồng ngày đêm vui thú. Ngư quên cả chuyện về.
Lại nói, nhà thuyền tỉnh mộng bỗng thấy mình đã ở Hán Dương, hoảng sợ quá. Người đầy tớ của Ngư đi tìm chủ cũng chẳng thấy chủ đâu. Nhà thuyền muốn giong thuyền đi nơi khác thì chèo lái tự nhiên đã bị cột chặt, chỉ còn cách ngồi đấy trông thuyền.
Qua đi hơn hai tháng, Ngư bỗng động tình quê mới bảo nàng rằng:
- Tôi ở đây tuyệt đường thân thích. Vả tôi với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần nhận nhà cửa, họ hàng, vậy nên như thế nào đây?
Nàng đáp:
- Không nói đến chuyện thiếp không thể nào đi được, giả sử có đi được thì ở nhà chàng ắt phải có vợ, vậy sẽ xử sự với thiếp như thế nào? Chi bằng cứ để thiếp ở đây thành một phòng khác của chàng là được.
Ngư e ngại đường sá quá xa xôi, không thể năng lui tới. Nàng đưa ra một bộ áo đen, bảo chồng:
- Tấm áo cũ của chàng hãy còn đây. Khi chàng nhớ đến thiếp, cứ mặc áo này vào là có thể phút chốc đến được. Rồi thiếp sẽ cởi giúp ra cho.
Đoạn nàng sai bày tiệc lớn hoan tiễn, đủ các thức ngon lành, quý giá. Say rồi đi ngủ, khi tỉnh dậy Ngư đã thấy mình ở trong thuyền. Nhìn ra cảnh vật thì bến cũ Động Đình là đây. Nhà thuyền và người đầy tớ đều còn đủ ở đó. Thấy chàng bất chợt trở về họ cả kinh, xúm vào hỏi chuyện. Ngư nhớ lại việc vừa xảy ra, cũng không khỏi bàng hoàng.
Nhìn quanh, chàng thấy bên gối có cái bọc, giở ra xem thì đủ cả áo mới, giày thêu Trúc Thanh gói tặng, trong đó có tấm áo đen đã một thời thân thuộc. Lại thấy có cả một cái túi thêu có dây buộc thắt ngang, mở ra thấy đầy tiền bạc. Cứ thế giong buồm xuôi Nam, khi cập bến Ngư trả công cho nhà thuyền khá hậu.
Về nhà được mấy tháng chàng lại cháy lòng nhớ tới Hán Thuỷ, liền kín đáo giở tấm áo đen ra mặc. Tức thì đôi tay biến thành đôi cánh bay vút lên không. Chỉ độ vài khắc đồng hồ đã đến nơi mong nhớ. Bay liệng nhìn xuống dưới thấy giữa hòn đảo nhỏ đơn độc có một toà lâu đài, chàng liền hạ cánh xuống. Một thị tì nhanh mắt trông thấy đã vội reo lên:
- A! Quan nhân đã đến!
Loáng sau, Trúc Thanh đi ra, vội sai những người xung quanh cởi “áo” cho chàng, bộ lông bộ cánh đều trút ra hết. Hai vợ chồng nắm tay nhau bước vào nhà, nàng nhanh nhảu bảo:
- Chàng đến vừa khéo. Chỉ nay mai thiếp ở cữ.
Ngư hỏi đùa:
- Nàng đẻ thai hay đẻ trứng?
- Thiếp nay đã là thần, xương da đều đổi khác xưa kia rồi.
Mấy ngày sau quả nhiên nàng sinh nở. Bọc thai to như một quả trứng lớn. Xé vỏ ra là một cậu con trai. Ngư mừng lắm, đặt ngay tên là Hán Sản làm kỉ niệm. Ba ngày sau, các thần nữ Hán Thuỷ đem các vật quý lạ đến mứng. Đó là những cô nàng xinh đẹp, không quá ba mươi. Họ đều vào buồng, lấy ngón tay gí lên mũi thằng bé, gọi như thế là “tăng thọ”. Họ ra rồi, Ngư hỏi vợ:
- Đó là những ai vậy?
Đáp:
- Đều là bạn thiếp cả.
Ngư lưu lại vài tháng. Trúc Thanh sai đánh thuyền đưa chàng về quê. Thuyền không phải dùng buồm hoặc mái chèo mà cứ rẽ nước phăng phăng. Cập bờ, đã có người giữ ngựa đứng đợi sẵn, đưa cho chàng cưỡi về. Vì thế chàng cứ qua lại luôn luôn.
Mấy năm sau, Hán Sản lớn lên càng dĩnh ngộ. Ngư yêu quý lắm. Bà vợ họ Hoà ở quê khổ tâm vì nỗi không sinh nở, cứ khao khát được nhìn thấy Hán Sản. Ngư thuật lại nguyện vọng ấy cho Trúc Thanh nghe, nàng liền sắm sửa hành trang cho con theo bố về quê, hạn ba tháng phải quay lại.
Về đến nơi, Hoà thị yêu quý Hán Sản quá con đẻ, để hơn mười tháng không chịu cho về. Một hôm đứa bé đột nhiên mắc bệnh mất. Hoà thị xót thương tưởng chết. Ngư phải đi Hán Thuỷ báo tin, vừa bước vào nhà đã thấy Hán Sản chân trần nằm chơi trên giường, mừng quá vội hỏi Trúc Thanh. Nàng trả lời:
- Chàng lỗi hẹn lâu quá. Thiếp nhớ con không chịu được, phải tìm cách đưa nó về đây.
Ngư giãi bày, chậm là do Hoà thị quá mến con. Nàng hẹn:
- Thôi, đợi thiếp sinh nở tiếp rồi cho Hán Sản về hẳn quê.
Quả nhiên, hơn một năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái là Ngọc Bội. Ngư bèn dẫn Hán Sản về. Song mõi năm ba bốn lần đi lại thăm nom không được tiện, cho nên Ngư chuyển nhà luôn tới Hán Dương.
Hán Sản 12 tuổi vào học trường quận. Nàng cho là ở trần thế không có người đẹp, gọi con về Hán Thuỷ cưới vợ - tên là Hỗ Nương - cũng là con gái thần nữ, rồi mới cho trở về quê.
Sau Hoà thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang như mẹ đẻ. Tang lễ xong xuôi, Hán Sản lưu lại quê cũ còn Ngư Dung dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi hẳn không thấy trở về nữa./.

Liêu Trai Chí Dị
Nam Nam Thành Thần
( Vương Lục Lang)



Họ Hứa làm nghề đánh cá, nhà ở bắc thành Tuy Châu. Đêm đêm anh ta đem bầu rượu ra bờ sông kéo cá, mỗi lần uống rượu lại rưới một chén xuống đất lầm rầm khấn:
- Mời nam nam (ma chết đuối) uống rượu cùng ta.
Như thế trở thành thường lệ và hôm nào Hứa cũng đầy giỏ cá. Còn những người khác thì không được mấy.
Một đêm vừa giở rượu ra, có một chàng trai lảng vảng đi tới bên. Hứa sốt sắng gọi vào cùng uống. Tuần rượu có bạn, cảm khái say sưa kéo dài suốt đêm, nên không được con cá nào. Hứa có ý buồn phiền. Chàng trai đứng dậ nói:
- Để tôi xuống mạn dưới sông xua cá lên.
Nói rồi lãng đãng bước đi, lát sau trở lại bảo Hứa:
- Cá đã đến đấy!
Quả nghe có tiếng cá quẫy roàn roạt dưới sông. Hứa vội kéo vó lên, được liền mấy con cá dài hơn một thước (thước ta bằng 0,4m).
Hứa mừng quá, cảm tạ và muống đưa cá tặng chàng trai. Nhưng chàng ta không nhận:
- Đã từng mang ơn rượu ngon, kẻ hèn này chưa có gì báo đền, đâu dám nhận tạ. Nếu ông không ghét bỏ, xin cứ cho như thế này luôn luôn.
Hứa nói:
- Mới vừa mời nhau một chén rượu, sao nói là “đã từng”? Còn nếu anh có lòng muốn gặp gỡ lâu dài thì đó cũng là điều tôi mong muốn. Song tôi cũng lấy làm thẹn vì không có gì đáng kể để bày tỏ mối giao tình.
Hỏi đến tên họ, chàng ta nói:
- Tôi họ Vương, không có tên. Muốn gặp nhau, xin cứ gọi là “Vương Lục Lang”.
Từ biệt nhau, sáng ra Hứa đem bán cá, mua nhiều rượu hơn mọi khi. Tối đến, Hứa ra bờ sông đã thấy chàng trai lởn vởn ở đó. Hai người lại khề khà, chén chú chén anh. Được một chén, chàng ta đứng dậy đi xua cá cho Hứa.
Cứ thế nửa năm, một hôm Vương rầu rầu rầu bảo Hứa:
- Được quen biết nhau, mối thanh giao thân thiết như ruột thịt, ngày càng gắn bó. Nay sắp đến ngày phải từ biệt, nói ra mà đau lòng!
Hứa sửng sốt hỏi vì sao? Vương ngập ngừng định nói lại thôi, mãi sau mới bày tỏ được.
- Thân tình thế này có điều gì đáng ngại? Nay đến lúc từ biệt tôi xin nói rõ: tôi là ma nam nam. Thuở sinh thời tôi rất thích rượu, chết đuối vì say, hồn ma lẫn quất ở đây đã mấy năm rồi. Anh kéo được cá hơn mọi người là do tôi đuổi cá đến để đền ơn hàng đêm đổ rượu xuống đất cho. Ngày nay sắp có người làm ma ở đây, tôi được thác sinh làm người. Chúng ta chỉ còn gặp nhau đêm nay, cho nên không khỏi động lòng.
Hứa nghe nói là ma, trong bụng đã có ý kinh, song vì gần cận lâu ngày cho nên không thấy sợ, chỉ còn thương cảm, sụt sịt khóc, rót rượu mời:
- Lục lang! Anh hãy cạn chén rượu này cũng đừng cảm động quá làm gì. Hợp mặt với nhau chưa được mấy mà đã chia ly đôi ngả, ai chẳng buồn. Song anh đã mãn nghiệp chướng, chính là điều đáng mừng. Buồn vậy không nên!
Rồi cùng nhau nâng chén. Hứa hỏi kỹ:
- Người thay anh sắp tới đây là ai?
- Anh cứ ra bờ sông, trưa mai sẽ thấy, trưa mai sẽ thấy một người đàn bà qua sông rồi chết đuối. Người ấy thế chân tôi đấy!
Gà trong làng gáy sáng. Hai người nhỏ lệ chia tay.
Hôm sau Hứa ra bờ sông xem lời nói của Vương có ứng nghiệm không? Quả nhiên có một người đàn bà ẵm đứa bé sảy chân ngã xuống sông. Đứa bé văng lên bờ, quẫy chân, quờ tay, xệch mồm kêu khóc. Nguời đàn bà vật vờ chìm nổi mấy lần bỗng vùng vẫy mạnh tạt được vào bờ, trèo lên nằm vật ra đất. Chị ta thở mạnh một lúc, trở dậy bế đứa bé đi.
Lúc người đàn bà ngã xuống sông Hứa động lòng đã muốn nhảy xuống cứu. Chợt nhớ tới Lục lang, người này thế chân cho anh ta mãn kiếp, cho nên lại thôi. Khi người đàn bà tự lên được. Hứa cho là lời Vương không nghiệm. Đến tối, Hứa ra chỗ kéo vó thấy người bạn trẻ lò mò tới nói:
- Từ nay lại cùng nhau họp mặt tiếp không phải ly biệt nữa.
Hứa hỏi vì sao?
Đáp:
- Người đàn bà ấy sắp sửa thay tôi nhưng tôi cám cảnh cho chị ta còn đứa bé. Một người thay mà hại cả hai mạng thật không nỡ. Từ nay không biết đến bao giờ mới có người thế. Âu duyên hội ngộ hai ta chưa đến ngày dứt chăng?
Hứa cảm động than thở:
- Thật là một tấm lòng nhân hậu, có thể cảm thông đến thượng đế.
Hai người lại càng thân thiết chuốc ché. Chỉ vài ngày sau. Lục lang đến lại từ biệt. Hứa hỏi, đã có người thay chăng?
Đáp:
- Không phải. Việc nhỏ mọn hôm trước cảm động đến trời, nên nay có mệnh vời tôi đi xa làm thổ thần ở Ổ Trấn thuộc huyện Chiêu Viễn. Mai, tôi phải về châu nhậm chức. Vì anh không quên tình bạn cũ, xin mời anh đến thăm một chuyến, chớ hiềm đường xa cách trở.
Hứa lấy làm mừng cho bạn, song lại phân vân:
- Anh chính trực mà làm thần, thế đủ yên lòng thần dân. Còn việc tôi đi thăm thì thần với người cách xa trời vực, dù tôi không kiêng sợ song làm thế nào đến mà gặp mặt nhau cho được?
- Nếu có lòng đừng ngại điều đó.
Vương dặn kỹ càng năm bảy lượt mới chia tay. Hứa về nhà sắm sửa hành trang. Vợ cười bảo:
- Chiêu Viễn cách đây vài trăm dặm. Nhưng chỉ e đến nơi tượng đất không nói ra tiếng để mà nhận thì phiền.
Hứa bỏ ngoài tai, cứ đi, thẳng đến huyện Chiêu Viễn. Hỏi thăm, quả có ấp Ổ Trấn. Tìm đến nơi, mang hành lý gửi nhà trọ, hỏi thăm miếu thổ địa ở đâu, chủ nhà kinh ngạc hỏi ngay:
-Chắc hẳn ông khách họ Hứa?
- Đúng nhưng sao chủ biết?
Chắc hẳn khách đến chơi thăm ấp chúng tôi?
Hứa lại hỏi sao biết? Chủ nhà không trả lời, vội vã ra ngoài. Lát sau, một người đàn ông bế con tới, đàn bà con trẻ lấp ló đứng ngoài nhòm vào. Rồi cơ man nào là người tấp nập kéo đến đứng đông đặc ngoài cửa. Hứa lo sợ không hiểu ra sao. Họ cung kính thưa rằng:
- Trước đây mấy đêm. Thần bản địa đã báo mộng có người bạn họ Hứa ở Tuy Châu sắp đến thăm, phải sửa soạn đón tiếp giúp đỡ mọi thứ vật dụng hàng ngày. Vì vậy chúng tôi đã chờ từ bấy.
Hứa lấy làm lạ, liền tới miếu làm lễ khấn rằng:
- Từ sau khi chia tay tôi thức ngủ không yên cho nên không dám ngại đường xá, cho tròn hẹn trước. Thần còn báo mộng cho dân, nghĩa tình ấy ghi tạc trong dạ, riêng thẹn lễ vật không có chi đáng kể, chỉ xin có chén rượu này. Ví còn không ghét bỏ, xin lại cùng uống như những đêm cạn chén ở bờ sông.
Hứa khấn xong, đốt vàng đổ rượu. Liền đó, một trận gió nổi lên cuốn lễ vật đi mất. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy Lục lang tới, mũ áo óng ánh khác hẳn ngày trước, vái tạ Hứa rằng:
- Đường xa dặm thẳm, vất vả thăm nhau, thực là khó phân mừng tủi. Tôi nay ở vào chức mọn không tiện giáp mặt, thành ra chỉ trong gang tấc mà như cách trở núi sông thật là buồn dạ. Song đã có dân ấp khoản tặng lễ vật thay tôi đón tiếp. Khi nào trở lại nhà, tôi sẽ xin theo tiễn.
Được vài ngày Hứa muốn về. Dân làng khẩn khoản lưu lại, ân cần ngày đêm thay phiên nhau túc trực khoản đãi. Hứa cố từ tạ trở về. Họ truyền tin cho nhau tranh nhau đến gặp. Chưa tới nửa buổi, vật biếu mang tặng đã đầy túi. Từ người đầu bạc cho đến đứa trẻ để chỏm tụ tập đông nghịt tiễn đưa.
Hứa vừa ra khỏi thôn, một trận gió lốc nổi lên, cuốn theo đến mười dặm. Hứa đứng lại vài dặm mà khấn:
- Lục lang trân trọng quá, đừng phải mất công tiễn nhau xa thế. Lòng thần nhân ái có thể dành phúc cho cả một vùng không cần đến lời dặn dò của cố nhân nữa.
Trận gió còn quanh quất một hồi rồi mới tan đi. Dân làng thấy cũng bàng hoàng quay về. Từ đó gia tư nhà Hứa dần dần dư dật ít nhiều, không phải làm nghề đánh cá sinh sống như trước nữa.
Về sau, khi gặp người huyện Chiêu Viễn, Hứa hỏi thăm. Họ nói vị thần ấy linh thiêng lắm.
Lại có người nói đó chính là thổ thần ở tràng Thạch Thanh ấp Chương Khâu.
Chuyện thực ở đâu chưa rõ.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Thanh vân nhẹ bước mà không quên bạn nghèo hèn như thế mới là thần vậy. Ngày nay những kẻ cưỡi xe há có nhớ đến người bạn nón lá xưa cũ.
Quê tôi có người tên là Lâm hạ, nhà nghèo lắm. Có người bạn từ nhỏ nay giàu chức lớn, anh ta muốn đến thăm, cố sức lắm mới chê biện được hành trang, bôn ba hơn nghìn dặm. Đến nơi thất vọng về bạn thù tiếp, anh ta phải dốc túi bán ngựa mới trở về được nhà. Anh em họ hàng làm bài hát đùa rằng:



Tuần trăng đã đến, bác vừa về
Mũ lông đã mất dù che không còn
Hỏi đâu cái nghẽo * gầy mòn
Đôi giày há mõm có còn ở chân?


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
* cái nghẽo: tiếng lóng chỉ ngựa
Liêu Trai Chí Dị
Trương Thành

Người họ Trương ở đất Dự , tổ tiên là người nước Tề, cuối đời Minh, nước Tề có loạn to, vợ bị quân giặc cướp đem về Bắc. Trương vẫn thường lui tới làm khách đất Dự, bèn làm nhà luôn ở đó. Lấy vợ người Dự, sinh con trai tên là Nột.
Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai nữa tên là Thành. Vợ kế họ Ngưu, rất hung tợn, thường ghét Nột, nuôi Nột như đứa ở. Cho ăn toàn rau dưa hẩm hút. Sai đi chặt củi thì đòi hỏi cho được mỗi ngày một gánh. Nếu không thì roi vọt mắng chửi, không thể chịu nổi. Chỉ cất giấu những thứ ăn ngon ngọt cho Thành, lại cho vào trường tư để học.
Thành dần lớn lên, tính hiếu nghĩa, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên an mẹ, mẹ chẳng chịu nghe. Một hôm, Nột vào núi lấy củi, chưa xong việc thì gặp mưa to gió lớn, phải ẩn mình dưới vách núi. Hết mưa thì trời đã tối, bụng đói cồn cào, bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, giận dữ không cho ăn. Lửa đói đốt lòng, vào nhà nằm vật ra. Thành đi học về, thấy anh thờ thẫn, thì hỏi:
- Ốm sao?
Nột đáp:
- Đói thôi mà.
Thành hỏi nguyên do. Nột nói hết sự tình. Thành buồn rầu rồi đi ra. Một lúc sau đem bánh về cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra. Thành nói:
- Tôi lấy trộm bột, mướn chị hành xóm làm cho, hẵng cứ ăn đi, chớ nên nói gì cả.
Nột ăn xong dặn em rằng:
- Từ sau chớ làm như thế nữa, việc lộ thì liên lụy đến em. Vả lại, ngày ăn một bữa thì đói chức không chết đâu!
Thành nói:
- Anh đã yếu sẵn rồi, sao có thể hái nhiều củi được?
Ngày hôm sau, ăn xong, lén vào núi, đến tận chỗ anh làm củi. Anh trông thấy giật mình hỏi:
- Định làm cái gì thế?
Đáp:
- Định hái củi giúp anh.
Hỏi:
- Ai bảo em?
Đáp:
- Tự tôi đến mà thôi.
Anh nói:
- Không cứ là em không hái được, ví phỏng có hái được cũng không nên.
Thế rồi giục Thành về ngay. Thành không nghe cứ lấy tay bẻ củi giúp anh. Lại nói:
- Ngày mai em phải đem búa đi!
Anh đến gần bảo thôi, thì thấy ngón tay bị toạt, giày bị rách, buồng rầu bảo em rằng:
- Mày không về nhanh thì tao lấy búa tự chặt cổ chết đấy.
Thành bèn ra về. Anh đưa đến nửa đường, mới quay lại. Khi gánh củi về qua trường, dặn thấy học rằng:
-Em tôi còn nhỏ tuổi, nên răn cầm nó, kẻo trong núi nhiều hổ beo lắm!
Thầy nói:
- Trước giờ ngọ không biết nó đã đi đâu, đã cho ăn đòn rồi!
Nột về bảo Thành:
- Không nghe lời anh nên bị phạt roi rồi đấy!
Thành cười rằng:
- Không có đâu!
Ngày hôm sau, lại xách búa đi. Anh sợ hãi nói:
- Anh vẫn bảo em chớ đến đây, sao lại cứ thế?
Thành không trả lời, hối hả chặt củi, mồ hôi đầm đìa hai bên má vẫn không chịu nghỉ lấy một lúc, chừng đủ một bó, không nói năng gì trở ra về.
Thầy lại trách mắng Thành, bèn nói hết tình thực. Thầy khen là hiền, rồi cũng không ngăng cấm nữa.
Anh nhiều lần bảo thôi, cuối cùng Thành cũng chẳng nghe.
Một hôm đang cùng mấy người làm củi trong núi, bỗng có hổ đến. Mọi người sợ hãi trốn nấp hết cả, hổ liền tha Thành đi. Hổ mang người nên đi thong thả, bị Nột đuổi kịp. Nột ra sức giáng một búa trúng vào đùi. Hổ bị đau chạy lồng lên, không sao đuổi kịp nữa, đành chỉ đau đớn khóc lóc mà trở lại. Cả bọn khuyên dỗ an ủi, khóc càng thảm hơn, nói:
- Em tôi chẳng phải như em người khác; huống chi nó vì tôi mà chết, tôi sống làm sao được?
Bèn lấy búa tự chặt vào cổ. Mọi người vội cứu thì đã ngập vào thịt đến gần một phân, máu vọt ra lênh láng, mắt hoa muốn chết. Ai cũng khiếp, bèn xé áo buộc cho anh ta, rồi cả bọn cõng về.
Bà mẹ khóc lóc mắng rằng:
- Mày giết con ta, lại muốn chặt cổ, để liếm lấp hay sao?
Nột rên rỉ nói:
- Xin mẹ chớ phiền não, em chết, nhất định tôi chẳng sống nào!
Đặt lên giường, vết thương đau đớn không sao ngủ được. Ngày đêm chỉ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ con cũng chết nốt, thường đến bên giường bón cho ăn chút ít, Ngưu thị liền nhiếc mắng. Nột không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết.
Trong làng có thầy đồng rí (3); vong hồn Nột đi trên đường gặp thầy, bèn tỏ bày nông nỗi khổ sở mấy ngày trước đây, nhân hỏi chổ ở của em. Thầy đồng nói: “Không nghe tin gì”. Thế rồi quay lại đưa đường cho Nột đi. Đến một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen từ trong thành đi ra. Thầy đồng đón đường rồi thay Nột hỏi thăm Thành. Người áo đen xem kỹ lại tập trát ở trong túi đang treo, đàn ông đàn bà có hơn trăm, nhưng không có tội phạm nào họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trác khác chăng. Người áo đen nói:
- Con đường này thuộc về tôi, sao có thể bắt lầm được!
Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma mới, ma cũ qua lại nộn nhạo. Cũng có người quen biết cũ, đến hỏi, không ai biết cả.
Bỗng nhiên ai nấy cùng nhao nhao lên: “Bồ Tát đến!” Ngẩng lên nhìn, thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ từ trên xuống dưới, vụt cảm thấy như thế giới trong trẻo sáng bừng.
Thầy đồng mừng nói rằng:
- Cậu cả có phúc thay! Bồ Tát mấy mươi năm mới xuống âm ty một lần để nhổ sạch mọi khổ não. Vừa đúng hôm nay được gặp!
Liền kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ lúc nhúc ngổn ngang, chắp tay nhất tề tụng niệm: “Từ bi cứu khổ”. Tiếng vang chấn động mặt đất.
Bồ Tát lấy cành dương, rưới nước cam lộ khắp mọi nơi, hạt li ti như bụi. Một lát, sương mới tan, hào quang thu lại, thì không thấy đâu nữa. Nột cảm thấy trên cổ thấm nước cam lộ, chỗ vết búa không còn đau. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về. Trông cổng làng, thầy mới từ biệt mà đi.
Nột chết đã hai ngày, bỗng nhiên sống lại, bèn thuật hết những gì mình đã gặp, vào bảo rằng Thành chưa chết. Bà mẹ cho rằng đặt điều nói láo, lại chửi mắng Nột. Nột mang oan mà không thể tự giải bày. Sờ đến vết thương thì đã lành. Đành gượng dậy, lạy cha mà nói rằng:
-Con băng mây vượt biển tìm em. Như mà không thấy, thì thân này hết mong trở lại, xin cha cứ coi như là con đã chết.
Ông đưa con ra chỗ vắng, cùng nhau khóc lóc không dám giữ con lại. Nột ra đi, thường đến những con đường lớn để hỏi tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm đến Kim Lăng, quần áo rách xơ, buộc túm trăm múi lọm khọm trên đường. Ngẫu nhiên trông thấy hơn mười người cưỡi ngựa đi qua, Nột tránh sang bên đường. Trong đó có một người như quan lớn, tuổi chừng bốn mươi trở lại, lính hầu lực lưỡng, ngựa hung hăng rộn rịp trước sau. Một thiếu niên cưỡi ngựa nhỏ, nhìn Nột nhiều lần. Nột cho là một vị công tử con quan, chưa dám ngẩng nhìn, thì thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, rồi bỗng xuống ngựa gọi to:
- Có phải anh ta đó không?
Nột ngước đầu nhìn kỹ thì ra là Thành. Liền nắm lấy tay em, đau đớn quá, khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc và nói:
- Anh sao phải xiên bạt đến nỗi này?
Nột kể hết sự tình, Thành càng thêm âu sầu. Những người cưỡi ngựa đều xuống, hỏi duyên cớ rồi bẩm lại với quan lớn. Quan lớn truyền bớt ra một con ngựa để chở Nột, dong cương về đến nhà, rồi mới hỏi chuyện tường tận.
Trước đây, hổ tha Thành đi, đặt ở bên đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Vào lúc ông Trương Biệt Giá từ kinh đô đi đến, ngang qua chỗ Thành nằm, thấy mặt mày nho nhã, thương xót đến vực lên, vỗ về, Thành dần dần sống lại. Nói nhà cửa quê quán, thì đã đi quá xa. Vì thế bèn chở Thành cùng về, lấy thuốc đắp vào chỗ bị thương, vài ngày thì khỏi. Biệt Giá không có con trai bèn nhận Thành làm con. May hôm đó gặp buổi Thành theo bố nuôi đi dạo chơi ngắm cảnh.
Thành kể lại với anh đầy đủ mọi việc; vừa xong. Biệt Giá đi vào. Nột lạy tạ không thôi. Thành vào nhà trong, mang áo lụa ra biếu anh, rồi bày tiệc rượu, trò chuyện tự tình.
Biệt Giá hỏi:
- Họ nhà ta, ở tại Dự có bao nhiêu đinh?
Nột nói:
- Không ạ, cha tôi lúc bé người đất Tề, đến cư ngụ ở đất Dự.
Biệt Giá nói:
- Tôi cũng người Tề, quê nhà ta thuộc làng nào?
Nột đáp:
- Từng nghe cha tôi nói thuộc hạt Đông Xương.
Biệt Giá kinh ngạc hỏi:
- Thế tôi cũng cùng làng, vì sao lại dời đến Dự?
Nột nói:
- Cuối đời nhà Minh, quân Thanh vào biên giới bắt cóc bà mẹ già đem đi. Cha tôi gặp loạn đao binh, trôi dạt không nhà không cửa. Trước đây từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen, vì thế mà ở lại đó.
Biệt Giá kinh sợ hỏi:
- Cụ nhà ta tên là gì?
Nột nói cho biết, Biệt Giá tròn mắt nhìn, rồi cúi đầu như nghi ngờ, rảo bước mau vào nhà trong. Không bao lâu, thái phu nhân ra, tất cả đều lạy chào. Xong hỏi Nột rằng:
- Maỳ có phải là cháu của Trương Bỉnh Chi chăng?
Nột đáp: “Phải”
Thái phu nhân khóc lớn, bảo Biệt Giá rằng:
- Đây là em của mày.
Anh em Nột chưa hiểu thế nào. Thái phu nhân nói:
- Ta lấy cha chúng mày ba năm, lưu lạc sang bắc, thân mình thuộc về Hắc Cố Sơn, được nửa năm, sinh anh mày, lại nửa năm nữa, Cố Sơn chết, anh mày nhờ bổ trật trong quân ngũ mà chuyển dần lên chức quan này. Bây giờ không làm quan nữa, không một giờ khắc nào là không tưởng nhớ quê hương. Bèn ra sổ tịch lấy lại họ cũ. Đã nhiều lần cho người đến đất Tề, mà không chỗ nào tìm thấy âm hao gì cả. Nào có biết đâu cha chúng mày đã dời sang miền tây.
Rồi nói với Biệt Giá rằng:
- Mày nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi.
Biệt Giá nói:
- Hồi trước có hỏi Thành, Thành chưa từng nói là người Tề, cứ nghĩ còn bé dại, nên không nhớ.
Bèn dựa vào tuổi để xếp đặt lại: Biệt Giá bốn mươi mốt tuổi, làm anh cả, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi hai tuổi là anh cả mà thành anh hai.
Biệt Giá được hai em mừng quá, nằm ngồi cùng có nhau, nên biết tận cội nguồn mọi nguyên do chia lìa lưu lạc, và toan tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung chăng. Biệt Giá nói:
- Dung được thì ở cùng nhau, nếu không thì ở riêng ra, chứ trong thiên hạ, có nước nào mà lại không có tình cha con?
Rồi đó bán đất, bán nhà sắm sửa hành lý, định ngày đi về tây. Khi đến đầu làng, Nột và Thành dong ruổi về trước, báo tin cho bố biết. Ông bố từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết. Chỉ còn trơ trọi một ông lão góa, người và bóng đối nhau.
Bỗng nhiên thấy Nột vào, bội phần mừng rỡ, thảng thốt giật mình. Lại thấy Thành thì mừng quá đỗi, không nói được gì, nước mắt ràn rụa. Lại được tin mẹ con Biệt Giá cũng đến. Ông dừng khóc ngạc nhiên không ra vui, cũng không ra buồn, đứng ngây như phỗng. Không bao lâu Biệt Giá vào, lạy chào xong thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Đã thấy con hầu vú già, người giữ ngựa đầy tớ trong ngoài chật ních, đứa đứng đứa ngồi không còn biết như thế nào.
Thành không thấy mẹ liền hỏi, mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đựt hơi, một lúc tỉnh lại.
Biệt Giá đem tiền của ra xây dựng lầu gác, mời thầy dạy học cho hai em.
Ngựa nhảy trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.



CAO XUÂN HUY dịch

Liêu Trai Chí Dị
Nối Giấc kê Vàng
(Tục Hoàng Lương)



Mới đỗ ông nghè đã tự kiêu
Càng nghe tâng bốc lại như diều
Nồi kê tích cũ không chi lạ
Giấc mộng giàu sang só bấy nhiêu.



Ông cử họ Tăng, người Phúc Kiến, lúc vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ vừa xong, cùng hai ông bạn tân khoa đi chơi ngoài thành. Chợt nghe trong chùa Bi Lô có một thầy xem số tử vi ở trọ, liền rẽ ngựa tới đó bói một quẻ.
Tăng vào, nghênh ngang tự ngồi chẳng đợi ai mời chào. Thầy tướng thấy người có vẻ tự đắc, bèn kiếm lời nịnh hót thâm. Tăng cầm quạt phe phẩy, mỉm cười hất hàm hỏi thầy tướng coi mình có số mệnh mặc mãng bào, đeo đai ngọc triều phục của tể tướng không?
Thầy tướng nghiêm trang nói Tăng sẽ làm Tể tướng yên ổn trong hai mươi năm. Tăng mừng lắm, vẻ mặt càng kiêu. Nhằm lúc trời mưa nhỏ bèn nhủ bạn vào trong chùa nhà thầy tạm ẩn. Một vị sư già, mũi cao mắt lõm, ngồi trên nệm cỏ, ngạo mạn không chào hỏi gì. Mấy người giơ tay chào qua loa, rồi tự leo lên giường ngồi nói chuyện với nhau. Ai nấy đều mừng Tăng là tể tướng. Tăng càng nở mũi tự kiêu trỏ bạn đồng du mà nói:
- Lúc nào tôi làm tể tướng, tôi cử Trương huynh làm tuần phủ một tỉnh miền nam; ông anh cô cậu với tôi làm chức tham du; lão bộc nhà tôi cũng được chức thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện.
Mọi người cười vang. Kế bên ngoài mưa như trút nước, Tăng mệt mõi, ngã người lên giường mà ngủ.
Bỗng thấy hai vị trung sứ đem tờ chiếu chỉ của thiên tử viết tay, đến vời Tăng tể tướng vào triều bàn định việc nước. Tăng khoái chí lật đật vào chầu. Ngài Ngự bước ra nghênh tiếp hỏi han niềm nở giây lâu, rồi truyền cho Tăng được tự quyền bổ các quan tam phẩm trở xuống; lại ban cho mãng ngọc và ngựa quý. Tăng mặc áo mãng bào, mang đai ngọc cúi đầu lạy tạ ơn rồi đi ra.
Về nhà thì thấy nhà mình ở cũ bây giờ là dinh thự, cột chạm cửa sơn, rất mực lộng lẫy, đến nỗi chính Tăng cũng không hiểu vì đâu mình chóng vinh hiển đến thế này. Chỉ biết giờ phút này cất tiếng khẽ gọi, đã nghe những tiếng vân dạ vang như sấm dậy. Rồi thì các quan công khanh đem biếu sơn hào hải vị, tấp nập ngoài cổng. Các quan lục khanh (tức lục bộ thượng thư) tới thăm thì Tăng còn đứng dậy chào mời; hạng thị lang thì xá và nói chuyện với, còn từ hạng đó trở xuống, Tăng chỉ trả lời bằng cái gật đầu mà thôi.
Tuần phủ Sơn Tây gửi tặng một phường nữ nhạc mười người đều là gái mỹ miều son trẻ. Đẹp nhất Niễu Niễu và Tiên Tiên, hai người càng được yêu quý, hầu hạ vấn tóc gội đầu, ngày ngày đàn hát làm vui.
Một hôm nhớ lại hồi còn hàn vi, thường được một thân sĩ trong làng là Vương Tử Lương giúp đỡ nay mình đã chót vót mây xanh, mà ông còn lênh đênh trên đường sĩ hoạn, sao không đưa tay dìu dắt ông ấy một phen?
Sáng hôm sau, Tăng dâng sớ tiến cử Vương làm chức Gián nghị, liền được vua giáng chỉ bổ dụng ngay.
Lại nghĩ Quách thái bộc từng trợn mắt gây gổ với mình liền mời bọn Lữ cấp gián và thị ngự Trần Xương tới, mách bảo ý tứ; rồi ngày hôm sau bọn ấy kế tiếp nhau dâng sớ kể tội Quách Thái bộc làm cho ông này bị cách chức và bị đuổi về vườn.
Xong việc ân đền oán trả, Tăng hơi mát lòng khoái ý.
Bữa nọ quan tể tướng đi chơi ngoài thành, một anh chàng say rượu đi loạng choạng thế nào đụng vào cờ quạt giàn hầu của ngài, ngài liền thét lính trói cổ và giải đến dinh phủ doãn kinh thành. Lập tức anh ta bị đánh đòn đến chết.
Những người có nhà cửa nguy nga, ruộng nương bát ngát đều sợ quyền thế mà dâng đất đai màu mỡ. Từ đó Tăng càng trở nên giàu có.
Không bao lâu Niễu Niễu và Tiên Tiên kế tiếp nhau qua đời. Tăng khuya sớm bâng khuâng, chợt nhớ lại năm nọ, mình trông thấy cô gái ở xóm đông tuyệt đẹp, thường ao ước mua nàng về làm hầu thiếp nhưng vì hồi đó còn nghèo nàn chẳng được như nguyện. Bây giờ có địa vị cao sang, muốn sao được vậy, liền sai mấy đứa tôi tớ giỏi đem tiền đến ấn đại vào nhà nàng mà bắt nàng đi. Một lúc, võng khiêng nàng về dinh. Tăng trông thấy so sánh với khi mình trông thấy ngày trước, giờ nàng càng đẹp hơn. Nghĩ lại bình sinh như vậy đủ mãn nguyện.
Hơn một năm, xem ra các quan trong triều có ý thầm thì bàn tán, trong bụng chê bai, nhưng chẳng ông nào dám nói ra miệng.
Tăng thấy vậy càng vênh váo nghênh ngang, chẳng thêm bận lòng chú ý.
Có quan long đồ học sĩ họ Bao, dâng sớ hạch tội Tăng đại lược như sau:
- “Thiết nghĩ: Tăng mỗ nguyên là một đứa rượu chè cờ bạc đàng điếm tiểu nhân, một lời nói hợp ý mà được hoàng thượng tin dùng, cha con vẻ vang, ơn huệ tột bậc. Thế mà chẳng nghĩ làm sao dốc lòng hiến thân, báo đáp ơn vua trong muôn một; lại dám lòng dạ buông lung, tự tiện làm điều oai, phúc, cái tội đáng chết, nhổ tóc mà đếm không đủ.
“Danh vị quý báu của triều đình coi như món hàng đem bán lấy tiền làm giàu, tha hồ so đo gầy béo, đánh giá hơn thua, vì đó mà công khanh tướng sĩ đều phải luồn lọt tới lui nhà hắn, tính toán lo lót, như tuồng bán buôn, núp bóng nhờ hơi kể sao cho xiết. Hoặc có người là hạng kiệt sĩ hiền thần, không chịu a dua theo hắn, nhẹ thì đuổi về vườn còn nặng thì giáng xuống làm lính. Rối đổi không về hùa với hắn, liền bị buộc tội hươu vượn không đâu, đày đi những chốn hùm beo xa lắc. Nhân sĩ thấy mà lạnh mình, triều đình hóa ra cô lập.
“Lại còn máu mỡ của dân, tha hồ bóc lột, con gái lương thiện ép uổng làm hầu; đến nỗi tiếng oán than dậy, khí uất xông lên, mặt trời cũng phải vì đó mà u ám.
“Tôi tớ của hắn đi tới đâu, thì quan lại địa phương phải nể mặt, thư từ của hắn gửi tới đâu thì người cầm quyền tư pháp ở đó phải làm trái phép cho được chiều lòng. Có khi con cái bọn nấu ăn, giữ ngựa cho hắn, hoặc là bà con đi đâu cũng hạch sách ngựa trâu, hò hét như sấm vang gió bão, hễ điạ phương cung cấp hơi trễ, là roi vọt lập tức ra oai. Thôi thì chúng ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, thầy trò đi tới chỗ nào thì đồng ruộng chỗ ấy không còn một ngọn cỏ xanh.
“Trong khi đó, Tăng mỗ vênh mặt ỷ mình đác thế, không chút ăn năn; khi ở trong triều đình thì giả dối xảo trá trước mặt nhà vua, chưa về tới nhà thì đàn ngọt hát hay đã chờ sẵn. Thanh sắc cẩu mã ngày đêm hoang dâm, quốc kế dân sinh không chút lo nghĩ, ở đời há có thứ tể tướng nhu vậy ư?
“Vì thế, trong ngoài xôn xao, nhân tâm hồi hộp, nếu không kịp trị bệnh bằng hình phạt búa rìu, thể tất gây nên cái họa Tháo Mảng cướp nước. Hạ thần sớm tối lo lắng, không dám có lúc nào ăn ngon ngủ yên, liều chết đề ra các khoản trên đây, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong thánh thượng ra lệnh chém đầu gian nịnh, tịch của tham ô, hầu trên hợp ý trời, dưới khoái lòng dân. Nếu xét ra thần bày đặt chuyện, thì dao búa vạc dầu xin làm tội thần lập tức. v.v....”
Sớ này dâng lên vua, Tăng nghe hồn xiêu phách lạc, lạnh mình như uống băng; nhưng may nhờ vua khoan dung, xem sớ bỏ đó, không hỏi gì cả.
Tiếp đến các quan trong triều, ngoài quận thi nhau dâng sớ hạch tội trạng của Tăng. Ngay bọn xưa kia xin làm đồ đệ, thờ kính bằng cha, nay cũng đổi lòng trở mặt, theo hùa hạch tội như thường.
Bấy giờ vua mới giáng chỉ tịch thu gia sản và bắt Tăng đi làm lính Vân Nam. Người con y làm thái thú quận Bình Dương, triều đình cũng sai quan ra tận nơi xét hỏi.
Tăng ở nhà nghe tin con, đang kinh hoảng đau xót thấy có mấy người võ sĩ, nách gươm tay mác, vào thẳng buồng, lột áo mão cũa Tăng, trói chung với vợ. Tiếp thấy bọn lính chuyển vận của cải trong nhà ra ngoài sân, vàng bạc tiền nong đến mấy trăm vạn; hột châu ngọc quý có đến mấy trăm hộc, những thứ chăn màn giường chiếu cũng mấy ngàn món. Đến nỗi những áo lót trẻ con và giày tất đàn bà rơi vãi lung tung ở trên thềm. Tăng nhất nhất trông thấy như đâm vào tim vào mắt.
Giây lát một người lính túm cổ nàng hầu đẹp của Tăng lôi ra, đầu bù miệng mếu, mặt ngọc tái xanh khiến Tăng càng bi thảm như lửa đốt ruột gan, nhưng nén tủi nuốt thương mà không dám nói.
Rồi thì lâu đài kho vựa, niêm phong đâu đó xong xuôi, võ sĩ mới thét Tăng ra đi. Người cầm đầu toán áp giải lôi kéo bắt đi thật mau.
Vợ chồng Tăng thổn thức lên đường; lúc này cầu lấy một con ngựa xoàng, cỗ xe xấu cho đỡ mỏi chân cũng không thể được.
Đi được ngoài mười dặm vợ mỏi chân, đuối sức loạng choạng muốn ngã, Tăng đưa một tay ra nâng đỡ vợ. Lại đi hơn mười dặm nữa, chính mình cũng mổi mệt hết hơi; xa trông thấy những ngọn núi cao ngất mây xanh, tự lo không thể trèo nổi. Chốc chốc lại nắm tay vợ nhìn nhau khóc sướt mướt nhưng chủ cai trợn mắt ra oai, không cho ngừng một tí nào khả dĩ ngủ đỡ, cực chẳng đã, vợ chồng níu nhau, cà nhắc đi từng bước.
Khi đến sườn núi vợ đã kiệt sức, ngồi phịch bên đường mà khóc. Tăng cũng đánh liều ngồi nghỉ, mặc kệ chủ cai mắng chửi.
Bỗng nghe trăm tiếng nổi lên ồn ào, một tốp trộm cướp vác giáo dài , dao nhọn nhảy qua lề đường mà tiến đến trước mặt. Chủ cai hoảng sợ bỏ chạy, Tăng quì mọp nói với bọn chúng rằng mình làm quan bị cách chức và đi đày xa, trơ trọi một thân, trong hành lý chẳng có tài vật gì đáng giá, năn nỉ chúng tha cho làm phúc.
Bọn cướp trợn mắt nói:
- Tụi tao là bọn lương dân bị hại, chỉ lấy cái đầu thằng nghịch tặc mà thôi, ngoài ra không đòi hỏi gì hết.
Tăng nổi giận:
- Tao dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ bay là lâu la giặc cỏ, sao dám hỗn xược như thế?
Bọn cướp nổi xung, huơ búa lớn chặt cổ Tăng, nghe đầu rơi xuống đất một tiếng huỵch.
Hồn vía đang hãi hùng bỡ ngỡ liền có hai quỷ sứ đến nắm lấy tay lôi đi. Đi mấy khắc đồng hồ, vào một nơi đô hội. Giây lát trông thấy một tòa cung điện trang nghiêm, trên điện có một vị vương giả mặt mày dữ tợn, ngồi chiễm chệ xét xử tội phúc. Tăng khúm núm ngồi xuống đợi lệnh.
Vương giả mở tập hồ sơ ra xem qua mấy hàng, bỗng thịnh nộ thét lớn:
- Thằng này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu.
Lũ quỷ dạ ran, muôn miệng họa theo, tiếng như sấm sét.
Tức thời có những quỷ cao lớn chặn lại, túm cổ Tăng lôi xuống giữa sân, thấy cái vạc dầu cao chừng bảy thước bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run rẩy kêu gào, muốn chạy trốn cũng chẳng được, quỷ lấy tay trái nắm lấy tóc, tay mặt xách cẳng đưa bổng Tăng lên mà ném vào vạc dầu. Tăng thấy mình tùy theo dầu sôi mà nổi lên chìm xuống, da thịt cháy bỏng, đau buốt đến tận tim, dầu sôi vào miệng, phanh xé ruột gan, ý muốn cho mau chết nhưng lại không chết liền cho. Phỏng chừng xong xuôi bữa ăn, quỷ mới cầm cây nĩa lớn khều Tăng ra ngoài, lại đặt dưới thềm.
Bấy giờ Vương giả lại kiểm sổ sách, nổi giận và nói:
- Nó cậy thế hiếp người, phải xử phạt núi đao phanh thây xé các nó mới xứng.
Quỷ lại lôi Tăng đi, đến chỗ thấy một trái núi không to lớn lắm nhưng đá mọc dựng đứng chung quanh có đao nhọn đâm ra ngang dọc tua tủa, như những khóm măng dày kiến. Đã sẵn có có mấy người bị đâm bụng thọc ruột đang vướng trên đó, nghe tiếng họ kêu gào và trông thấy cảnh tượng mà thương tâm thảm mục. Quỷ giục Tăng leo lên. Tăng khóc rống lùi trở lại, quỷ cầm đùi nhọn đâm vào óc, Tăng đau quá, kêu lên van nỉ, khiến quỷ nổi giận, chụp lấy Tăng rồi ra sức tung bổng lên không.
Tăng thấy mình lơ lửng trên không, rồi rơi xuống một bụi gai, mũi dao nhọn đâm thẳng vào bụng, đau đớn không sao tả xiết. Giây lát vì thân thể nặng nề, thành ra lổ dao đâm dần dà khoét rộng, rồi mới rớt xuống đất, chân tay rúm lại.Quỷ lại dẫn vào trước mặt vương giả.
Vương giả sai người tính sổ coi một đời Tăng bán chức buôn danh, cướp đơạt của cải thiên hạ, cộng lại số tiền là bao nhiêu? Tức thời, cón 1 rậm râu đứng gảy con toán rồi đáp: “Hết thảy là ba trăm hai mươi tư muôn”.
Vương giả nói:
- Nó đã chứa vào, giờ bắt nó phải uống đi.
Một lát, bầy quỷ khiêng vác tiền bạc ra xếp đống dưới thềm, cao như gò núi. Đoạn, bỏ lần vào trong nồi gang, chất lửa mà nấu cho hóa ra nước.
Mấy đứa quỷ sứ thay phiên nhau lấy gáo múc nước ấy đổ vào miệng Tăng tràn qua hai má thì da thịt cháy xèo xèo, vào tới cuống họng thì ruột gan sôi lên sùng sục. Sinh thời chỉ lo cái vật ấy thu vào ít, bây giờ lại sợ nó đến mình quá nhiều.
Công việc uống vàng bạc tới nửa ngày mới xong. Vương giả sai người áp giải Tăng đi Cẩm Khâu, chuyển sinh làm con gái.
Đi độ vài bước, thấy trên giàn cao, gác một cây dầm bằng sắt, chu vi độ mấy thước, buộc một bánh xe khổng lồ, rộng lớn không biết là mấy trăm dặm, sáng lòe năm sắc, chiếu rọi mây xanh. Quỷ cầm roi vụt Tăng, bắt phải leo lên bánh xe ấy. Tăng vừa nhắm mắt leo lên thì bánh xe quay tít, dường như bị té rơi xuống, khắp thân thể mát lạnh, té ra đã hóa làm đứa trẻ sơ sinh, mà lại là con gái.
Rồi nhìn tới cha mẹ, thì áo rách quần lành, ở trong lều tranh vách đất, bị gậy treo kia, bấy giờ Tăng mới tự biết mình đã chuyển sinh làm con kẻ ăn mày.
Lớn lên, ngày ngày đi theo lũ trẻ đồng bối ăn mày ăn xin khắp nơi. Cái bụng lép kẹp, không một bữa nào được ăn no, mình mặc áo rách tả tơi, gió thổi lạnh buốt thấu xương. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đem bán làm nàng hầu. Ông tú tài họ Cố, tuy cơm áo hơi đủ no ấm, nhưng phải người vợ lớn độc dữ, hàng ngày roi vọt đánh đập luôn tay, lại nung sắt đỏ mà đốt vú. May được ông chồng khá thương yêu, cho nên tự an ủi đôi chút. Xóm bên đông có một thiếu niên hung tợn leo tường sang nhà, ép phải giao hoan với nó. Nàng tự nghĩ kiếp trước của mình làm nên tội ác những gì, để bị quỷ sứ hình phạt đáo để rồi, có lý đâu kiếp này lại phải chịu nhơ nhuốc lép vế thế này nữa, nàng bèn kêu cứu ầm lên. Chồng và vợ lớn vùng dậy, tên thiếu niên kia mới chạy trốn.
Không bao lâu, một đêm ông tú qua buồng nà nằm ngủ, đầu ấp tay gối, nàng đang rủ rỉ kể nỗi oan khổ của mình cho chồng nghe, bỗng dưng có tiếng thét vang cửa buồng mở toang, hai tên côn đồ xách dao áp vào chặt đầu ông tú rồi vơ vét áo xống đồ vật mà đi. Nàng cuộn tròn trong chăn, không dám ho he. Bọn côn đồ đi rồi, mới kêu la ầm và chạy qua buồng vợ lớn. Chị này cả kinh, ôm thây chồng khóc lóc, nghĩ nàng đưa tình nhân đến giết chồng bèn làm đơn trình quan thứ sử bản hạt.
Nàng bị bắt và bị tra tấn đau quá, buộc phải nhận tội. Quan kết án lăng trì ( lóc từng miếng thịt) xử tử.
Lính trói ra chỗ hành hình, trong bụng nàng nghẹn ngào nỗi mình oan uổng, vừa đi vừa la trời cho rằng trên trần dưới âm, không có tình cảnh nào đen tối hơn thế này. Đang lúc kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn đồng du lay gọi:
- Anh bị ma đè hay sao mà la dữ thế.
Bấy giờ Tăng mới tỉnh giấc, thấy vị sư già vẫn ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Các bạn xúm lại hỏi: “Trời chiều bụng đói sao anh ngủ ngon thế?” Tăng buồn rười rượi đứng lên, vị sư già mỉm cười hỏi:
- Quẻ bói tể tướng đã thấy nghiệm chưa?
Tăng càng kinh hãi chắp tay vái sư và hỏi tại sao mà biết. Sư nói:
- Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có bóng sen nở ra chứ bần tăng có biết gì đâu.
Tăng vênh mặt khi đến, bây giờ xuôi xị trở về, cái ý nghĩ đài các từ đó nguội lạnh, rồi vào núi tu, về sau thế nào không rõ.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Phiên Chợ Giữa Biển
La Sát hải thị



Mã Tuấn biểu thị Long Môi, con nhà buôn bán, đẹp trai tính phóng khoáng, thích múa hát, theo phường hát hội lấy khăn gấm bịt đầu trông mỹ miều như con gái, nhân đấy có biệt hiệu là Tuấn Nhân.
Hồi mười bốn tuổi, lên học trường quận, liền nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nghỉ buôn bán ở nhà, bèn khuyên con:
- Mấy quyển sách khi đói không thể náu mà ăn, khi rét không thể may mà mặc, con ạ! Thôi thì con nghỉ học nối nghiệp theo cha, xoay ra thương mại thì hay hơn.
Từ đó, Mã tập buôn bán, lần hồi, theo người ta đi buôn ngoài biển. Một hôm, ghe bị gió bão thổi băng đi mấy ngày đêm, tới một nơi đô hội, người trên đảo xấu xí lạ lùng.
Vậy mà họ thấy Mã, lại cho là yêu ma, ồn ào bỏ chạy. Ban đầu, Mã sợ hãi quá, đến khi biết rõ người bản xứ sợ mình, bèn lợi dụng ngay tình trạng ấy mà nhát họ. Gặp họ đang ngồi ăn, Mã chạy càn đến; ai nấy đều sợ hãi chạy tán loạn, chàng được xơi những món ăn thừa.
Lâu dần vào mãi xóm làng chân núi, thấy ở đây cũng có kẻ mặt mũi giống y như người, duy có quần áo lam lũ rách rưới như lũ ăn mày. Chàng ngồi nghỉ dưới gốc cây, người ta không dám mon men đến gần, chỉ đứng xa xa mà ngó trầm trồ. Lâu rồi thấy chàng không phải là loài cắn xé ai, bấy giờ mới dần dà đến gần.
Chàng cười và nói với họ. Tiếng họ tuy khác, nhưng có thể hiểu được nửa phần. Chàng tỏ căn do vì sao mình lạc đến xứ này. Người làng mừng rỡ loan báo cho làng xóm biết rằng người khách lạ không phải đến vồ cắn ai đâu. Tuy nhiên những kẻ xấu xí nhất hạng chỉ đứng xa ngó, chẳng nỡ bỏ đi ngay, nhưng không dám đến gần.
Bọn đến gần chàng, nhận thấy vị trí mũi miệng cũng giống người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời ăn. Chàng hỏi tại sao thấy mình lại sợ. Họ đáp:
- Chúng tôi thường nghe ông bà truyền lại rằng: Cách đây hai mươi sáu ngàn dặm, về phía tây có người Trung Quốc, người dân mặt mũi kỳ quái. Bấy lâu chỉ nghe đồn thôi, ngày nay mới tin là có sự thật.
Hỏi tại sao dân bản xứ nghèo, họ đáp:
- Điều quý chuộng ở nước chúng tôi, chẳng phải ở văn chương mà ở hình mạo. Người đẹp nhất hạng làm chức thượng khanh; thứ đến chức dân xã; hạng dưới chót nữa cũng được các bậc quý nhân thương yêu, cho nên có lương bổng để nuôi con. Còn như hạng chúng tôi đây, lúc mới oa oa chào đời, cha mẹ cho là vật bất thường, nhiều nhà quăng đi không nuôi. Trừ ra nhà nào vì sự nối dõi tông môn thì mới không đành lòng bỏ đi; miễn cưỡng mà nuôi thôi.
- Nước này tên là nước gì?
- Đây là nước Đại La Sát, kinh đô ở cách ba mươi dặm về hướng Bắc.
Mã yêu cầu họ dẫn đi xem kinh đô một phen cho biết. Gà gáy thức dậy cùng đi. Trời sáng đến kinh đô. Thành xây bằng đá đen như mực; lâu đài cao ngót trăm thước, nhưng có ít lợp ngói chỉ lấy những phiến đá đỏ úp lên trên, trông chẳng khác son đỏ.
Vừa gặp lúc bấy giờ bãi chầu, các quan nghênh ngang võng lọng từ trong triều ra về. Người nhà quê cùng đi với Mã, trỏ vào một vị quan nói:
- Quan lớn tướng quốc đó.
Mã nhòm thấy hình dung quan lớn mà thấy rùng mình, hai tay ngoẳng ra lưng, mũi có ba lỗ, lông mày úp lấy ba mắt như treo tấm màn. Đến mấy ngài cưỡi ngựa đi qua, người hướng đạo nói với Mã:
- Đó là quan đại phu. Lần lượt giới thiệu quan chức mỗi vị từ trong triều kế tiếp ra về. Mã trông mặt mũi người nào người nấy dị hợm quái kỳ, có điều quan chức càng thấp kém chừng nào thì diện mạo cũng bớt xấu xí chừng ấy.
Một lúc sau, Mã đi về qua các phố phường; người ta trông thấy vừa la vừa chạy, té lên ngã xuống làm như gặp phải quái vật chi vậy. Người quê hết sức phân phải, bấy giờ người chợ mới dám đứng ngó xa xa, không chạy tán loạn nữa.
Sau khi Mã trở về sơn thôn, khắp trong nước trẻ già lớn nhỏ, chẳng ai không nghe biết sơn thôn có một người quái cư trú. Từ đó các nhà quyền quý danh vọng muốn cho dân gian được rộng kiến văn cho nên tranh nhau bảo người sơn thôn luân phiên nhau mời Mã đến chơi.
Nhưng, Mã đến nha nào, nhà ấy sợ hãi vội vàng đóng chặt cửa ngõ, đàn ông, đàn bà, con gái lén lút dòm qua khe cửa, run sợ bàn tán nhau; hết trọn ngày ấy, ngày khác không có ai mới tới gặp mặt. Người trong làng nói:
- Chốn này có một vị quan chấp kích, xưa kia từng phụng mạng tiên vương đi sứ ngoại quốc, từng trông thấy thiên hạ nhiều, có lẽ chỉ ông ta dám tiếp kiến anh mà không sợ hãi thôi.
Mã nghe lời, đến nhà ông chấp kích. Thật quả ông này vui mừng tiếp rước, đãi như thượng tân. Mã ngó diện mạo ông, như một cụ già tám chín mươi tuổi, hai con mắt nổi bật ra bên ngoài, râu tua tuả như lông con chim.
Ông ung dung nói chuyện:
- Hồi lão còn trẻ tuổi, từng phụng mạng vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ tiếc chưa đi tới nước Trung Hoa lần nào. Nay đã một trăm hai chục tuổi lại được trông thấy thượng quốc nhân vật thế này, thật là có phước, không thể nào không tâu thiên tử hay biết. Nhưng lão về ở ẩn nơi rừng núi đã mười năm nay, không để gót tới sân rồng; vậy sáng ngày mai, lão xin vì ông, cố gắng đi chầu thiên tử một phen.
Laõ nói đoạn, sai dọn tiệc thết đãi. Sau vài tuần rượu, gọi phường nữ nhạc gồm mười mấy cô ra trước tiệc thay phiên nhau múa hát làm vui. Cô nào mặt mày cũng xấu xí như quỷ dạ xoa, bịt đầu bằng gấm trắng, mình vận áo đỏ quét đất, giọng hát nghe ồ ồ, chả biết là bản gì, mà nhịp nhàng cũng kỳ cục khó hiểu. Coi bộ lão quan vui sướng lắm, hỏi coi Trung Hoa có đờn nhạc xướng hát như vầy không? Mã đáp: có. Lão quan xin Mã hát thử một bài ca Trung Hoa cho nghe. Mã gõ nhịp trên bàn, ca một bài.Lão quan hớn hở nói:
- Lạ thay! Tiếng hát như hoàng kêu, phụng gáy, lão chưa từng nghe bao giờ.
Sáng bữa sau, lão lên đường, vào chào quốc vương, cốt tiến cử Mã.
Vua hân hoan xuống chiếu vời ngay. Song có ba quan đại thần, tau bày hình dạng Mã quái gở, nếu vời vào chầu, e làm kinh hãi thánh thể. Quốc vương nghe tâu liền bãi lệnh tuyên triệu quái nhân Trung quốc.
Lão quan tức tốc về nhà, thuật chuyện cho Mã nghe và tỏ ý rất tiếc. Mã ở nhà lão quan lâu ngày đâm buồn, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, bèn cầm gươm đứng dậy múa, lấy than lọ bôi mặt đen thủi đen thui, đóng vai Trương Phi. Chủ nhân trầm trồ khen thế là đẹp:
- Xin ông cứ để bộ mặt Trương Phi đến bái yết quan tể tướng, chắc ngài trọng dụng lo gì chẳng được chức cao lộc nhiều.
Mã lắc đầu nói:
- Trời ơi! Bôi nhọ thế này mà chơi đùa, còn có thể yêu thương được, có lý nào vác bộ mặt hát bội đi cầu lấy vinh hiển.
Chủ nhân cố nài ép mãi, Mã mới chịu nghe.
Hôm sau, ông làm tiệc lớn, mời các nhà đương quyền đến nhà yến ẩm, bảo Mã vẽ bộ mặt nhọ nồi sẵn sàng chờ đợi. Một chặp quan khách kéo đến đông đủ, ông kêu Mã ra trình diện. Khách đều sửng sốt, nói:
- Quái lạ, sao bữa trước xấu như ma lem, nay hóa mỹ miều xinh đẹp đến thế?
Rồi các quan cùng kéo Mã ngồi chung tiệc rượu, chén tạc chén thù hết sức vui vẻ. Mã đứng dậy múa may, hát ê a một khúc đúm, cử tọa tấm tắc khen hay. Qua ngày sau, các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã với vua. Nghe nói Mã đã đổi xấu ra đẹp, vua lấy làm mừng rỡ sai đem cờ mao tiết đi vời chàng vào triều.
Khi làm lễ bái kiến xong, vua hỏi về đạo trị an của Trung !uốc, chàng cặn kẽ tâu bày, được vua khen thưởng đáo để, liền ban yến ở ly cung. Rượu ngà ngà say, vua hỏi:
- Nghe đồn khanh giỏi múa hát, có cho quả nhân được thưởng thức chăng.
Mã đứng lên bỏ bộ múa hát, cũng bắt chước trùm đầu bằng gấm trắng, hát giọng đò đưa. Vua nghe thích chí liền phong cho Mã chức hạ đại phu. Chàng thường được vua ban tứ yến riêng, hậu đãi khác cả mọi người.
Lâu dần, các quan lớn nhỏ trong triều biết cái mặt chàng bôi nhọ là bộ mặt giả, nhờ đó mà công danh phú quý. Chàng đi tới đâu cũng được người ta nói thì thầm với nhau, không niềm nở với mình nữa. Từ đó chàng hóa ra cô lập, trong lòng cắn rứt không yên, liền dâng biểu xin về hưu dưỡng. Vua không cho. Lại nằn nì xin nghỉ có hạn, vua cho nghỉ ba tháng.
Chàng dùng ngựa trạm, chở các món vàng bạc châu báu trở về sơn thôn. Dân sở tại kéo nhau ra quì đón bên đường. Chàng phân cấp tiền bạc cho những nhà tử tế với mình lúc nọ, tiếng chúc tụng hoan hô, vang dậy như sấm. Dân làng nói:
- Chúng tôi hèn mọn, mang ơn quan đại phu tặng cho tiền bạc, ngài mai có phiên chợ giữa biển, sẽ tìm mua vật quý để đền đáp quan đại phu.
Chàng hỏi chợ biển ở chỗ nào, dàn làng nói:
- Tức là chợ họp dưới biển, người cá (người sống dưới nước như cá) ở bốn biển, gom góp châu báu, bốn phương 1 hai nước, cùng tới trao đổi. Trong đó có nhiều thần nhân đến chơi, mây ráng đầy trời ba đào cuồn cuộn; vì thế những hạng quý nhân tự trọng, không dám xông pha hiểm nghèo, cứ trao lụa là cho chúng tôi, mua dùm các món đồ lạ đem về cho họ. Nay mai sắp đến phiên chợ ấy rồi.
Mã hỏi tại sao biết chắc ngày giờ nào đến phiên chợ biển họp. Dân chúng cắt nghĩa:
- Mỗi khi chúng tôi thấy có đàn chim đỏ bay liệng tới lui tức là bảy hôm sau có chợ.
Mã lại hỏi hành kỳ bao lâu, ý muốn cùng đi xem chợ cho biết nhưng dân làng ngăn bảo chàng phải tự trọng, vì đi chợ rất mạo hiểm, thường thường có đi không về. Chàng nói:
- Các ngươi đừng lo dùm tôi. Tôi vốn đi biển đã quen, sợ chi sóng gió.
Cách mấy ngày sau, quả thấy có người đến gửi tiền của để mua đồ. Tới kỳ chàng vận hành lý xuống thuyền cùng đi chợ biển với người ta. Thuyền chở được khoảng vài chục người, dáng thẳng lườn cao, mười tay bơi chèo, thuyền đi vùn vụt như tên.
Trải qua bốn ngày, xa trông khỏang mây nước giáp nhau, lâu đài lo nhô trùng điệp, những ghe buồm bán đậu dày như kiến. Một chặp đến dưới chành thành nhìn lên vách tường cao bằng đầu người, lầu gác trên mặt thành chót vót đụng mây xanh.
Buộc thuyền xong vào bờ, thấy các món châu báu la liệt trong chợ, ánh sáng lóng lánh chói mắt, nhiều thứcc trần gian không có. Một thiếu niên cưỡi ngưạ đi tới, người họp chợ đều dạt ra tránh đường, bảo nhau đó là Đông dương tam thái tử.
Thế tử đi ngang, liếc mắt thấy Mã, nói:
- Người này là người xứ lạ!
Lập tức, có kẻ tùy tùng đến hỏi Mã tên họ là gì, quê quán nơi nào. Chàng đứng bên đường, chắp tay vái chào thế tử và tự giới thiệu mình. Thế tử mừng và nói:
- Được ngài quá bộ tới đây, thật có duyên phận không ít.
Nói đoạn, trao một con ngựa cho chàng cưỡi, cùng nhau song song theo hướng tây một quãng, mới tới bờ đất cù lao.
Ngựa phăng phăng nhảy đại xuống nước, chàng khiếp đảm kêu lên thất thanh; bỗng thấy nước biển tách ra thành đường đi, hai bên chót vót như vách thành dựng đứng. Đi một lát thấy bày ra trước mắt những toà cung điện nguy nga, đồi mồi làm kèo, vẩy rồng làm ngói, bốn vách thủy tinh, lóng lánh chói mắt.
Chàng xuống ngựa, bước vào cung điện, ngó lên thấy Long vương ngồi trên. Thế tử kính tâu:
- Thần đi xem chợ, được gặp một hiền sĩ Trung Quốc, nên dẫn về đây ra mắt đại vương.
Chàng làm lễ bái yết xong, Long vương hỏi:
- Tiên sinh là bậc học sĩ, hẳn làm vă n hay, vậy quả nhân muốn cậy làm giùm bài phú chợ biển, xin đừng tiếc công nhả ngọc phun châu.
Chàng cúi đầu phụng mạng, liền có thị vệ đem ra nghiên thuỷ tinh, bút râu rồng, giấy trắng như tuyết, mực thơm như lan. Chàng tức thời viết thành bài văn hơn một nghìn chữ đưa trình. Long vương xem rồi khen không tiếc lời:
- Tài lớn của tiên sinh, làm cho thủy quốc vẻ vang biết mấy.
Rồi hội họp các thủy tộc, mở tiệc lớn ở cung Thế Hà. Sau vài tuần rượu, Long vương nâng chén hướng về phía khách nói:
- Quả nhân có đứa con gái cưng, hiện chưa lấy chồng, muốn gả cho tien sinh, thuận hay không?
Chàng tự thẹn không biết nói thế nào chỉ cúi đầu vâng dạ mà thôi, Long vương day lại tả hữu, nói gì chẳng rõ, giây lát mấy nàng cung nữ phò công chúa ra làm lễ, vàng ngọc leng kheng, đàn sáo inh ỏi. Chàng đáp lễ và liếc dòm công chúa, mỹ miều như tiên.
Công chúa chào khách xong trở vào hậu cung.
Sau khi bãi tiệc, hai thị nữ cầm đèn lồng, đưa chàng vào hậu cung.
Công chúa trang điểm ngồi đợi trong phòng kê giường san hô, chạm đồ bát bảo, tấm màn che ngoài kết bằng ngọc minh châu, viên nào viên nấy lớn như cái đấu; chăn mền nệm gối đều bằng thứ rêu mềm mại thơm tho. Trời mới bừng sáng, a hoàn cung nữ đã tấp nập trước mặt để chờ sai khiến.
Chàng ra triều đường bái tạ, Long vương phong chức phò mã đô úy, và sai chép bài phú gửi đi các biển xem.
Long vương ở các biển điều sai sứ đến mừng, nhân dịp gửi thiếp mời phò mã tới uống rượu.
Chàng vận đồ gấm vóc cưỡi rồng xanh ra đi, mấy chục võ sĩ cưỡi cá ngựa theo hộ vệ cùng mang cung sơn son, cầm hèo bịt bạc long lanh rầm rộ, lại có phường nhạc theo hầu, trên lưng ngựa gảy đàn tranh ngồi trong xe gõ phách ngọc.
Nội trong ba ngày, chàng dạo chơi khắp các biển, vì đó cái tên “Long môi” (rồng làm mai) vang dậy bốn biển. Trong cung có một cây ngọc, mình đầy một ôm sáng ngời và trong suốt như lưu ly trắng; giữa có rượu màu vàng lợt, nhỏ thua cánh tay, lá cây giống như bích ngọc dày bằng đồng tiền âm u rậm rạp. Thường ngày vợ chồng ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo làm vui. Đến mùa hoa nở chi chít, cứ mỗi lá rụng xuống đất, kêu lên một tiếng keng, lượm lên xem như mã não màu đỏ, có chạm trổ và trong sáng khác thường. Thỉnh thoảng có loài chim lạ, tới đậu trên cây hót vét von, lông vàng ánh, đuôi dài hơn mình, tiếng hót có khi não nùng tới gan ruột. Mỗi lần chàng nghe đều chạnh lòng tưởng nhớ quê hương, bèn thừa dịp nói với công chúa:
- Tôi lạc lõng đã ba năm, cha mẹ già bặt tin vắng bóng, lần nào tôi nghĩ đến cũng thắt lòng thắt ruột, muốn về thăm quê quán, khanh có vui lòng theo tôi về chăng?
Nàng nói:
- Tiên phàm cách trở em không thể nào đi theo. Tuy nhiên em cũng chẳng nỡ vì tình yêu cá nước mà để chàng lỗi đạo hiếu với cha mẹ, vậy thong thả, em tính cho.
Chàng nghe khóc vùi, nàng cũng than thở:
- Sự thế bắt buộc phải vậy, tình hiếu không thể lưỡng toàn.
Hôm sau chàng đi dạo, Long vương hỏi:
- Ta nghe phò mã muốn về thăm quê, vậy sớm mai khởi hành được chăng?
Chàng thưa:
- Thần bơ vơ lưu lạc may nhờ đại vương đoái tưởng,, bấy lâu mang ơn quá nhiều, vẫn ghi trong gan ruột, chỉ mong sẽ trở lại hầu đại vương.
Tối lại nàng đặt tiệc từ giã. Chàng hẹn sau lại gặp nhau, nhưng nàng thản nhiên nói:
- Tình duyên đôi ta đến đây là hết rồi.
Chàng xót xa khóc lóc cực thảm. Nàng an ủi và nói:
- Về nhà phụng dưỡng cha mẹ tỏ rõ lòng chàng hiếu thảo. Đời người ta tan hợp, trăm năm cũng như đầu hôm sớm mai, can chi khóc lóc như đàn bà? Miễn sao từ nay, em vì chàng mà giữ tiết trinh, cũng như chàng vì em mà giữ tín nghĩa, thì mỗi người một nơi, hai lòng như một, thế là vợ chồng gắn bó đấy; hà tất sớm tối ngồi ôm nhau, mới là bách niên giai lão ư? Nếu bên nào có ăn ở lỗi với thề nguyền, có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng gặp tốt lành êm đẹp. Ví bằng chàng lo trong nhà không ai nội trợ thì có thể mua hầu cưới thiếp, không sao. Nhân dịp em còn một chuyện nói với chàng: từ ngày kết bạn đến nay, dường như em đã có thai, vậy xin chàng đặt tên sẵn cho con.
Chàng nói:
- Hễ con gái thì tên là Long Cung, con trai thì mang tên Phước Hải.
Nàng xin để lại một vật làm tin. Khi chàng ở nước La Sát được một cặp hoa sen bằng ngọc đỏ, nay đem trao cho công chúa giữ làm tin, nàng tính đốt tay căn dặn:
- Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng nhớ bơi thuyền ra Nam đaả, em sẽ giao con.
Đoạn, nàng lấy một da cá làm túi, nhét đầy châu ngọc vào trong, đưa cho chồng và nói:
- Mình giữ kỹ túi này, mấy đời ăn xài cũng chẳng hết đâu.
Trời mờ sáng, Long vương thân đến từ biệt, tặng cho đồ vật cực nhiều. Chàng lạy tạ rồi ra khỏi cung vua. Nàng ngồi xuống xe dê trắng kéo,, đưa ra tận bờ biển. Chàng lên bờ, xuống ngựa. Nàn ngỏ lời chúc mong trân trọng rồi quay trở về thấm thoát đã thấy xa biệt. Nước biển khi ấy rẽ ra hai bên thành con đường đi, giờ khép lại cho nên không thấy công chúa đâu nữa. Chàng rầu rĩ xuống ghe, nhắm hướng về quê.
Từ ngày Mã sinh vượt biển, rồi mất tích, ai cũng bàn tán chết mất xác đâu rồi. Nay thấy lù lù trở về, cả nhà càng sửng sốt kinh ngạc.
Cũng may cha mẹ già còn khoẻ mạnh, tuy có người vợ đã đi lấy chồng khác. Chàng nhớ lại câu: “giữ vẹn tình nghĩa”, của long nữ đã nói, thì ra nàng đã tiên tri vợ chồng cải giá vậy.
Cha mẹ muốn cưới cho vợ khác, nhưng chàng không nghe, chỉ mua một người về làm cô hầu để hầu hạc song thân, lo việc nội trợ.
Đúng kỳ hẹn ba năm và ngày tháng đính ước, chàng bơi thuyền ra tận hải đảo, thấy hai đứa trẻ ngồi lềnh bềnh trên biển, đang tạt nước đùa giỡn nhau, không động mà cũng không chìm. Chàng đến gần, hai đứa trẻ mừng rú lên, mỗi đứa nắm một cánh tay chàng, và nhảy vào lòng đòi ẵm. Một trong hai đứa bỗng khóc lớn tiếng, hình như giận dỗi cha không ẵm mình trước vậy. Nhìn kỹ té ra một trai, một gái diện mạo cùng tuấn tú, khôi ngô, đồi đội mũ hoa gắn ngọc, tức là bông sen đỏ làm tin. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, chàng mở ra xem là bức thư nàng viết:
“Kính thăm chàng và song thân bình an.
Thấm thoát đã ba năm, bụi hồng cách tuyệt đôi nơi, chim xanh bề đi sứ; chẳng qua tơ tưởng trong giấc chiêm bao, nghểnh cổ xa trông nào thấy mênh mang trời biển, còn hận nào bằng?
Nhưng lại suy nghĩ: Chị Hằng còn để cung Quế vắng tanh, ả Chức còn bị sông Ngân cách trở, huống chi là đây là người gì mà hòng đoàn tụ mãi được. Em nghĩ tới đó, liền gạt nước mắt vui cười. Sau khi từ biệt được hai tháng thì em ở cữ sinh đôi. Nay hai đứa trẻ khỏi cần bồng ẵm, cười nói líu lo suốt ngày đòi táo đòi lê, dù xa mẹ cũng có thể sống được rồi cho nên em giao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ em gài trên mũ hai đứa trẻ để làm tin đó. Những chàng ôm con trên đầu gối, hôn hít nâng niu cũng như có em bên cạnh vậy.
Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền với em, em rất vui lòng. Phần em cũng một lòng duy nhất, đến chết không rời, bấy lâu vẫn sống một cách mộc mạc đơn sơ, gấm vóc xếp xó trong giương, phấn son không hề thoa mặt, chàng như chinh phu đi trận phương xa, em như quả phụ ở nhà thủ tiết, vậy đó chẳng là nhân duyên gắn bó sắt cầm hảo hợp ư?
Có điều em nghĩ, bây giờ cha mẹ chồng đã được ẵm cháu nội, mà còn chưa thấy mặt nàng dâu ra sao, xét đến tình lý cũng là điểm khuyết. Vậy nếu năm tới bà cụ quy tiên, lúc đó, em sẽ đến mộ ai điếu cho tròn đạo dâu con.
Ngoài việc ấy ra, Long Cung vô sự, có lúc mẹ con bắt tay; Phước Hải trường sinh, tất sẽ tới lui ngoài biển. Trân trọng kính thư, chúc chàng mạnh giỏi”.
Mã sinh đọc lại đôi ba lần, vừa đọc vừa khóc. Hai trẻ ôm cổ, nói: về nhà ta đi, khiến chàng đau đớn xót ruột, buồn lại thêm buồn, nựng con và hỏi: con có biết nhà ta ở đâu không nào?
Hai đứa cùng khóc rấm rức, một hai đòi về nhà. Chàng nhìn ra biển cả mênh mông, chân trời tít trong khoảng mây mờ sóng vỗ kia, có thấy đâu nhiều mình thương yêu tưởng nhớ ở đâu bèn buì ngùi ôm con, quay mũi thuyền trở về.
Theo lời nàng nói, chàng biết mẹ già không còn thọ lâu, cho nên lo việc tang sự sẵn sàng. Quanh nhà trồng hơn trăm cây tùng. Năm sau quả nhiên bà cụ qua đời, khi quan tài sắp sửa hạ huyệt, có người con gái mặt sô gai đến bên làm lễ. Mọi người đang nhìn có vẻ sửng sốt, bỗng dưng nổi cơn bão gió sấm sét, kế trời mưa to, trong nháy mắt nàng đã biến đi đằng nào mất. Những cây tùng bách mới trồng phần nhiều đã khô bây giờ trở lại tươi tốt.
Phước Hải lớn lên, nghĩ tới mẹ ruột, tự đi ra biển thăm viếng, mấy hôm mới về. Long Cung là phận nữ nhi, không thể mạo hiểm, thời thường đóng cửa ngồi khóc một mình. Bữa nọ đang giữa ban ngày, trời tự nhiên tối sầm lại, Long nữ chợt đến vỗ về con cái và nói: Con sẽ lập thành gia thất tốt còn ngồi khóc làm gì? Nói đoạn, cho nàng một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một hộp minh châu, một đôi vòng vàng chạm bát bảo, để làm của hồi môn khi lấy chồng.
Chàng nghe vợ tiên hiện về thăm con gái, tức tốc chạy đến nắm tay Long nữ mà khóc nức nở. Bỗng trời nổi mưa gió, sét đánh vang nhà, nàng biến đi mất.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Oan Nghiệt Trường Văn
Tư Văn Lang



Vương Tử Bình, người Bình Dương, đi thi trọ ơ chùa Báo Quốc. Trong chùa đã có Dư Hàng là học trò đến ở từ trước. Vương lấy tình lân cận liền nhà, gửi danh thiếp sang làm quen. Dư không đáp. Sớm tối gặp nhau, anh ta còn tỏ vẻ vô lễ. Vương giận anh ta quá lên mặt, không đi lại chơi bời nữa.
Một hôm, có một chàng trai trẻ đến chơi chùa, mũ mãng quần áo đều trắng bong, dáng vẻ đường hoàng, Vương lại gần bắt chuyện, thấy nói năng hòa nhã troChâu”. Vương sai đầy tớ bày ghế mới ngồi, cùng nhau cười nói vui vẻ nhã nhặn. Đúng lúc Dư Hàng sang, ngồi tót lên cao, thái độ ngạo mạn. Thản nhiên, anh ta hỏi Tống:
- Anh cũng đi thi phải không?
Đáp:
- Không, tôi vốn tài hèn nên đã không có chí bay nhảy từ lâu rồi.
Lại hỏi:
- Ở tỉnh nào?
Tống kể rõ, Dư bảo:
- Đã không có chí tiến thủ, đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây, không có ai đáng bậc “thông giả”.
Tống đáp:
- Người phương Bắc (1) vốn ít kẻ thông tuệ. Nhưng người “không thông” chưa hẳn là kẻ tiểu sinh này, người phương nam vốn nhiều bậc thông tuệ, song bậc “thông giả”cũng vị tất là túc hạ.
Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa mà cười vang nhà. Dư Hàng xấu hổ vừa tức, trợn mắt phất tay áo, lớn tiếng:
- Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?
Tống nhìn anh ta cười nhạt: “Có gì mà không dám”, rồi lấy sách đưa cho Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu “Ở Khuyết Lý, trẻ con theo mệnh (2)”. Dư đứng dậy tìm giấy bút. Tống ngăn lại bảo:
- Đọc luôn ra miệng thôi cũng được. Tôi đã có đoạn phá đề thế này: “Ở chỗ tân khách qua lại, mà thấy một kẻ không biết tí gì”.
Vương ôm bụng cười lớn. Dư tức giận nói:
- Toàn là những kẻ không biết làm văn, bày trò để chửi xỏ, sao đáng là người!
Vương ra sức kêu là đố khó, xin tìm đề khá hay hơn. Lại lật trang khác đọc: “Thời Ân có ba vị vương giả (3)”. Tống lập tức ứng khẩu đọc:
- “Ba vị tuy hành động không đồng thanh nhưng cùng theo một đạo. Đạo ấy là gì? Thưa rằng: đạo nhân. Người quân tử chỉ cốt đạo nhân mà thôi, cần gì phải đồng”.
Dư thấy thế không làm nữa, đứng dậy nói: Đều là bọn tài xoàng. Rồi bỏ đi.
Từ đó, Vương càng trọng Tống, mời vào nhà chuyện phiếm suốt ngày, đưa hết văn thơ của mình ra xin Tống duyệt đọc. Tống lướt thật nhanh, một khắc đã hết trăm bài, nhận xét:
- Anh cũng đã sâu sắc trong nghiệp này, song cái bệnh của bút nghiên không cầu mà được. Văn anh còn gửi gắm cái lòng cầu may, do đó đã rơi xuống mức thấp kém.
Rồi lấy những bài đã duyệt nhất nhất giải thích rõ. Vương vừa ý lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía làm món bánh trôi. Tống ăn lấy làm thích lắm, khen:
- Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm nào đó lại làm cho ăn.
Từ đó hai người càng tâm đắc. Cứ dăm ba ngày Tống lại đến. Vương lại sai người làm món bánh trôi. Dư Hàng thỉnh thoảng cũng bắt gặp, tuy không đàm luận đằm thắm nhưng cái thói ngạo nghễ cũng bớt. Một hôm anh ta cũng đem văn cho Tống xem. Thấy bạn bè anh ta phê son khuyên bình, tán thưởng chi chít, Tống chỉ nhìn qua rồi dẹp sang góc bàn, không nói một lời. Dư ngờ Tống chưa đọc, lại giục. Tống nói đã đọc rồi. Dư cho là không hiểu. Tống trả lời:
- Có gì mà không hiểu, chỉ không hay thôi.
Dư vặn:
- Mới nhìn qua những nét son khuyên điểm, sao đã biết là không hay?
Tống liền bình to lên như đã đọc kỹ lưỡng, vừa bình vừa chê. Dư sợ toát mồ hôi hột, bỏ đi không nói gì. Lát sau, Tống đi, Dư lại vào, nài nẵng Vương cho xem văn. Vương không chịu, Dư cố tìm được tập văn của Vương, thấy nhiều khuyên son, cười rằng:
- Những cái nàu to như cục bánh trôi vậy.
Vương cố ghìm bực tức, chỉ lừ mắt nhìn mà thôi. Hôm sau Tống đến, Vương kể lại hết. Tống giận nói rằng:
- Tôi cứ cho rằng thằng cha này được những bài học thích đáng đã tỉnh ra, thế mà sao lại vẫn dám vậy. Thế nào tôi cũng lại cho biết tay.
Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên can Tống. Tống càng cảm phục.
Sau khi thi xong, Vương đem bài văn thi cho Tống xem. Tống hẹn sẽ xem. Ngẫu nhiên hôm ấy hai người đi chơi thăm thú các đền đài chùa miếu, thấy một ông sư mù ngồi ở hành lang, bày thuốc bán. Tống khen:
- Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi thẩm văn, không thể không xin lời chỉ giáo.
Theo lời, Vương về nhà lấy văn, giữa đường gặp Dư Hàng dẫn nhau cùng đến. Vương lựa lời nói với sư, sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh tật. Vương nói rõ ý định. Sư cười:
- Ai mà nhiều lời vậy? Ta không có mắt lấy gì để bàn luận văn chương?
Vương xin dùng tai. Sư bảo:
- Ba bài hon hai nghìn chữ, ai mà kiên nhẫn nghe hết được. Chi bằng cứ đốt đi ta sẽ ngửi bằng mũi.
Một khi đốt một bài, nhà sư lại hít hà, rồi nhấm nháp nói:
- Anh mô phỏng các vị đại gia, tuy chưa đúng được nhưng cũng gần giống. Ta đang thưởng thức bằng tì vị. Hỏi:
- Có được không?
Trả lời:
- Cũng được.
Dư Hàng không tin lắm, lấy văn của các bậc đại gia cổ, đốt đi để thử. Nhà sư lại ngửi:
- Hay thật! Văn này bụng dạ ta chịu được. Phi ông Quy, ông Hồ (4) ai mà làm được.
Dư sợ quá, lúc ấy mới đốt đến văn của mình. Sư nói:
- Mới thấy được một, chứ chưa thấy toàn thể, sao lại bỗng có văn người khác vào đây?
Dư nói đổ:
- Đó là văn của bạn, chỉ có một bài. Còn đây mới là văn của tiểu sinh.
Sư ngửi các bài tiếp, phát ho mấy tiếng, bảo:
- Thôi đừng đốt nữa! Nó cứ tắc mãi không xuống được. Nếu đốt thì chứng ra mắt.
Dư xấu hổ rút lui.
Mấy ngày sau treo bảng, Dư đỗ hương cống, còn Vương trượt. Tống và Vương đến báo với nhà sư. Sư than rằng:
- Ta tuy mù mắt nhưng tai không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả tai.
Lát sau Dư Hàng vẻ hãnh diện hỏi sư:
- Này hòa thượng mù, người cũng ăn bánh trôi của người ta ư? Nay thế nào?
Sư cười trả lời:
- Điều ta bàn là về văn chứ không nói với anh về mệnh. Anh hãy tìm văn của các quan chấm trường đến đây, đốt đi mỗi thứ một bài, ta có thể biết ai là thầy anh.
Dư và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Dư giao hẹn:
- Nếu đoán sai thì phạt gì? Sư giận đáp:
- Thì móc con mắt thong manh của ta đi!
Dư đốt văn, hết một bài, sư lại nói không phải. Đến bài thứ sáu, sư nghỏanh vào vách mà mửa, đánh rấm liên hồi. Mọi người cười ầm, nhà sư lau mắt, quay về phía Dư bảo:
- Đúng là thầy của anh rồi! Lúc đầu không biết ta vội hít vào, nó đâm vào mũi, chọc vào tai, không sao dung được phải tống ra khỏi hạ bộ.
Dư tức giận lắm, bỏ đi còn dọa:
- Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!
Hai ba ngày sau cũng không thấy hắn đến, xem lại thì hắn đã dọn đi rồi, lúc ấy mới biết đúng là hắn là học trò của ông quan chấm trường ấy thật.
Còng Tống an ủi Vương rằng:
- Phàm bọn đọc sách chúng ta không nên muốn hơn người mà cần nghiêm khắc với mình. Không muốn hơn người thì đức càng rộng. Biết nghiêm khắc với mình thì học mới tiến. Bận này anh không gặp may là do số chưa gặp. Nhưng bình tâm mà bàn thì văn anh cũng cũng chưa thành thục. Từ đây mà mài giũa, thiên hạ vẫn còn người không mù.
Vương cảm tạ lời dạy bảo. Nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương, Vương không về quê mà ở lại để học. Tống khuyên:
- Ở chốn thị thành, gạo châu củi quế nhưng cũng chớ ngại việc tư cấp. Sau nhà tôi có cái hầm chứa tiền từ trước bị đổ lấp, có thể sửa sang lại ở tạm.
Rồi chỉ chỗ cho. Vương cảm tạ rằng:
- Ngày xưa ông Đậu ông Phạm (5) nghèo mà chó thể liêm. Nay tôi may còn được tư cấp, sao dám tự ô danh.
Một hôm Vương đang ngủ bỗng sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng đào đất thình thịch. Vương lén dậy thì thấy người hầu và người làm bếp đang thừa cơ đào trộm, vàng đã bày trên mặt đất. Biết cơ sự đã lộ, họ đang định lấp đi. Vương đang định mắng họ thì thấy tấm kim bài, có khắc kim úy người ông cùa Vương. Nguyên là người ông ấy đã từng giữ chức Nam Bộ Lang (một chức quan như lang trung ở Nam kinh). Khi vào kinh nhậm chức ông ta đã từng ở đó, bị bệnh nặng mà mất. Vàng ấy là do ông cụ để lại. Vương mừng lắm, cân lên được hơn tám trăm lạng. Hôm sau Vương chuyện ấy nói với Tống, đưa cho xem cả tấm kiem bài và cũng muốn chia cho Tống một phần. Tống từ mãi mới thôi. Lại lấy một trăm lượng định tặng nhà sư mù thì ông đã đi đâu mất.
Suốt tháng Vương khổ công ôn luyện. Đến khi thi Tống bảo:
- Khoa này anh đỗ mới đúng là do mệnh.
Rồi vì phạm quy (6), Vương bị đánh hỏng. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã khóc lớn, không cầm được. Vương lại phải an ủi ngược lại. Tống mới than thở:
-Tôi bị tạo vật ghen ghét, khốn đốn trọn đời, nay lại lụy đến bạn tốt. Đó là số mệnh vậy, là số mệnh vậy!
Vương bùi ngùi:
- Muôn việc vốn đều có số. Như tiên sinh không có chí tiến thủ, không phải là mệnh vậy.
Tống gạt lệ giãi bày:
- Lâu nay tôi có muốn nói, chỉ sợ anh kinh ngạc; tôi không phải là người sống mà là hồn quỷ phiêu bạt. Lúc nhỏ tuổi ôm mang ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc, tôi giả cuồng lên đô thành, gặp người tri kỷ truyền cho cho trước tác. Lại gặp nạn Giáp Thân (7), năm tháng nổi trôi. Nay may mắn được anh yêu mến, cho nên định đem hết sức mọn ra giúp bạn để tuy cái ước nguyện bình sinh của tôi chưa đạt thì mượn bạn để thực hiện như một điều khoái riêng vậy. Nay cái tai ách của nghiệp văn tự là như vậy, có ai tránh được!
Vương cũng cảm động khóc mà hỏi:
- Nay lục dụng lại như thế nào?
- Năm trước đã có mệnh của Thượng Đế ủy cho đức Tuyên Thánh (Khổng tử) và Diêm La Vương tra soát lại các hồn ma, loại trên thì giao các tào bổ dụng, số còn lại cho đầu thai kiếp khác. Tên tôi đã được chọn bổ dụng, sỡ dĩ chưa kịp đi là vì còn muốn thấy được cái khóai tranh chiếm bảng vàng. Nay xin từ biệt.
- Tiên sinh được khảo chức gì?
- Phủ Tử Chàng còn khuyết chức Tư Văn Lang, tạm lĩnh triện ở nha Tủng Đồng (8). Nơi đó đã làm cho văn vận điên đảo, vạn nhất nay được chức ấy thì sẽ gắng làm cho thánh giáo minh thịnh.
Hôm sau, Tống hớn hở đến nói:
- Được, toại ý rồi. Đức Tuyên Thánh sai làm bài “Tinh đạo luận”, người xem xong, vui hiện ra mặt, bảo tôi có thể làm tư văn. Diêm La xem sổ lý lịch đòi bo không dùng vì tội :khẩu nghiệt”. Đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, tôi mới được duyệt. Khi tôi lạy tạ. Người còn gọi lại gần án dặn rằng: “Nay ta thương tài chọn sung chức thanh Bạch, vậy nên phải rửa lòng mà nhận chức, chớ mắc phải lỗi lầm cũ”. Thế mới biết, ở cõi âm tăm tối còn trọng đức hạnh hơn cả văn học. Việc tu sửa đức hạnh ở anh ắt cũng chưa đến nơi. Vậy không nên quên làm điều thiện.
Vương nói:
- Quả vậy. Còn đức hạnh của Dư Hàng thì đến đâu?
Tống đáp:
- Điều đó tôi không biết. Âm ti thưởng phạt không có chút sai sót nhỏ nào. Còn ông sư mù ngày trước cũng là hiện thân của quỷ. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời hao phí giấy bút quá đà cho nên bị phạt mù. Ông ta muốn tự bán thuốc chữa bệnh cho người để chuộc lại lỗi lầm xưa, cho nên mới thác cớ đi các nơi.
Vương sai soạn tiệc rượu. Tống nói:
-Không cần. Cả năm tôi đã quấy nhiễu, hãy tận hưởng một giờ khắc lúc này. Xin hãy cho ăn bánh trôi là đủ.
Vương buồn quá không ăn chỉ ngồi nhìn Tống. Một lúc đã ăn hết ba bát to, Tống ôm bụng nói:
- Ăn bữa này no ba ngày, tôi xin ghi công đức của anh. Thóc lúa ăn của tôi ngày trước đều ở sau nhà, nay đã mọc nấm cả rồi. Lấy nấm ấy, cất làm thuốc có thể làm cho trẻ thông tuệ. Vương lại hỏi hậu vận. Tống đáp:
- Đã nhận quan chức hiềm không tiện hỏi.
Lại hỏi:
- Nếu đến phủ Tử Chàng cầu khấn gọi tiên sinh, có gặp được không?
Trả lời:
- Cái đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nếu anh cố giữa mình trong sạch thì sẽ có tờ từ trên ấy xuống địa ty, lúc ấy tôi sẽ cho biết.
Nói xong từ biệt rồi biến mất. Vương xem đằng sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi. Bên cạnh nhà tự nhiên mọc lên ngôi mộ mới.
Vương trở về quê hết sức giữ mình nghiêm khắc. Một đêm nằm mộng thấy Tống đi xe có lọng che đến, bảo rằng: “Trước đây, do cơn bực dọc nhỏ, anh giết lầm một con gái hầu nên bị tước sổ lộc. Nay do gắn tu tỉnh nên đã trừ được bớt tội, song mệnh còn mỏng cho nên không đủ để tiến thân làm quan”. Năm ấy Vương đỗ hương cống. Năm sau trúng tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vươns sinh hai con, một đứa hết sức đần độn, liền cho ăn nấm thì thông minh rất mực. Sau đó có việc đi Kim Lăng, trên đường đi gặp Dư Hàng. Lão ta kể hết nguồn cơn xa cách, thái độ khiêm nhường, song đầu tóc đã bạc trắng cả.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) cũng tức là vùng Sơn Đông , Sơn Tây
(2) câu này lấy trong sách luận ngữ, nguyên văn là: “Khuyết đảng, đồng tử mệnh”. Khuyết đảng tức là Khuyết lý, nơi ở của Khổng tử. Khổng tử nhân thấy trẻ con không biết lễ tiết mới sai chúng đi truyền mệnh để luyện cho quen mà hiểu được một chút đạo lý. Vương và Tống kẻ hô người ứng, chọn đề bài, đọc câu “phá đề” (vào đề) như trên để ngầm chê trách Dư Hàng vừa dốt vừa vô lễ.
(3) nguyên văn trong sách luận ngữ: “Ân hữu tam nhân yên” (thời Ân có ba bậc nhân giả). Ba vị ấy là Vi Tử, Cơ Tử và Tỉ Can. Vua Trụ nhà Ân vốn là kẻ bạo ngược, vô đạo. Biết rằng không thể can ngăn nổi, Vi Tử bỏ đi để tránh tai họa. Cơ Tử cắt tóc giả người điên. Tỉ Can thề quyết chết đê can ngăn liền ba ngày, bị mổ bụng chết. KhổngTử cho rằng cách làm của ba ông không giống nhau, song là bậc nhân.
(4) Chỉ hai ông Quy Hữu Quang và Hồ Hữu Tín là những văn học gia thời Minh, nổi tiếng đương thời.
(5) Đậu tức là Đậu Nghi, người đời Tống, khi còn nghèo khó có giống Kim tinh hiện tình để đùa bỡn nhưng ông vẫn không động lòng.
Phạm tức là Phạm Trọng Yêm cũng người đời Tống. Lúc còn bần hàn đến trú nhờ ở miếu thờ để học. Một hôm phát hiện thấy có một hố giấu tiền, nhưng do là của phi nghĩa không lấy, lấp hố lại như cũ.
(6) Những quy định ngặt nghèo trong việc thi cử ngày xưa như kiêng huý nhà vua, cấm giập xoá, viết mất nét....
(7)nạn Giáp Thân: chỉ niên hiệu 17 của Sùng trinh nha Minh, năm cuộc khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo, đánh chiếm bắc kinh.
(8) Phủ Tử Chàng: Theo thần thoại TQ, Tử Chàng đế quân họ Trương tên A, chủ trì phủ Văn Xương, coi giữ sổ sách đỗ đạt, Tử Chàng đế quân có hai người thì hạ là Thiên Tủng (trời điếc) và Địa Á (Đất câm) Chữ Tủng đồng nghĩa đen với trẻ điếc.
Liêu Trai Chí Dị
Vợ Dữ Hơn Cọp
Giang Thành



Cao sinh ở Lâm Giang, tên là Phồn, thông minh, dáng dấp xinh đẹp, mười bốn tuổi đã vào học trường quận, cho nên nhà giàu quanh miền tranh nhau gả con gái cho.
Nhưng chàng kén chọn khó khăn, thường trái ý cha.
Cha là Trọng Hồng, sáu mươi tuổi, chỉ có một cậu con trai nên hết sứ chiều chuộng, không muốn làm trái ý con.
Nguyên trước ở thôn Đông có họ Phàn, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thị tứ, đem cả gia quyến lên mướn phố ở gần nhà chàng.Phàn ông có con gái tên Giang Thành, cùng tuổi với chàng, lúc đó cũng cỡ tám chín tuổi; hai trẻ ngây thơ ngày ngày quấn quít chơi giỡn với nhau.
Sau Giang Thành theo Phàn ông dời đi xứ khác, trải năm sáu năm không nghe tin tức.
Một hôm chàng đi trong hẻm, thấy một cô gái tuyệt đẹp, có con nhỏ sáu bảy tuổi theo hầu. Chàng không dám ngó ngay mặt chỉ đưa mắt liếc. Nàng nheo mắt nhường như muốn nói, lại thôi. Chàng nhìn kỹ té ra Giang Thành, chàng vừa sững sốt, vừa mừng rỡ. Hai người đứng trân trân ngó nhau không ai nói gì. Giây lát ai đi đường nấy mà tình ý xem chừng bịn rịn, không muốn rời nhau.
Chàng cố ý đánh rơi chiếc khăn rồi bỏ đi. Con nhỏ theo hầu nhặt lấy trao cho nàng. Tức thời nàng móc túi lấy khăn của mình ra, đưa cho con nhỏ và nói:
- Cao tú tài không phải là người nào lạ, chớ có lấy đồ vật của cậu ấy đánh rơi, vậy mi đuổi theo mà trả khăn lại cho cậu.
Con nhỏ đuổi theo đưa khăn trả chàng.Chàng vớ được khăn nàng, trong ý rất mừng, về thưa với mẹ, xin cậy mai mối hỏi Giang Thành cho mình. Bà mẹ nói:
- Nhà nó chẳng có đến cái túp lá để che mưa nắng, chỉ nay đây mai đó trôi nổi quanh năm, sao con lại muốn phối ngẫu với nó.
Chàng thưa mẹ rằng tự ý mình muốn vậy, về sau ra sao chịu vậy, cố nhiên không dám ăn năn gì hết.
tRong ý bà mẹ do dự không quyết, bàn tính với cha chàng. Cha chàng nhất định bảo không nên. Chàng nghe chuyện sinh buồn, bỏ cả cơm cháo. Mẹ chàng lo sợ quá, liền nói với cha chàng:
- Họ Phàn tuy nghèo, nhưng cũng là nhà nho, chứ không phải hạng vô loại. Vậy để tôi đến nhà xem mặt đứa con gái, nên thì dạm, bằng không thì thôi có hại gì đâu.
Ông bằng lòng. Bà liền mượn cớ đi trả lễ ở đền Hắc Đế, tiện đường ghé qua nhà Phàn, thấy con gái mặt mày xinh đẹp, lòmg rất vui mừng, rồi đem tiền lụa đến tặng và nói thiệt ý muốn. Phàn ông trước còn khiêm nhường, sau mới nhận lễ nhận lời. Bà về thuật lại, bấy giờ chàng mới tươi cười ăn uống như cũ.
Năm sau, chọn ngày lành tháng tốt, đón Giang Thành về. Hai vợ chồng trìu mến nhau rất vui vẻ. Duy Giang Thành hay có tính giận hờn, hơi một chút là trở mặt coi chàng y như người lạ. Miệng lưỡi la lối, chàng nghe vang tai nhức óc, nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện chi cũng cố nhịn.
Hai ông bà nghe phong thanh, lấy làm bất mãn, gọi con đến trách mắng. Nàng biết vậy, tức lắm, càng kiếm chuyện gây gổ nhục mạ chồng nhiều hơn nữa. Hễ chồng hơi trả lời nặng nhẹ, nàng giận dữ thêm, vac gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại.
Tội nghiệp chàng đứng co ro bên ngoài, chứ không dám gõ cửa, đành ngồi xổm ở mái hiên, ôm gối mà ngủ.
Từ đó nàng xem chồng như kẻ thù. Ban đầu còn có thể quì gối xin nàng hết giận làm lành, dần dà đến quì gối cũng hết hiệu nghiệm, thành ra lang quân khổ càng thêm khổ. Ông bà can thiệp trách nàngqua loa, nàng vung tay khoa chân, bộ điệu hỗn hào không thể tả xiết, đến nỗi ông bà phát giận đuổi nàng về nhà cha mẹ.
Phàn ông vừa thẹn vừa sợ, cậy người đến năn nỉ Trọng Hồng cho Giang Thành trở lại, nhưng Trọng Hồng không cho. Hơn một năm sau, chàng đi đường chạm trán ông nhạc, ông níu áo lôi về nhà ân cần tạ lỗi và bảo con gái ăn mặc đàng hoàng ra chào. Vợ chồng gặp mặt nhau cùng tỏ vẻ đau thương. Phàn ông bèn mua rượu về đãi chàng rể, khuyên mời niềm nở. Một lúc trời tối, ông cụ giữ chàng lại ngủ dêm. Giang Thành muốn nằm giường riêng , nhưng ông xếp hai vợ chồng nằm chung.
Sáng ngày, chàng về nhà, không dám nói chuyện thật với cha mẹ, chỉ tìm cách thêu dệt và che đậy cho qua. Từ đó, cách dăm ba ngày, chàng lại ngủ đêm tại nhạc gia một lần,, mà cha mẹ chàng không biết.
Một bữa Phàn ông đến nhà Trọng Hồng xin cho giáp mặt nói chuyện. Trọng Hồng không tiếp, Phàn ông năn nỉ mãi, Trọng Hồng mới ra mặt, Phàn quì gối làm lễ tạ tội, Cao ông (tức Trọng Hồng, họ Cao) không nhận, đổ trút cho con, Phàn nói:
- Đêm qua cậu nó ngủ tại nhà tôi có nghe chối từ cự nự gì đâu?
Cao sửng sốt, hỏi nó ngủ bao giờ. Phàn kể rõ đầu đuôi, Cao thẹn thùng xin lỗi và nói:
- Chuyện đó quả tôi không hay, vợ chồng nó đã thương yêu nhau, tôi há một mình thù hiềm cản trở nhân duyên của con ư?
Phàn ông về rồi, Cao gọi con ra nhiếc mắng. Chàng chỉ cúi đầu, không nói gì cả. Giữa lúc đó Phàn dẫn con gái đến. Cao nói:
- Tôi không thể nào gánh dùm lỗi lầm cho dâu con, chi bằng ở riêng ra, ai có nhà nấy.
Tức thời cậy Phàn làm chứng giám hộ cha con mình về cuộc riêng nhà chia bếp.Phàn khuyên lơn mãi, Cao nhất định không nghe, dọn căn nhà riêng cho vợ chồng ở , lại sai một con hầu chuyên việc hầu hạ.
Trong vòng hơn một tháng vợ chồng ăn ở với nhau hơi yên, chẳng nghe điều tiếng gì cả, ông bà đã mừng thầm trong bụng.
Nhưng cách đó không bao lâu, Gianh Thành lại dần dà hung dữ, trên mặt chàng thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ là thế nhưng cũng ẩn nhẫn không hỏi đến.
Một hôm chàng bị vợ đánh dữ quá, không thể chịu nổi phải chạy tụt sang nhà cha mà trốn, run rẩy xanh xám giống như chim sẻ bị cò ó mổ vậy. Hai ông bà đang kinh ngạc, đã thấy nàng xách roi xồng xộc chạy vào đến ngay bên cạnh ông túm lấy chàng, vụt lấy vụt để. Ông bà rầy la rầm rĩ nàng cũng mặc kệ, cứ việc đánh chồng tới mấy chục roi mới hầm hầm bỏ đi.
Cao đuổi con đi và nói:
- Tao muốn tránh sự ồn ào, cho nên mới ở riêng, còn mày lấy thế làm vui thì ở đó mà hưởng, trốn đi đâu làm chi?
Chàng bị cha đuổi, bơ vơ không biết về đâu, Cao ông sợ con buồn tự tử, bèn cho căn nhà ở một mình, lại cấp dưỡng cho. Laị gọi Phàn đến, bảo dạy dỗ con gái thế nào, kẻo để lăng loàn quá đỗi. Phàn vô nhà, giảng dụ trăm phương ngàn cách nàng cũng chẳng thèm nghe, lại còn nói hỗn với cha. Phàn tức mình phủi áo ra đi, thề dứt tình cha con.
Không bao lâu, Phàn giận con quá sinh bệnh, cùng bà vợ kế tiếp nhau qua đời. Nàng bực tức, không về điếu tang đưa đám cha mẹ, tối ngày ngồi mắng chửi cách vách, cố ý lớn tiếng cho Cao ông Cao bà nghe. Cao mặt kệ không thèm đếm xỉa tới.
Chàng từ khi được ở riêng một mình thấy dường như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng chỉ khổ vì nỗi quạnh hiu buồn bực. Muốn được khuây khỏa chàng bèn chi tiền mụ Lý, để mụ dẫn gái vô nhà học tiêu khiển, gái thường lui tới ban đêm.
Ít lâu sau, Giang Thành nghe biết, tới tận nhà học mắng chửi thậm tệ. Chàng hết sức phân trần nỗi oan và trỏ lên mặt trời mà thề nàng mới chịu lui.
Từ đó ngày ngày rình mò cử động chàng. Một hôm mụ Lý từ trong nhà học đi ra, nàng bắt gặp, kêu gọi rùm lên. Mụ Lý xanh xám mặt mày, nàng thêm sinh nghi, túm lấy mụ đe dọa:
- Có thế nào thì cứ việc nói thật, họa may còn tha thứ cho, nếu giấu giếm, tao vặt không còn một sợi lông đó!
Mụ vừa run vừa nói:
- Trong vòng nửa tháng nay duy có Vân nương, là gái ở nhà chứa đến đây hai bận mà thôi. Còn vừa rồi công tử lại nói bữa trước đi chơi núi Ngọc Ti dòm thấy cặp chân của người vợ Đào gia xinh đẹp, cho nên muốn cậy tôi làm manh mối, để dụ nó tới đây. Con đó tuy lẳng lơ nhưng chưa chắc chịu làm nhu gái nhà chứa. Công tử đã bảo tôi thử dụ nó coi, việc thành hay không thật chưa chắc.
Nàng thấy mụ nói thành thật, cho nên rộng lòng khoan thứ. Mụ sửa soạn đi, nàng cố giữ lại cho đến trời tối, buộc phải làm theo mưu kế của mình:
- Đến ngay nhà học làm bộ nói nhỏ với công tử bảo tắt đèn đi, cô ả Đào gia tới rồi đó.
Mụ làm y lời. Nàng theo chân bước vô, chàng mừng quá, nắm tay mời ngồi và tỏ lòng khát khao mộng ước. Nàng làm thinh, chàng mò trong bóng tối rờ cẳng nàng và nói:
- Sở nguyện ôm ấp bao lâu, nay mới được toại, lẽ nào không cho thấy mặt?
Nói xong, chàng tự thắp đèn lên soi mặt. Trời ơi! Chính là Giang Thành!
Chàng sợ hãi thất sắc, đánh rớt cây đèn xuống đất run rẩy quì mọp, dường như gươm dao đã kề trên cổ vậy.
Nàng xách tai kéo về buồng mình, lấy kim thật nhọn đâm vào hai bắp đùi khắp, rồi bắt nằm dưới gầm giường, hễ tỉnh giấc hồi nào thì kể tội và mắng chửi hồi đó. Chàng đã sẵn sợ như hùm beo, cho nên dù khi được nàng nguôi ngoai mơn trớn, cho nằm chung trên giường nhưng trong lúc đầu ấp tay gối, chàng vẫn run sợ hãi hùng, cơ hồ không phải là con người nữa. Nàng vả vào mặt và thét đuổi đi, tỏ ý khinh khi và chán ghét, không coi chàng là hạng người nữa. Thành thử hàng ngày chàng được ở trong khoảng hương xông xạ ủ, mà như ở tù, thấy bóng người canh ngục là chết khiếp.
Giang Thành có hai chị, cùng lấy chồng nho. Người chị lớn hiền lành ít nói, tính tình thường không hợp với nàng. Còn chị thứ hai lấy họ Cát, người giảo huyệt khéo nói, tuy dung mạo kém Giang Thành nhưng ghen tuông độc ác thì ngang vai sánh gót. Chị em gặp nhau không có việc gì khác hơn là đem những chuyện bắt nạt chồng ra khoe khoang đắc ý với nhau. Vì thế hai người đi lại với nhau rất thân. Chàng đến nhà bà con họ hàng nào, nàng cũng giận dữ trách mắng, duy chỉ đến nhà họ Cát thì nàng không nói gì.
Một hôm chàng đến nhà Cát uống rượu. Lúc sau ngà ngà, Cát chế giễu chàng:
- Sao chú sợ vợ quá thế?
Chàng cười đáp:
- Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi anh ạ! Tôi sợ vợ tôi là sợ sắc đẹp. Vậy mà có cái đẹp thua xa vợ tôi, người ta cũng sợ cái ngang như tôi mới là kỳ chứ.
Cát thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì. Con hầu nghe chuyện tọc mạch với chị hai (tức vợ Cát). Chị hai nổi giận, vác gậy chạy ra, chàng thấy bộ tịch hung dữ, toan bỏ cả giày mà chạy lấy thân. Nhưng gậy đã nện vào lưng, chàng bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, đập cả đầu, máu tuôn như xối. Chừng chị hai đi rồi, chàng mới lom khom cà nhắc về tới nhà.
Nàng trông thấy cả kinh, gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu chàng nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị trận đòn nên không dám nói. Đôi ba phen tra vặn, mới kể rõ đầu đuôi. Nàng lấy lụa rịt bó đầu chàng xong, nổi cơn tam bành:
- Chồng của người ta, ai mượn nó đánh giùm cho ra thân thể này chứ?
Lập tức mặc áo cụt, xắn cao quần, tay cầm chày gỗ, dắt một con hầu đi theo, hầm hầm đến thẳng nhà Cát.
Chị hai tưởng như mọi bận, tươi cười ra đón. Nàng chẳng nói chẳng rằng, đánh chị túi bụi, ngã gục, rồi xé bươm cả áo xống, lại đánh thêm nữa, chị hai bị đánh tới bể môi gãy răng, vãi cả cứt đái, nàng mới chịu bỏ đi.
Nàng đi rồi, chị hai mới lồm cồm trỗi dậy, vừa thẹn vừa tức sai chồng phải đi mách với Cao ông.
Cát đến cửa, chàng ra đón, kiếm lời êm dịu an ủi. Cát nói nhỏ bên tai:
- Tôi đến đây vì thế bắt buộc, không đi không xong. Lạ gì con đàn bà ấy hung dữ thuở nay, nhờ tay dì nó trừng trị cho một bữa là đáng kiếp lắm. Còn tôi với chú thì có hiềm gì với nhau đâu.
Bất đồ Giang Thành nghe lén, tức tốc chạy ra điểm mặt anh rể và mắng như tát nước:
- Thằng đểu giả kia! Vợ bị đòn đau điếng, không nghĩ cách nào rửa hận cho nó, lại còn nói vụng nói lén với người ta thế ư? Cái giống đàn ông thế đó, không đáng đánh cho chết còn để làm gì?
Rồi nàng tru tréo kêu đầy tớ:
- Bay đâu, đem gậy ra đây cho tao mau mau!
Cát sợ hoảng hồn, vội lách ra cửa, co giò chạy mất.
Từ hôm ấy trở đi, chàng sợ chị vợ theo dõi, không dám tới lui nhất định một chỗ nào cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã đến chơi, chàng mời ở lại uống rượu cho vui. Trong khi chén tạc chén thù, đem chuyện khuê phòng ra nói bỡn, có hơi tục tằn. Chẳng dè nàng núp lén nghe rõ đầu đuôi, lén bỏ bã đậu vào cháo bưng ra cho khách ăn. Một chập, Vương thượng thổ hạ tả dữ dội nằm thở như hấp hối sắp chết. Nàng sai con hầu ra hỏi:
- Còn dám nói hỗn nữa thôi.
Bấy giờ Vương mới hiểu rõ vì sao mình lại mửa thốc mửa tháo bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa cháo đậu xanh nấu sẳn cho ăn để giải độc. Vương ăn cháo ấy mới hết bệnh. Nhân chuyện này bạn bè mách bảo nhau phải kiềng mặt, về sau không dám đến nhà ăn uống gì nữa.
Vương sinh có quán rượu, trong có nhiều hồng mai đua nở, đặt tiệc mời anh em bạn đến thưởng lãm. Chàng mượn cớ họp văn xã, tâu trình với vợ, xin phép đi dự. Chiều tối đã say, Vương sinh nói:
- Vừa mới có một cô đào non ở Nam Xương trôi nổi đến đây, ta nên gọi lại chuốc rượu cho vui nhé?
Mọi người vui vẻ tán thành, duy có chàng đứng dậy xin kiếu ra về. Anh em kéo lại lại và nói:
- Bà sư tử nhà anh có tai mắt dài đến đâu chăng nữa cũng không tài nào nghe thấy được tới chốn này. Anh ở lại cho vui, chúng tôi xin thề sẽ ngậm miệng, không nói lộ ra đâu mà sợ.
Chàng lại ngồi xuống. Giây lát đào mới tha thướt bước vào, tuổi độ mười tám mười chín, hỏi tên cô khai họ Tạ, tên là Phương Lan, nói năng cực lanh lợi thanh nhã, khiến cho ai nấy cùng mê say như cuồng. Xem ra cô ta để ý chàng hơn cả, thường liếc mắt dòm sang chàng luôn, anh em biết thế liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Cô nắm lấy tay chàng viết trong lòng bàn tay một chữ “ngũ”. Lúc đó chàng thật tiến thoái lưỡng nan, muốn đi thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối rộn không sao nói xiết. Hai người ngồi dựa đầu cạnh nhau, nghiêng tai nói nhỏ, càng say chừng nào càng lả lơi chừng nấy, quên cả sư tử ở nhà.
Một chốc trống canh điểm khuya, khách trong quán rượu dần dà bỏ về gần hết, duy có một thiếu niên xinh đẹp ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu hạ. Ai nấy khen thầm là người cao nhã. Giây lát, thiếu niên uống xong đứng dậy đi, tiểu đồng ra theo rồi trở lại, nói ngay với chàng:
- Thưa ngài, chủ tôi đợi ngài ngoài kia để nói một câu chuyện.
Không ai hiểu người đó thế nào, duy có chàng mặt mày thất sắc không kịp chào anh em, vội vàng sấp ngửa ra đi, vị thiếu niên ấy chính là Gianh Thành, tiểu đồng là con hầu, hai thầy trò giả dạng đi rình chàng vậy.
Chàng theo về nhà, chịu nằm mà nhận roi vọt. Từ đó chàng bị cấm cố gắt gao, mọi việc khách điếu cùng tuyệt. Chàng buồn bực lơ là việc học, kỳ hạch năm đó thi rớt, bị giáng làm thường dân và rút mất học bổng.
Một hôm thì thầm với con hầu thế nào chẳng rõ, nàng nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu úp kín đầu con bé mà đánh lấy đánh để. Rồi lại trói chàng và con hầu chung nhau, cầm kéo cắt thịt bụng mỗi người miếng và đắp thịt của người nọ vào bụng người kia. Đoạn cởi trói ra để tự buộc lấy vết thương. Hơn tháng sau, chỗ vá thịt đó dính liền làm một.
Còn độc ác hơn nữa, nàng thường lấy cẳng chân chà đạp chiếc bánh nhão nhoét, lại ném đất cát bụi rồi thét bảo chàng phải lượm lên mà ăn. Những cử chỉ tàn nhẫn của Giang Thành đối với chồng đại khái như thế, bà mẹ thương con, ngẫu nhiên đến nhà chàng ở, trông thấy con gầy, ốm mà động lòng. Lúc trở về bà nghĩ đau đớn khóc lóc, muốn chết cho rảnh, đêm ấy, chiêm bao một cụ già hiện đến nói:
- Bà chớ nên lo phiền. Đó là nhân quả kiếp trước để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa vô ý đạp chết con chuột ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không lấy sức người xoay đổi gì đặng. Tốt hơon là cứ thành tâm tụng niệm bài chú của quan Âm ( Nam Mộ Phật, Nam Mộ Pháp, Nam Mô Tăng v.v...) mỗi ngày một trăm lần tự nhiên sẽ có hiệu nghiệm.
Sáng hôm sau, bà thuật lại chiêm bao cho Trọng Hồng nghe, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng tuân lời thầy dạy, ngày ngày niệm chú Quan Âm. Hơn hai tháng Giang Thành vẫn ngang ngược như cũ, lại có thêm điên cuồng, hễ nghe ngoài cửa có tiếng kèn trống thanh la, nàng liền xõa tóc chạy ra đứng dớn dác, cả ngàn người cùng chỉ trỏ chê bai, nàng cũng thây kệ. Ông bà thấy con dâu khất khùng như vậy, rất hổ thẹn nhưng không làm sao ngăn cấm được, lấy làm bực tức.
Chợt thấy một lão tăng đến trước cửa thuyết pháp, người ta đứng xem vòng trong vòng ngoài. Lão tăng thổi vào mặt trống, thành ra kêu như trâu rống, nàng vội chạy đến, thấy người đứng kín mít không có khe hở mà lách vào lọt, bèn gọi con ở đem ghế ra để nàng đứng lên cao mà xem. Bao nhiêu cặp mắt cùng họp vào mình nàng, nhưng nàng thản nhiên dường như không hay biết gì cả.
Một lát, lão tăng giảng sắp xong gọi lấy một tô nước lạnh cầm đến trước mặt nàng mà tuyên đọc:



Chớ nên hờn!
Chớ nên hờn!
Kiếp trước chẳng phải giả
Kiếp này chẳng phải chân
Ôi!
Con chuột rút cổ chạy!
Kẻo bị mèo xơi ngon!



Lão tăng đọc xong, ngậm nước phun vào mặt nàng, làm cho son phấn nhễ nhại, trôi xuống áo xiêm. Ai nấy sợ hãi đoán chắc nàng nổi cơn tam bành đánh bể đầu trọc không chừng. Chẳng dè nàng lặng lẽ chùi mặt mày rồi về, lão tăng cũng bỏ đi chỗ khác.
Về nhà, nàng ngồi ngây ngất, như người mất hồn. Trọn ngày không ăn, tự giũ giường chiếu đi nằm.
Bỗng dưng nửa đêm gọi chàng thức dậy. Chàng ngỡ vợ muốn đi tiểu, vội vàng bưng chậu tiểu dâng lên. Nhưng nàng lấy tay đẩy ra, kéo cánh tay chàng lôi vào trong mền nằm chung. Chàng phụng mạng mà chân tay run cầm cập, như ông quan khi tiếp kiến chỉ của vua ban xuống vậy.
Nàng khảng khái nói:
- Trời ơi! Tôi làm cậu ra thân thể này, còn đáng làm người sao đặng.
Rồi hai tay xoa khắp mình mẩy chàng, cứ tới chỗ vết tích dao bầm roi đánh thì khóc rấm rứt, lấy móng tay nhọn tự cào vào mình, muốn cho chết ngay tức khắc. Chàng thấy tình trạng động lòng bất nhẫn, ra sức khuyên lơn yên ủi vợ, nàng nói:
- Em nghĩ ông hòa thượng lúc ban ngày, tất là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh, như thay đổi cả gan ruột. Giờ em nhớ lại những việc làm lúc trước như việc ỏ kiếp nào khác vậy, có lẽ em chẳng phải giống người chăng? Có vợ chồng mà không biết vui vẻ, có cha mẹ mà không biết phụng dưỡng thờ phụng là nghĩa thế nào? Sáng mai vơ chồng ta phải dọn đến ở chung với cha mẹ, để chăm nom hầu hạ cho dễ.
Vợ chồng nói chuyện suốt đêm, như là cách biệt mười năm giờ mới gặp gỡ vậy.
Tảng sáng nàng trỗi dậy, thu xếp xống áo mâm chén, xon ở xách thúng mủng, nàng tự đội chăn mền, giục chàng đi trước kêu cửa. Bà mẹ hoảng sợ, mở cửa hỏi chuyện chi? Chàng tự bày tỏ ý muốn của vợ. Trong khi bà cụ còn đang ngần ngại, ý không muốn chứa, nàng với con ở đã tay xách nách mang bước vào.
Bà mẹ theo gót trở vào, nàng phục dưới đất khóc lóc thảm thương chỉ xin cha mẹ tha chết cho nàng để nàng đền tội. Bà xét ra ý nàng thành thật, cũng khóc và nói:
- Con ta sao thay đổi mau lẹ thế này?
Chàng thuật rõ câu chuyện đã qua, bây giờ bà cụ mới nhớ lại giấc chiêm bao, thật quả ứng nghiệm,. vội vàng bảo tôi tớ dọn dẹp căn nhà cũ cho hai vợ chồng ở.
Từ đó nàng thờ cha mẹ chồng còn hơn người con hiếu thảo. Cử chỉ đoan trang như cô dâu mới về nhà chồng. Có ai bỡn cợt nhắc lại chuyện cũ thì nàng đỏ mặt ra dáng hổ thẹn. Tính lại cần kiệm, khéo ăn nhịn để dành, trải ba năm, cha mẹ chồng không phải bận lòng vì sinh kế trong nhà, mà của để cũng có hàng vạn rồi.
Năm ấy chàng thi đậu cử nhân. Nàng thường hỏi chồng:
- Ngày nọ em thấy mặt cô Phương Lan một lần, nàng vẫn còn thương mình à?
Chàng trả lời rằng, bây giờ sung sướng thế này là mãn nguyện rồi,chả dám mơ tưởng gì nhiều chuyện nữa.
Rồi chàng vô kinh thi hội, mấy tháng mới trở về. Lúc bước vào nhà, thấy Phương Lan đang ngồi đánh cờ với Giang Thành, lấy làm sửng sốt. Hỏi ra thì do nàng tự xuất trăm đồng chuộc Phương Lan ra khỏi hồng lâu, vì là người năm xưa được chàng thương yêu.
Hồi ta đến chơi miền Tích Thiệu, được gặp ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe chuyện nàng rất rõ ràng.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Liêu Trai Chí Dị
Người nhỏ
Tiểu quan nhân



Trong khoản đòi Khang Hy, có kẻ làm mẹo đem theo mình một cái hộp, trong cái hộp có để một thằng nhỏ, dài chừng một thước, hễ ai cho tiền thời nó mở hộp cho thằng nhỏ chui ra, hát xong rồi lại vào. Đến đất Dịch. Quan tể ở Dịch bắt đem nộp vào dinh để coi. Hỏi kỹ về chỗ thằng người nhỏ ở đâu mà ra, trước còn không dám nói. Cứ hỏi mãi mới chịu kể là ở làng nó, nguyên là đứa trẻ đi học về, ngang đường gặp nó cho thuốc mê, bốn chân tay tự nhiên co dúm ngay lại, bèn đem đi như thế, để dùng làm trò chơi. Quan tể nổi giận, giết chết thằng làm trò, giữ đứa bé ở lại muốn chữa cho, mà chưa tìm được cách chữa.
KHÚC HÁT ẾCH
Vương Tử Tôn nói: “Trong khi ở kinh đô, từng thấy một người làm trò chơi ở chợ,, đẩy một cái hộp gỗ có ngăn, có tất cả mười hai cái lỗ, trong mỗi lổ có phục một con ếch. Lấy cái que gõ vào đầu, thời liền kêu ì ộp cả. Có ai cho tiền thời khua gõ các đầu ếch một lượt như đánh dàn nhạc, cung, bực, từ khúc, nghe rất phân minh”.
TẢN ĐÀ dịch
TRÒ CHUỘT
Lại nói: “Có một người ở trên chợ Trường An, bán trò chơi chuột. Trên lưng cõng một cái túi, trong có chứa hơn mười con chuột con, cứ gặp chỗ đông người thời để ra một cái giá gốc nhỏ như là cái lầu trong rạp hát tuồng, rồi bèn đánh nhịp trống, hát khúc tuồng cổ, tiếng hát vừa cất lên, thời có chuột ở trong cái túi ra, đeo mặt nạ, mặc đồ quần áo rất bé, từ ở vai đeo lên trên cái lầu đứng như người mà múa, trai và gái, thương cùng yêu, đúng hệt với tình tiết ở trong vở tuồng vậy”.

TẢN ĐÀ DỊCH
Liêu Trai Chí Dị
Liêm sĩ của kẻ làm quan
truyện TAM TRIỀU NGUYÊN LÃO



Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia.
Lão nhân trường lạc tín kham khoa.
Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp.
Thử thị tam triều tể tướng gia.

Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.
Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.
Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.
Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.
Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.
Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
Liêu Trai Chí Dị
Lộc số
truyện LỘC SỐ



Do lai lộc mệnh phú sinh sơ.
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư.
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc.
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ.


Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.
Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.
Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Ðặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.
Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.
Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"
Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.
Ðầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.
Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.
Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.


Liêu Trai Chí Dị
Quan trung thừa điều tra trộm
truyện VU TRUNG THỪA



Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm.
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm.
Sưu đắc chung y tần xuất nhập.
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm.

Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Ðáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Ðêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Ðể bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Ðể rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
Liêu Trai Chí Dị
Quan Tề điều tra cướp
truyện VU TRUNG THỪA NHỊ



Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm.
Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm.
Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử.
Hà huống tần tham thủ nhập khâm.

Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.
Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.
Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Ðể ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.
Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.
Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"
Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Ðêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Ðệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.
Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.
Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Ðêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.
Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Ðêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Ðệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.
Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Ðáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi:"Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Ðáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được. Sau vụ bắt cướp này, dân chúng huyện Tân Thành rất khâm phục tài điều tra của Vu công. Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".


Liêu Trai Chí Dị
Thuốc cường dương
truyện DƯỢC TĂNG



Phòng trung đan dược diệc kỳ tai.
Bộ lý bàn san chuyển khả ai.
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước.
Bất như thả tác tự nhân lai.

Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.


Giết sói, báo thù cha
truyện VU GIANG



Phụ cừu hà cảm phiến thời vong.
Cánh sát sơn trung bạch tị lang.
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ.
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang.

Huyện Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.

Liêu Trai Chí Dị
Thần miếu
truyện ƯNG HỔ THẦN



Thần danh ưng hổ cánh hà do..
Năng sử thâu nhi phản tự đầu.
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự.
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu.

Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu cổ, tên Ðông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Ði ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Ðạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.


Liêu Trai Chí Dị
Định số
truyện KHỐ QUAN



Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì.
Quỹ di thiên hữu khố quan tri.
Liêu tây quân xướng do thùy bát.
Tích vị đương niên nhất vấn chi.

Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Ðông có quan tể họ Trương, tên Hoa Ðông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Ðế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Ðế ấn định ban cho đại quan. Ðêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Ðế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Ðáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Ðại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Ðế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Ðế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Ðại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"

Liêu Trai Chí Dị
Bùa cờ bạc
truyện ÐỔ PHÙ



Vị liu tham tâm bác cục khai.
Thử trung thắng phụ bản nan sai.
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ.
Nhất trịch hà phương bách vạn lai.


Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Ðạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Ðạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Ðổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Ðổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Ðổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Ðổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Ðổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Ðạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Ðổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Ðạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Ðổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Ðổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Ðổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Ðổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Ðổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Ðổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Ðổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Ðổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Ðổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Ðổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Ðổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Ðổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Ðổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Ðạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Ðổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Ðạo sĩ cười, nói: "Ðã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Ðổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.
Liêu Trai Chí Dị
Chồn đầu thai làm người
truyện LƯU LƯỢNG THÁI



Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân.
Nam sơn hữu khách cánh thông thần.
Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ.
Thùy thức giai nhi thị cố nhân.


Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, thuật truyện:
Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.
Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"
Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Ðược kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.
Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Ðể khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Ðại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.
Ðêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Ðêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.
Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.
Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.

Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Ghen với nữ thần
truyện KIM CÔ PHU



Song song tố tượng sự hoang đường.
Hồ quỷ bằng y tác tế hương.
Liệt phách chân hồn không thụ điếm.
Tiểu cô cư xứ bản vô lang.

Ðời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).
Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.
Năm bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.
Năm mươi năm sau.
Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm bính thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.
Ðêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.
Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.
Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"
Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.
Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.
Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Chồn cuối triều Minh
truyện LINH QUAN



Giao thiên cự điển thục năng can.
Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn.
Tất cánh thử hồ thái phân hiểu.
Thừa dư bất tị tị linh quan.

Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.
Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Ðạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Ðạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.
Ðầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Ðất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Ðạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Ðất thì Thượng Ðế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Ðạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Ðất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.
Ðầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Ðất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.
Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"
Hỏi:"Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"
Ðáp:"Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"
Hỏi:"Cư sĩ chạy tới đâu?"
Ðáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"
Hỏi:"Linh quan có đuổi theo không?"
Ðáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"
Hỏi:"Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"
Ðáp:"Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"
Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"
Ðáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"
Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"
Ðáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"
Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"
Ðáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"
Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?
" Ðáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"
Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"
Ðáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"
Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"
Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Ðạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Ðạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.
Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Khoẻ như hổ, nhanh như vượn
truyện BẢO TRỤ



Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng.
Tì bà thuấn tức đạo thâm cung.
Khả lân cụ thử hảo thân thủ.
Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung.

Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.
Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.
Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.
Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Ðặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.
Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.
Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.
Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.
Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.
Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.
Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.
Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.
Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Ðạo tặc! Ðạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.
Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.
Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.
Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.

Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Gái chồn
truyện HỒ NỮ



Chung tình hà ý lai bôn nữ.
Thủ lễ thiên tri tị nhược ông.
Ám hợp tú châm công ảo hóa.
Chu toàn nan đắc loạn ly trung.

Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.
Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.
Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Ðạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Ðạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Ðạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.
Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"
Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.
Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.
Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Ðâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Ðáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.
Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.
Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.
Ðêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói:"Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.
Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.



Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Hồi sinh, khỏi bệnh tê liệt
truyện THANG CÔNG



Hồi đầu tỏa sự ký đương niên.
Thiện ác phân minh tại nhãn tiền.
Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm.
Từ hàng na đắc bất thùy liên.

Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Ðông.
Mười một năm sau.
Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.
Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.
Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.
Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.
Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Ðột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.
Ðứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.
Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Ðáp: "Ðường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Ðế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa. Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Ðế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức Ðế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Ðược trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Ðế Quân cho biết có ai chữa được không?" Ðáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Ðức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Ðức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Ðức Bồ Tát, nếu Ðức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Ðức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Ðức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Ðức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"
Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.

Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Cướp đội lốt sư
Truyện BỐ THƯƠNG



Khê hác nan doanh ngốc tử tâm.
Tá tương Phật diện khất đa kim.
Nhược phi Bồ tát từ bi lực.
Phòng hải tướng quân hà xứ tầm.

Cử nhân họ Lý ở huyện Phong Nguyên, tỉnh Sơn Ðông, thuật chuyện:
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi chùa bỏ hoang. Một hôm, có khách buôn chở vải từ xa tới huyện bán. Bán hết, khách buộc bọc tiền vào trước bụng rồi đi ngoạn cảnh. Tới chùa, thấy phong cảnh đẹp, khách bèn vào thăm. Nhà sư trụ trì thấy khách tới, vội chạy ra tiếp. Khách thấy nhà sư lực lưỡng như con nhà võ.
Thấy cảnh chùa tiêu sái nhưng chùa lại đổ nát, khách cảm khái, thở dài. Thấy thế, nhà sư nói:"Thí chủ sùng đạo, cúng dường chút ít, sửa sang cái cổng, cũng sáng sủa rồi!" Khách sốt sắng đáp:"Xin cúng dường ngay" Nhà sư mừng lắm, vội dắt khách vào phương trượng, pha trà mời uống. Lát sau, nhà sư nói:"Xin mời thí chủ theo bần tăng đi thăm điện gác trong chùaỢ Khách đáp:"Xin vâng" rồi đi theo nhà sư.
Nhà sư dắt khách đi thăm chùa hết một vòng rồi lại dắt về phương trượng. Bỗng nhà sư nói:"Xin thí chủ cúng dường thêm cho đủ tiền trùng tu ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân chỉ đủ tiền cúng dường để sửa sang cái cổng thôi!" Nhà sư nài ép:"Thí chủ là đại thương gia, dư tiền cúng dường để trùng tu cả ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân đi buôn cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình. Nay thành tâm muốn cúng dường chút ít để sửa sang cái cổng. Còn vốn thì phải giữ lại để đi buôn!" Ðột nhiên vẻ mặt nhà sư trở nên cực kỳ hung dữ, sát khí đằng đằng. Thấy thế, khách kinh hãi quá, vội đấu dịu, nói:"Hoà thượng đã muốn vậy thì bỉ nhân xin cúng dường cả vốn lẫn lời để trùng tu ngôi chùa!" Nói xong, cởi bọc tiền trước bụng mà nạp cho nhà sư. Rồi cúi đầu chào, nói: "Bây giờ, bỉ nhân xin phép được ra về!" Nhà sư lắc đầu, rút giải lưng ra, buộc bọc tiền vào trước bụng, rồi khoát tay, nói:"Khoan đã, chẳng được đi vội! Có phải là tự ý thí chủ muốn cúng dường đâu? Bây giờ mất cả bọc tiền, ắt phải thù oán, thế nào mà chẳng nói xấu bần tăng với thiên hạ! Vì thế, bần tăng phải xuống tay trước!" Khách tái mặt. Nhà sư chợt rút từ trong người ra một thanh đao sáng loáng. Khách van lạy, nói:"Xin hòa thượng mở lòng hiếu sinh, tha cho mạng sống" Nhà sư lạnh lùng, đáp: "Không được!" Thấy hết hy vọng sống, song còn hy vọng chết toàn thây, khách lại xin:"Thế thì xin cho tự ải!" Nhà sư gật đầu, nói:"Ðược! Song phải tự ải ngay!" Rồi lấy ra một cuộn dây thừng đưa cho khách, kề đao vào cổ, ép tới một phòng tối trong chùa, mở cửa đẩy vào, khóa cửa lại rồi nói vọng vào:"Tự xử ngay đi, đừng để bần tăng phải phạm sát giới!"
Vừa lúc ấy, có một võ quan là Phòng Hải Tướng Quân cưỡi ngựa qua chùa. Từ ngoài đường nhìn vào, qua hàng rào đổ nát, võ quan thấy một thiếu nữ áo đỏ, phấn son loè loẹt, đang mỉm cười, bước vào phương trượng. Võ quan cau mày bất bình, thầm nghĩ chắc nhà sư trụ trì thuộc loại hổ mang. Bèn phóng ngựa vào chùa, ngừng trước phương trượng, toan vào cật vấn. Ðúng lúc ấy, nhà sư cũng vừa về tới phương trượng. Thấy nhà sư, võ quan cau mày hỏi:"Con gái nào mà lại được phép vào phương trượng nhà chùa?" Thấy võ quan cực kỳ uy dũng, lại đột nhiên vào thăm chùa, nhà sư chột dạ, đáp:"Tướng quân nhìn lầm rồi! Có ai vào phương trượng nhà chùa đâu!" Võ quan càng nghi, nói:"Hãy dẫn bản chức vào phương trượng!" Nhà sư liền đưa tay ra hiệu mời vào. Võ quan vào phương trượng, đảo mắt nhìn quanh thì thấy quả thực chẳng có người nào cả. Chợt nghĩ có thể thiếu nữ đã nhanh chân ẩn núp quanh quất trong chùa, võ quan vội rút gươm, ép nhà sư phải dẫn mình đi khắp nơi để tìm kiếm. Trừ phòng tối nhốt khách, nhà sư dẫn võ quan đi khắp nơi song võ quan chẳng thấy thiếu nữ đâu. Ðảo mắt nhìn quanh, chợt thấy ở đằng xa có một căn phòng khóa trái cửa mà nhà sư chưa dẫn mình vào, võ quan liền trỏ gươm về phía căn phòng, quát:"Mở cửa phòng kia ra!" Nhà sư lắc đầu, nói:"Phòng ấy có nhiều ma quái lắm, xin tướng quân chớ vào!" Võ quan nổi giận, ép nhà sư phải dẫn mình tới rồi vung gươm chém sập cánh cửa. Thấy một xác người treo lủng lẳng trên xà nhà, võ quan vội nhảy lên chém đứt dây treo rồi đỡ xác xuống. Thấy xác còn nóng hổi, võ quan vội nới lỏng vòng dây quanh cổ, hy vọng xác còn thở được. Bất đồ, nhà sư dợm quay mình bỏ chạy. Thấy thế, võ quan vội nhảy ra túm lấy nhà sư, kéo vào phòng, cắt dây treo xác, trói chặt vào cột.
Lát sau, khách tỉnh. Võ quan tới gần hỏi chuyện. Khách cứ thực tình mà khai. Võ quan hỏi:"Thế còn thiếu nữ áo đỏ đâu?" Khách ngơ ngác, hỏi lại:"Thiếu nữ áo đỏ nào?" Võ quan bèn thuật chuyện thấy thiếu nữ áo đỏ bước vào phương trượng. Khách kinh ngạc, nói:"Thực tình, từ lúc bỉ nhân vào thăm chùa tới giờ, ngoài nhà sư trụ trì và bỉ nhân ra, chẳng có người nào khác. Chắc là đức Phật muốn cứu bỉ nhân nên mới hiện hình làm thiếu nữ áo đỏ để khiến tướng quân vào chùa mà cứu bỉ nhân đó thôi!" Võ quan đứng lặng, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói:"Gã này đúng là một tên cướp đội lốt nhà sư! Phải giết gã đi để trừ hại cho dân mới được!" Nói xong, vung gươm chém đầu nhà sư lăn xuống đất. Rồi dùng gươm cắt đứt bọc tiền trước bụng nhà sư mà trả lại cho khách. Khách quỳ lạy, tạ ơn cứu mạng. Võ quan liền tra gươm vào vỏ, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Khách lên huyện đường trình bày đầu đuôi câu chuyện với quan tể. Quan liền sai lính tới chùa đem xác nhà sư đi chôn. Câu chuyện được đồn đãi nhanh chóng khắp huyện.
Khách xin quan tể cho mình được phép đứng ra trùng tu ngôi chùa. Quan chấp thuận. Khách bèn mở cuộc lạc quyên, đem cả bọc tiền của mình cộng với số tiền lạc quyên được mà trùng tu ngôi chùa. Rồi khách thỉnh một vị hoà thượng có đức hạnh tới chùa trụ trì.
Từ đó, ngày nào cũng có rất đông Phật tử tới chùa lễ Phật.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Hóa chồn vì hiếu sắc
truyện KIM LĂNG ẤT



Lân phụ như hà khả khải du.
Hạt y trước thể cánh thành hồ.
Tà ma nhất động tâm tiên biến.
Mạc nhạ chân long bích thượng phù.

Thời xưa, ở Trung quốc, có người tên Trung Sơn, nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say.
Thời nay, ở phường Khương Thủy, thủ phủ Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), tỉnh Giang Tô, có người họ Bành, tên Túy Toàn, có vợ họ Lang và hai con. Túy Toàn cũng nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say nên dân phường tặng cho Túy Toàn mỹ danh là Bành Trung Sơn. Mỗi lần nấu rượu xong, Túy Toàn lại pha thuốc say vào rượu rồi mới đem bán. Bợm rượu nào dù tỉnh tới đâu, chỉ cần uống hai chén rượu của Túy Toàn là đã say mèm. Rượu bán chạy quá, Túy Toàn phải đốc thúc cả vợ con phụ nấu suốt ngày đêm mà vẫn không đủ rượu để bán. Nhờ tài nấu rượu, Túy Toàn trở thành cự phú.
Thời ấy, dân phường Khương Thủy rất lo sợ về nạn chồn biến thành thanh niên tuấn tú, tới nhà cưỡng chiếm phụ nữ. Trong phường, có hai anh em nhà giàu họ Tôn, cùng có vợ đẹp, cư ngụ chung trong một ngôi nhà. Người anh tên Mạnh, người em tên Trọng. Vợ Tôn Mạnh thường bị chồn tới cưỡng chiếm.
Một đêm, Túy Toàn thức khuya nấu rượu. Nấu xong, pha thuốc say vào chum, đậy nắp thực kỹ rồi đi ngủ. Sáng sau, vào bếp lấy rượu ra cho vợ con đem bán, Túy Toàn thấy một chồn say mèm, nằm mê man cạnh chum. Túy Toàn liền dón dén đi lấy dây trói chặt bốn chân chồn lại rồi lấy dao toan giết. Chồn chợt tỉnh, van lạy:"Xin tiên sinh tha mạng cho! Tiên sinh có việc chi sai bảo tiểu nhân cũng xin làm ngay!" Túy Toàn hỏi:"Mi có nói thực không?" Chồn đáp:"Thưa thực!" Túy Toàn liền cởi trói tha cho chồn. Ðột nhiên, chồn biến thành một thanh niên tuấn tú. Chợt nhớ tới chuyện vợ Tôn Mạnh bị chồn cưỡng chiếm, Túy Toàn hỏi:"Chồn thường lui tới nhà họ Tôn là chồn nào?"
Ðáp:"Thưa chính là tiểu nhân!" Thấy vợ Tôn Trọng còn đẹp hơn vợ Tôn Mạnh, Túy Toàn nói:"Mi phải dắt ta tới cưỡng chiếm vợ Tôn Trọng!" Ðáp: "Tiên sinh sai bảo bất cứ việc gì khác tiểu nhân cũng xin làm song riêng việc này thì tiểu nhân xin chịu!" Nói:"Mi vừa hứa buông miệng với ta để được tha mạng, bây giờ mi lại toan nuốt lời phải không?" Chồn thở dài, đáp:"Tiên sinh đã muốn thế thì hãy đi theo tiểu nhân!" Túy Toàn bèn nói với vợ con rằng mình có việc phải đi ra ngoài, rồi đi theo chồn.
Chồn dẫn Túy Toàn ra khỏi thành, đi thực xa. Tới một hang núi, chồn vào hang lấy ra một chiếc áo màu vàng đưa cho Túy Toàn, nói:"Chiếc áo này là tàng hình y! Ai mặc vào người thì mắt thế nhân chẳng thể nhìn thấy, chỉ có mắt loài chồn tiểu nhân mới nhìn thấy được thôi! Nếu tiên sinh mặc chiếc áo này mà tới nhà họ Tôn thì chẳng ai nhìn thấy được!" Nghe thấy thế, Túy Toàn cũng chỉ nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi:"Mi lấy chiếc áo này ở đâu ra?" Ðáp:"Chiếc áo này là di vật của tiện huynh. Từ ngày tiện huynh qua đời, tiểu nhân vẫn cất giữ làm kỷ vật. Nay đã trót hứa với tiên sinh nên phải lấy ra biếu!" Lại hỏi: "Thế mi định bao giờ mới dắt ta tới nhà họ Tôn?" Ðáp: "Tối mai, giờ dậu, tiểu nhân sẽ tới nhà tiên sinh!" Túy Toàn mừng lắm. Ðể thử xem lời chồn nói có đúng hay không, Túy Toàn bèn mặc chiếc áo vào người rồi ra về. Về nhà, thấy vợ con không nhìn thấy mình, Túy Toàn mừng lắm. Vào phòng thay áo rồi đi ra, thấy vợ con lại nhìn thấy mình, Túy Toàn mới tin lời chồn là đúng.
Tối sau, đúng hẹn, chồn tới. Túy Toàn bèn lấy chiếc áo mặc vào người rồi đi theo. Tới nhà họ Tôn, chồn dắt Túy Toàn chui qua hàng rào vào sân. Tới hành lang, cả hai cùng nhìn thấy trên tường có một đạo bùa dán cạnh một ngọn đèn leo lét. Thấy trên đạo bùa có vẽ một nét lớn, ngoằn ngoèo như rồng rắn, chồn tái mặt, nói: "Ðạo bùa này là của Âu Dương hoà thượng. Pháp thuật của hoà thượng này cao cường lắm. Anh em họ Tôn đã mời được hoà thượng này về đây thì tiểu nhân chẳng dám vào đâu!" Nói xong, ù té bỏ chạy. Thấy thế, Túy Toàn đã toan chạy theo, song vì còn tiếc rẻ cô vợ nhan sắc của Tôn Trọng nên chưa chịu chạy ngay, cứ lượn đi lượn lại trước đạo bùa để quan sát. Ðột nhiên, nét vẽ trên đạo bùa biến thành rồng, cuộn thành vòng, ngửng đầu chực bay. Lúc đó Túy Toàn mới hết hồn, co cẳng chạy. Vừa chui qua hàng rào ra tới đường, bỗng Túy Toàn thấy một nhà sư hình dung cổ quái, đứng ở giữa đường, tay trái cầm đèn, tay phải cầm bùa, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, hướng về phía mình mà làm phép. Kinh hãi quá, Túy Toàn cắm cổ chạy về nhà, vào phòng nằm ngủ.
Sáng sau, Lang thị thấy chồng ngủ trưa, bèn vào đánh thức. Túy Toàn chỉ ú ớ rồi lại ngủ mê man. Lang thị thầm nghĩ chắc chồng mình đêm qua thức khuya nấu rượu nên để yên cho ngủ, chẳng đánh thức nữa.
Trưa ấy, dân phường Khương Thủy nghe đồn anh em nhà họ Tôn đã thỉnh được Âu Dương hoà thượng tới nhà lập đàn trừ chồn cho phường nên rất vui mừng, rủ nhau tới nhà họ Tôn coi. Lang thị vào đánh thức chồng dậy để cùng đi coi với mình. Thấy chồng vẫn còn ngủ say nên Lang thị ra rủ hai đứa con. Tới nơi, Lang thị thấy nhà sư đã lập xong đàn tràng. Lát sau, nhà sư làm phép rồi niệm thần chú, gọi chồn tới quy phục. Ðột nhiên mọi người thấy Túy Toàn, từ ngoài cổng chạy huỳnh huỵch vào nhà, mặc chiếc áo màu vàng, sắc mặt nhợt nhạt. Tới trước đàn, đột nhiên Túy Toàn ngã quỵ xuống đất, hóa thành chồn, chiếc áo màu vàng vẫn còn khoác trên thân. Ai nấy đều kinh hãi.
Lúc thấy chồng chạy tới, Lang thị đã ngạc nhiên. Nay thấy chồng biến thành chồn, Lang thị lại càng kinh hãi. Nhà sư rút dao ra toan giết. Thấy thế, Lang thị vội quỳ xuống đất, khẩn cầu:"Xin hoà thượng mở lượng hải hà, tha chết cho chồng tiện thiếp. Tiện thiếp chắc rằng chồng tiện thiếp đã bị mắc mưu của chồn nên mới hóa thành chồn" Nhà sư gật đầu, nói:"Nếu thế thì hãy dắt về mà chăm sóc!"
Lang thị và hai con bèn dắt chồn về, chăm sóc chu đáo. Dọn cơm rượu cho ăn, dọn giường nệm cho ngủ, những mong chồn hóa trở lại thành người. Thế nhưng, ba hôm sau, chồn vẫn là chồn, chẳng thể hóa trở lại thành người được nữa.
Tối ấy, đột nhiên chồn lăn ra chết.



Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Thi làm Thành Hoàng
truyện KHẢO THÀNH HOÀNG



Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên.
Minh nghĩa khai tông đệ nhất thiên.
Khấp thế trần tình dư giả nhật.
Hoan thừa huyên thảo hỷ diên niên.


Anh rể bản nhân thuật chuyện:
Ông nội của anh rể bản nhân là Tống công, húy Ðào. Sinh thời, công là một nho sĩ, được hưởng lương một ấp. Năm ấy, công 51 tuổi, rước lão mẫu, 71 tuổi, về ở chung để tiện bề phụng dưỡng.
Một hôm, công bị bạo bệnh, lên giường nằm rồi mất. Lão mẫu thuê người khâm liệm, quàn linh cữu ở phòng khách.
Hôm ấy, công vừa lên giường nằm thì chợt thấy một lính cưỡi ngựa, tay cầm văn thư, dắt theo một ngựa trắng, vào sân nhà, buộc ngựa ở ngoài sân rồi vào phòng, nói:"Có lệnh trên sai tiểu nhân tới mời tiên sinh đi thi" Công liền dồn dập hỏi:"Lệnh của ai? Thi cái gì? Ai là giám khảo?" Lính chẳng đáp, chỉ giục:"Xin tiên sinh hãy sửa soạn mau cho!" Công đang bị bệnh nên yếu sức, song cũng cố gắng ngồi dậy mặc áo quần. Lính bèn dìu công ra sân, đỡ lên lưng ngựa trắng rồi bảo công rong ngựa theo mình. Ðường đi thực là lạ lùng, vắng vẻ.
Lát sau, tới một đô thị sầm uất, trông tựa chốn đế đô, lính dẫn công vào một dinh thự nguy nga, bảo công xuống ngựa, rồi trao cả hai ngựa cho lính canh. Lính dẫn công qua cổng, qua sân, lên thềm cao, bước vào một cung điện. Ngửng đầu nhìn lên, công thấy cung điện cực kỳ tráng lệ. Thấy ở cuối điện có mười một vị thần đang ngồi trên bục cao, công cố đoán xem các vị ấy là ai song chẳng sao đoán được trừ vị ngồi chính giữa thì công đoán chắc là Quan Ðế đời Tam Quốc vì trông giống hình Quan Ðế mà thế nhân thường vẽ để thờ. Dưới sàn thấp, mỗi bên phải trái đều có bày một ghế, một bàn, trên có để sẵn giấy bút. Ghế phải đã có một nho sĩ ngồi, còn ghế trái thì để trống. Một vị lấy tay chỉ ghế trống, bảo công tới ngồi. Công vội tuân lệnh. Vị ấy đứng dậy, xuống phát cho mỗi người một đề thi, rồi nói:"Viết bài ngay đi!" Công mở đề, chỉ thấy vẻn vẹn có tám chữ:"Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm" (Một người, hai người, cố tình, vô ý). Nho sĩ với công cùng cặm cụi viết bài. Hai người viết xong, cùng đưa bài lên nạp rồi trở về chỗ ngồi. Chư thần truyền tay nhau đọc.
Lát sau, một vị nói:"Hai bài cùng hay. Tuy nhiên, bài của Tống sinh có hai câu xuất sắc: Cố tình mà làm điều thiện, tuy thiện song chẳng nên thưởng. Vô ý mà làm điều ác, tuy ác song chẳng nên phạt" Chư thần đều gật gù, khen hay rồi xúm quanh Quan Ðế mà bàn bạc.
Hồi lâu, một vị gọi công lên gần bục, nói:"Tỉnh Hà Nam khuyết chức thành hoàng, nhà ngươi đáng được sung vào chức ấy!" Bấy giờ công mới hiểu là nho sĩ và mình cùng được gọi tới để chư thần chọn một người đi làm thành hoàng. Công vội quỳ xuống sàn, rập đầu khóc, thưa:"Ðược chư thần đoái thương, cho đi làm thành hoàng, thực chẳng dám chối từ. Song chư thần xét cho, dương thế còn mẹ già, đã bảy mươi mốt tuổi, chẳng biết cậy vào ai. Nay mong được ở nhà, phụng dưỡng mẹ cho trót, rồi sẽ xin tuân lệnh" Một vị ra lệnh cho viên chủ bạ râu dài đứng cạnh:"Hãy lấy thọ bạ ra coi xem thân mẫu của Tống sinh còn được hưởng bao nhiêu tuổi nữa?" Viên chủ bạ vào phòng trong bưng ra một cuốn sổ dày, đặt lên bàn, lật trang tìm đọc. Lát sau, thưa:"Còn được hưởng chín tuổi nữa" Chư thần đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý. Chợt Quan Ðế phán:"Thôi được. Bây giờ hãy tạm sung Trương sinh vào chức ấy trong chín năm. Sau đó, sẽ trao lại cho Tống sinh" Phán xong, Quan Ðế quay qua bảo công:"Ðáng lẽ nhà ngươi phải đi phó nhậm ngay song vì nhà ngươi có hiếu nên được về phụng dưỡng mẹ già thêm chín năm nữa. Hết hạn, sẽ cho gọi lại!" Công vội rập đầu lạy tạ. Quan Ðế lại sai lính gọi nho sĩ kia tới gần bục mà bảo:"Nhà ngươi chẳng còn mẹ. Vậy hãy tạm đi phó nhậm chức thành hoàng ở Hà Nam thay cho Tống sinh. Sau chín năm, sẽ được sung vào chức khác!" Nho sĩ cũng rập đầu lạy tạ.
Lính dắt hai người ra sân. Nho sĩ bước tới nắm tay công, tự giới thiệu:"Bỉ nhân họ Trương, quê ở huyện Trường Sơn!" Công cũng đáp lễ, nói:"Bỉ nhân họ Tống, quê ở huyện Chuy Xuyên!" Nho sĩ bèn làm một bài thơ tặng công. Công cũng làm một bài thơ tặng lại. Chợt thấy người lính dắt hai ngựa ra sân, đỡ công lên lưng ngựa trắng, bảo công rong ngựa theo mình. Công cúi đầu chào nho sĩ rồi rong ngựa theo lính.
Lát sau, về tới sân nhà, công xuống ngựa. Lính nói: "Thôi, tiên sinh vào nhà đi!" rồi quay ngựa ra khỏi cổng, dắt theo ngựa trắng. Công vừa bước chân vào phòng khách thì chợt bừng mắt tỉnh, thấy mình đang nằm trong linh cữu chưa đậy nắp. Công trở mình. Lão mẫu nghe có tiếng động trong linh cữu, bèn bước tới coi. Thấy công đã hồi sinh, lão mẫu mừng lắm, vội đỡ công dậy, dìu vào phòng trong. Chiều ấy, công tỉnh hẳn, nói năng được như thường. Công hỏi chuyện thì lão mẫu nói công đã mất được ba ngày. Công bèn thuật chuyện mình thấy cho lão mẫu nghe. Lão mẫu bảo công đọc bài thơ của nho sĩ tặng thì công chỉ còn nhớ được có hai câu:
Hữu hoa, hữu tửu, xuân thường tại,
Vô nguyệt, vô đăng, dạ tự minh
(Có hoa, có rượu, xuân luôn còn,
Không trăng, không đèn, đêm tự sáng)
Hôm sau, công nhờ người sang huyện Trường Sơn hỏi thăm thì được biết quả có nho sĩ họ Trương trong huyện mới mất được bốn ngày, đúng vào ngày công mất.
Chín năm sau, quả nhiên lão mẫu qua đời. Làm tang lễ cho lão mẫu xong, công tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, đi giày mới, chít khăn đỏ, lên giường nằm mà mất.
Chiều ấy, nhạc gia của công cư ngụ ở cửa tây huyện thành bỗng thấy công chít khăn đỏ, cưỡi ngựa trắng, tới nhà mình cùng với một đoàn xa mã hộ tống. Công xuống ngựa, vào phòng khách, chẳng nói một lời, sụp lạy nhạc gia một lạy rồi trở ra, lên ngựa mà đi. Nhạc gia kinh nghi, liền cho người chạy tới nhà công coi thì được biết công mới mất được mấy giờ.
Sinh thời, công có viết một tập tiểu truyện, thuật lại thực rõ ràng từng chi tiết của câu chuyện. Anh rể bản nhân vẫn cất giữ tập truyện ấy. Tiếc rằng sau cơn binh lửa năm Giáp Thân (1644), tập truyện ấy bị thất lạc. Anh rể bản nhân chỉ còn nhớ được sơ lược có bấy nhiêu thôi.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Để của cho con
truyện LÝ BÁT CANG



A ông ngụ tạng tí hà trì.
Cánh đáo sơn cùng thủy tận thi.
Hồi thủ di lưu đương nhật ngữ.
Chấp niên khâm lẫm dĩ tiền tri.

Triều Tống, tỉnh Sơn Ðông có bốc sư họ Lý, tên Xích Vũ, nhà rất giàu. Ngoài ba ngôi nhà lớn, Lý ông còn chôn giấu rất nhiều vàng. Nghe đồn Lý ông có tới tám chum vàng nên người làng đặt cho Lý ông lộng danh là Lý Bát Cang (Lý Tám Chum)
Lý ông không có con gái, chỉ có hai trai là Xích Thành, lên 10, và Nguyệt Sinh, lên 8, theo học cùng một thày đồ.
Tính Xích Thành hiền lành, cần kiệm song vì không thích văn chương nên sau khi biết đọc văn tự, Xích Thành xin cha mẹ cho về quê trông nom gia nhân canh tác. Năm 20 tuổi, Xích Thành được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Xích Thành họ Cốc. Cốc thị cũng hiền lành, cần kiệm như chồng nên chỉ ít năm sau, hai vợ chồng đã trở nên giàu có. Xích Thành có ba trai, ba gái.
Tính Nguyệt Sinh cũng đôn hậu nhưng ăn tiêu hoang phí. Vốn ưa thích văn chương, Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho theo học tới khi đậu đại khoa. Mười năm sau, Nguyệt Sinh thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) song vì không thích ra làm quan nên Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho về quê ở chung. Năm 20 tuổi, Nguyệt sinh cũng được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Nguyệt Sinh họ Xa, tính rất hiền lành và hay chiều chồng, chẳng bao giờ ngăn cản chồng mình điều chi. Nguyệt Sinh chỉ có hai trai.
Mười năm sau, Lý bà mất. Thấy mình đã già, Lý ông tự biết cũng chẳng còn sống được bao lâu. Bèn đào bảy chum vàng lên rồi cho gọi hai con tới nhà, nói:"Thân mẫu các con đã qua đời mà ta thì cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa nên ta muốn chia cho mỗi đứa một phần của cải. Bây giờ ta có bảy chum vàng. Xích Thành đông con, ta cho sáu chum còn Nguyệt Sinh ít con, ta cho một chum. Tuy nhiên, sau khi ta chết thì ngôi nhà ta đang ở với mười mẫu ruộng ta đang cho người cấy sẽ thuộc về Nguyệt Sinh!" Nguyệt Sinh bất mãn nhưng vì sợ cha nên chẳng dám nói. Hai anh em nhận lãnh phần chia rồi tải về nhà.
Biết Nguyệt Sinh bất mãn, một hôm Lý ông cho gọi riêng tới nhà mà bảo:"Chẳng phải là ta thiên vị anh con, cho nó nhiều hơn con đâu. Ta còn một chum nữa, chôn riêng một chỗ, để dành cho con. Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!"
Ít lâu sau, Lý ông bị bệnh nặng. Nguyệt Sinh sợ cha chết bất thần thì mình sẽ chẳng biết được chỗ chôn vàng, nên sang nhà cha, rình lúc vắng người, lẻn vào hỏi nhỏ:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?" Lý ông đáp:"Ta chưa thể nói cho con biết được! Ở đời, mỗi người đều có một phần số riêng, sướng khổ khác nhau. Bây giờ con đang được hưởng cái phước có vợ hiền thì hãy cứ hưởng đi đã! Con thì ăn tiêu hoang phí mà vợ con thì hiền lành thái quá, chẳng biết ngăn cản con. Nếu bây giờ ta có cho con nhiều tiền bạc thì chắc chắn là con cũng sẽ tiêu hết ngay!" Nguyệt Sinh không nghe, cứ năn nỉ xin được biết chỗ chôn vàng. Lý ông liền nổi giận, quát:"Mày thì ăn tiêu hoang phí, chẳng biết giữ của, mà con vợ mày thì chiều mày thái quá, chẳng biết ngăn cản mày. Số mày còn phải nghèo túng trên hai chục năm nữa rồi mới khá được! Bây giờ mà mày có tiền rừng bạc biển thì cũng sẽ hết ngay. Chừng nào mà mày chưa phải là nghèo rớt mùng tơi thì đừng có hy vọng được tao cho thêm!" Nguyệt Sinh sợ cha mà cũng có hiếu nên chẳng dám hỏi chi nữa, chỉ mong sao cho cha chóng khỏi bệnh để mình có dịp dò hỏi được chỗ chôn vàng.
Ba tháng sau, Lý ông trở bệnh nặng rồi mất, Nguyệt Sinh vô cùng thất vọng. Chum vàng cha cho đã đem trả nợ mất gần nửa nên thầm nghĩ bây giờ lại phải chung góp với anh để làm tang lễ cho cha thì sẽ chẳng còn được là bao. May sao, Xích Thành gọi riêng em ra một nơi mà bảo cho biết là mình sẽ đứng ra lo liệu hết tang lễ cho cha. Nguyệt Sinh mừng lắm.
Sau tang lễ, Nguyệt Sinh đưa vợ con tới cư ngụ ở ngôi nhà của cha để lại, còn ngôi nhà của mình thì cho thuê. Ðã ăn tiêu hoang phí, lại có tính hiếu khách, ngày nào Nguyệt Sinh cũng sai gia nhân đi mời khách về nhà ngâm vịnh, có ngày sai vợ làm tới bốn bữa cơm thịnh soạn để đãi khách. Ðã thế, thấy bạn bè nào than túng, Nguyệt Sinh cũng vào bảo vợ xuất tiền cho vay nên bị bọn vô lại trong làng rủ nhau tới nhà bòn của. Vốn không biết cách quản lý ruộng nương, Nguyệt Sinh chẳng thâu nhập được là bao. Càng ngày Nguyệt Sinh càng nghèo.
Mười năm sau, Nguyệt Sinh rơi vào cảnh túng thiếu. May được Xích Thành tốt bụng, thường lén vợ mà chu cấp cho em nên Nguyệt Sinh cũng chưa đến nỗi nào.
Năm năm sau, Xích Thành bị bệnh rồi mất. Từ đó, Nguyệt Sinh chẳng còn biết trông cậy vào ai. Mùa xuân, Nguyệt Sinh phải đi vay thóc về cho gia đình ăn. Mùa thu, thâu hoạch được chút nào thì lại phải đem đi trả nợ hết, cả vốn lẫn lời. Ít lâu sau, lại phải bán rẻ ngôi nhà cho thuê và mười mẫu ruộng cha để lại cho. Nhiều bữa trong nhà chẳng còn gạo ăn, Nguyệt Sinh phải đôn đáo chạy đi vay mượn. Gia nhân thấy chủ nghèo quá, bèn rủ nhau trốn hết. Ba năm sau, con trai lớn của Nguyệt Sinh bị bệnh mà chết. Vì thương con quá, Xa thị cũng bị bệnh mà chết theo con. Bấy giờ, trong nhà chỉ còn Nguyệt Sinh với đứa con trai nhỏ.
Năm sau, hết tang vợ, Nguyệt Sinh đem chút tiền còn lại đi cưới một cô vợ kế, họ Từ, trước kia là vợ của một người lái dê. Nguyệt Sinh hy vọng Từ thị sẽ giúp mình làm ăn khá giả hơn. Thế nhưng, hai năm sau, Nguyệt Sinh lại càng nghèo thêm. Tính Từ thị rất thô bạo, trái hẳn tính Xa thị thủa trước. Ngày nào hàng xóm cũng thấy Từ thị thóa mạ chồng, cấm chồng không được giao du với bè bạn.
Một đêm, Nguyệt Sinh nằm mộng thấy cha về, nói:"Tình cảnh của con bây giờ có thể nói là nghèo rớt mùng tơi rồi đó! Trước kia ta có hứa cho con một chum vàng, bây giờ có thể lấy lên mà chi tiêu" Nguyệt Sinh vội hỏi:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?"Ðáp: "Sáng mai ta sẽ chỉ chỗ cho!" Bỗng Nguyệt Sinh tỉnh giấc. Nghĩ lại giấc mộng, Nguyệt Sinh lấy làm lạ nhưng thầm nghĩ chắc mình nghèo quá, ngày nào cũng mơ tưởng tới tiền bạc nên mới sinh ra mộng mị vớ vẩn thế thôi. Vả lại, cha mất đã lâu rồi, chẳng cho mình biết chỗ chôn vàng thì làm sao mà mình có thể tìm thấy được? Vì thế, Nguyệt Sinh cũng chẳng buồn để ý tới giấc mộng nữa.
Sáng sau, đột nhiên bức tường rào ở vườn sau nhà Nguyệt Sinh bị đổ vì đã quá cũ. Từ thị bắt chồng phải ra cuốc đất đắp lại ngay. Sợ vợ, Nguyệt Sinh vội tuân lời. Khi cuốc đất đắp tường, cuốc phải một vật cứng, Nguyệt Sinh nhặt lên coi thì thấy là một mảnh nắp chum. Bèn thử cuốc sâu thêm chút nữa thì thấy lộ ra một chum vàng. Mừng quá, Nguyệt Sinh vội chạy vào nhà tìm vợ con, bảo ra vườn sau giúp mình khuân vàng vào nhà. Từ đó, gia đình Nguyệt Sinh lại trở nên khá giả.
Một hôm, nhớ tới câu nói của cha ngày trước:"Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!" Nguyệt Sinh chợt nghĩ ra cái nghĩa của câu nói đó "Bây giờ vợ cả và con trai lớn của mình đã chết, gia nhân đã rủ nhau trốn hết, thì gia đình mình trở nên vắng người"
Nhờ chum vàng, Nguyệt Sinh được sống trong cảnh sung túc với Từ thị và đứa con trai cho tới hết cuộc đời.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Hổ trả ơn người
truyện NHỊ BAN



Tam niên tiền sự vị toàn vong.
Báo đức hô nhi đại trục lang.
Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc.
Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương.

Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.
Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.
Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Ðột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Ðáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Ðáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Ðáp:"Ðể lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.
Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Ðoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Ðể bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Ðại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.
Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Ðáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Ðáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"
Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.
Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.
Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Ði từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Ðột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.
May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.
Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.
Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.



Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Làm bạn với chồn vô hình
truyện HỒ TỨ TƯỚNG CÔNG



Tặng kim đặc trọng cố nhân tình.
Dị loại hữu bằng thắng đệ huynh.
Nhất diện hữu duyên nan tái kiến.
Thần giao diệc túc úy bình sinh.


Huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Ðông, có hai anh em nho sĩ họ Trương. Người em tên Ðạo Nhất, làm quan học sứ tỉnh Tứ Xuyên, gia tư khá giả. Người anh tên Hư Nhất, tính rất dũng cảm. Tai thì thường được nghe nhiều chuyện về chồn tinh ma quỷ, song mắt thì chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Hư Nhất cư ngụ trong huyện thành Lai Vu, gia tư thanh bần.
Ở góc đông nam huyện thành có một căn nhà bỏ hoang. Huyện dân đồn rằng có một chồn đực có thuật tàng hình, dắt một lũ chồn tiểu yêu đến chiếm ngụ căn nhà nên chẳng ai dám bén mảng tới. Nghe tin đồn, Hư Nhất quyết tâm đến thăm, mong được gặp chồn một lần cho biết. Hư Nhất bèn bảo đứa tiểu đồng cùng mình chay tịnh một tuần.
Tuần sau, hai thày trò tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề, dắt nhau đến căn nhà. Tới nơi, thấy hai cánh cửa tự động mở ra, tiểu đồng kinh hãi, quay mình bỏ chạy. Hư Nhất gọi thế nào tiểu đồng cũng không dám trở lại. Hư Nhất bèn quyết tâm vào căn nhà một mình. Hư Nhất chỉnh lại mũ áo rồi bước vào nhà thì thấy đồ đạc được bày biện ngăn nắp song trong nhà vắng ngắt, chẳng một bóng người. Hư Nhất bèn chắp tay vái chào, khấn:"Ðệ thành tâm trai giới để đến đây xin gặp túc hạ. Vừa rồi đệ ở ngoài cửa, túc hạ đã chẳng cho gặp mặt, bây giờ đệ vào trong nhà, túc hạ vẫn chưa cho gặp mặt hay sao?" Chợt có tiếng đáp:"Ða tạ túc hạ đã giá lâm!" rồi có hai chiếc ghế tự động di chuyển ra giữa phòng khách, quay mặt đối nhau. Sau đó, có tiếng nói:"Mời túc hạ ngồi chơi, đệ sẽ xin hầu chuyện!" Hư Nhất bèn mạnh dạn ngồi xuống ghế. Chợt có một chiếc bàn lớn trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, tự động di chuyển, len vào giữa hai chiếc ghế. Hư Nhất đưa mắt nhìn thì thấy trên bàn có hai chén trà nóng, khói bốc nghi ngút. Chợt lại có tiếng nói: "Mời túc hạ dùng trà" Hư Nhất nâng một chén lên thì thấy chén kia cũng được nâng lên rồi có tiếng miệng thổi cho trà bớt nóng song tuyệt nhiên chẳng thấy một bóng người. Hư Nhất lên tiếng hỏi:"Túc hạ có thể cho biết quý danh chăng?" Có tiếng đáp:"Ðệ họ Hồ song chẳng có tên!" Hỏi:"Thế thì thiên hạ thường xưng hô với túc hạ như thế nào?" Ðáp:"Thiên hạ thường gọi đệ là Hồ tứ tướng công vì đệ là người con thứ tư trong gia đình" Sau một tuần trà, lại có tiếng nói:"Chẳng mấy khi túc hạ giá lâm, xin túc hạ lưu lại dùng với đệ một bữa rượu lạt!" Hư Nhất nhận lời ngay, đáp:"Xin vâng"
Lát sau, Hư Nhất thấy trong phòng dường như có tiếng chân của nhiều tiểu đồng chạy ra chạy vào, rồi thấy có bình chén, bát đũa, nem chả, ba ba, khô nai, rau thơm được đem ra bày kín mặt bàn. Rồi có tiếng nghiêng bình rót rượu và tiếng mời:"Mời túc hạ nâng chén!" Hư Nhất chẳng khách sáo, nâng chén yến ẩm thì thấy rượu và thức ăn rất ngon, y như ở các tửu quán thượng đẳng vậy. Hai bên thù tạc, đàm đạo văn chương thế sự, rất mực tương đắc. Ðang yến ẩm, bỗng Hư Nhất thầm nghĩ giá bây giờ có một chén trà nóng mà uống thì thích quá. Lập tức có một chén trà nóng được đem tới đặt ngay trước mắt Hư Nhất. Thế rồi mỗi lần Hư Nhất thầm ước một vật gì thì vật ấy lập tức hiện ra ngay trước mắt. Hư Nhất rất lấy làm kinh ngạc song cũng rất lấy làm thích thú. Sau khi yến ẩm no say, Hư Nhất xin cáo biệt.
Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hư Nhất lại tới thăm tướng công. Thỉnh thoảng, tướng công cũng tới đáp lễ Hư Nhất, song trước sau Hư Nhất cũng chỉ nghe thấy tiếng chân đi, tiếng miệng nói chứ chưa hề nhìn thấy hình dáng người bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa đến nhà tướng công dự tiệc. Trong lúc yến ẩm, Hư Nhất nói:"Ðệ có quen một bà đồng ở Nam Thành. Người ta đồn rằng bà ấy khoe là có nuôi được một chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, kiếm được rất nhiều tiền. Theo ý túc hạ, có đúng thế chăng?" Tướng công đáp:"Lời đồn của thiên hạ thì đúng nhưng lời khoe của bà đồng thì sai!" Lát sau, Hư Nhất đứng dậy, xin phép ra ngoài đi tiểu thì chợt nghe thấy tiếng thì thầm bên tai:"Lũ tiểu nhân vừa được nghe tiên sinh nói chuyện với tướng công về bà đồng ở Nam Thành. Vậy lát nữa, xin tiên sinh nói với tướng công cho lũ tiểu nhân được theo tiên sinh tới Nam Thành một chuyến để xem mặt mũi bà ấy ra sao?" Biết là tiếng nói của lũ chồn tiểu yêu, Hư Nhất đáp:"Ðược!" Khi trở lại bàn tiệc, Hư Nhất nói với tướng công:"Xin túc hạ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới Nam Thành một chuyến để xem lời khoe của bà đồng là đúng hay sai?" Tướng công cười, đáp:"Ðã biết lời khoe của bà ấy là sai rồi thì còn phải tới làm chi?" Hư Nhất năn nỉ:"Xin túc hạ cứ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới đó một chuyến xem sao!" Tướng công cười, đáp:"Túc hạ đã muốn thế thì đệ xin vâng!"
Tiệc tan, Hư Nhất xin cáo biệt. Vừa toan ra tháo ngựa thì đã thấy ngựa đang chậm rãi bước tới trước cửa, tựa hồ như có người đang dắt tới vậy. Hư Nhất vừa leo lên lưng ngựa thì chợt nghe có tiếng tướng công sai bốn tiểu đồng đi theo mình tới Nam Thành.
Dọc đường, Hư Nhất thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo rồi có tiếng thì thầm bên tai:"Xin tiên sinh hiểu cho rằng khi nào tiên sinh đi đường mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo, tức là có lũ tiểu nhân đang theo hầu!" Hư Nhất gật đầu.
Tới nhà bà đồng, Hư Nhất gõ cổng. Bà đồng từ trong nhà bước qua sân, ra mở cổng. Thấy Hư Nhất, bà cười, hỏi:"Ngọn gió nào đưa quý nhân tới đây thế?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân tự ý tới đây để hỏi thăm bà một chuyện!" Bà hỏi:"Chuyện chi mà quan trọng thế?" Hư Nhất đáp:"Người ta đồn rằng bà khoe là có nuôi được một con chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, có đúng thế chăng?" Bà chợt nghiêm nét mặt, trách: "Quý nhân là người nho nhã, sao lại ăn nói khinh bạc như thế?" Hư Nhất hỏi:"Bỉ nhân ăn nói khinh bạc như thế nào?" Bà trách:"Sao quý nhân lại gọi Chị Hoa nhà lão thân là con chồn? Chị Hoa nhà lão thân mà nghe thấy thế thì buồn lắm đó!"
Bà vừa trách xong thì bỗng có một miếng gạch ném trúng cánh tay bà. Tưởng là Hư Nhất ném mình, bà tức giận, trách:"Sao quý nhân lại ném lão thân? Lão thân có xúc phạm chi tới quý nhân đâu?" Biết là lũ chồn tiểu yêu ném bà, Hư Nhất cười, đáp:"Bỉ nhân ném bà hồi nào? Bà thong manh rồi hay sao?" Nghe thấy thế, bà kinh hãi quá, cứ đứng suy nghĩ, chẳng hiểu là ai ném mình. Bỗng lại có một viên đá ném trúng đầu bà, làm bà té xuống đất. Bà chưa kịp nghĩ xem là ai ném thì lại có bùn nhơ ném trúng mặt bà, làm cho mặt bà trông tựa mặt quỷ. Bà kinh hãi quá, gào khóc, van xin:"Xin đừng ném nữa! Nếu lão thân có làm điều chi xúc phạm thì xin hãy tha tội cho!" Thấy thế, Hư Nhất cũng thương hại, bèn lớn tiếng quát lũ chồn tiểu yêu:"Không được ném nữa!" Lập tức bùn ngưng bay tới. Bà lồm cồm bò dậy, băng qua sân, chạy vào nhà, đóng chặt cửa, đi rửa mặt rồi ngồi ở trong nhà, chẳng dám ló ra ngoài. Hư Nhất chạy theo bà, tới gõ cửa, hỏi:"Chồn thày thuốc của bà có thể ném được gạch đá, bùn đất như chồn của bỉ nhân chăng?" Từ trong nhà, bà nói vọng ra:"Người ta đồn thế chứ lão thân có khoe là mình nuôi được chồn bao giờ đâu? Xin quý nhân đừng tin ở những lời đồn đại!" Hư Nhất ngửa mặt lên trời cười rồi quát lũ chồn tiểu yêu:"Cấm không được ném nữa!" Xong, lại quay ra nói với bà:"Bỉ nhân đã cấm lũ chồn không được ném nữa rồi! Bà đừng sợ! Hãy ra đây cho bỉ nhân dặn một điều!" Nghe thấy thế, bà mới dám hé cửa ra, hỏi:"Quý nhân muốn dạy bảo điều chi?" Hư Nhất đáp: "Chỉ muốn dặn bà một điều là từ nay trở đi, bà đừng lường gạt bệnh nhân nữa!" Bà nói:"Xin vâng!" Hư Nhất bèn cáo biệt.
Từ đó, mỗi lần Hư Nhất đi đâu mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo thì biết ngay là có lũ chồn tiểu yêu đang theo hầu. Thế rồi, mỗi lần đi xa, muốn có người đồng hành để đề phòng thú dữ, giặc cướp hoặc để nói chuyện cho vui, Hư Nhất chỉ cần lên tiếng gọi lũ chồn là lập tức chúng đáp lời ngay.
Thấm thoắt, Hư Nhất đã giao du với tướng công được hơn một năm. Hai bên chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, chẳng hề trái ý nhau bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất hỏi:"Năm nay, túc hạ bao nhiêu tuổi?" Tướng công đáp:"Ðệ quên mất rồi! Song mỗi lần nhớ tới việc mình chứng kiến vụ Hoàng Sào làm phản vào cuối triều Ðường thì đệ lại thấy tựa hồ như mới ngày hôm qua!" Nghe thấy thế, Hư Nhất kinh hãi quá, chẳng dám hỏi chi thêm.
Một trưa, Hư Nhất đến nhà tướng công dự tiệc. Chợt nghe thấy tiếng gà kêu quang quác ở hàng rào, Hư Nhất lấy làm lạ, hỏi:"Sao giữa ban ngày mà lại có tiếng gà kêu như thế?" Tướng công đáp:"Chắc là lại do Tam ca nhà đệ gây ra!" Hỏi:"Sao túc hạ chẳng mời lệnh huynh vào đây yến ẩm, đàm đạo cho vui?" Ðáp:"Gia huynh chẳng thích gặp đệ. Vả lại tư tưởng của gia huynh nông cạn lắm, biết lấy chi mà đàm đạo?" Hỏi:"Lệnh huynh ưa cuộc sống như thế nào?" Ðáp:"Gia huynh chỉ ưa cuộc sống đi bắt trộm gà để nhắm rượu. Thế nhưng, nghĩ cho cùng thì đối với gia huynh, cuộc sống như thế cũng đủ rồi, cần chi phải có tư tưởng cao siêu!" Hư Nhất bèn nói lảng sang chuyện khác. Lát sau, bỗng Hư Nhất nói:"Ðã hơn một năm nay, giao tình giữa chúng ta có thể nói là rất tốt đẹp song đệ thấy đệ vẫn còn một điều ấm ức, chưa giải tỏa được!" Tướng công cười, hỏi:"Ðiều ấy là điều chi?" Ðáp:"Ðiều ấy là điều túc hạ chưa cho đệ được nhìn thấy tôn nhan!" Cười, nói:"Giao du với nhau thì chỉ cần giữ được chân tình, thiện cảm chứ cần chi phải biết mặt nhau?" Hư Nhất lặng im, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau. Một hôm tướng công bày tiệc rượu thịnh soạn, sai lũ chồn tiểu yêu đi mời Hư Nhất đến dự. Hư Nhất vội mặc quần áo đi theo.
Tới nơi, tướng công mời Hư Nhất nhập tiệc. Giữa tiệc, đột nhiên tướng công nói: "Hôm nay đệ mời túc hạ đến đây để chúng mình yến ẩm đàm đạo với nhau lần chót!" Hư Nhất kinh ngạc, hỏi: "Sao vậy? Túc hạ sắp đi đâu?" Ðáp: "Vì quê đệ ở Thiểm Tây nên nay đệ lại muốn hồi cư về đó!" Rồi cười, nói tiếp:"Trong hơn một năm qua, túc hạ cứ ấm ức là chẳng biết mặt mũi đệ ra sao. Nay sắp chia tay, đệ muốn để túc hạ nhìn thấy đệ một lần cho biết, kẻo sau này có dịp tái kiến, túc hạ lại chẳng nhận ra!" Hư Nhất quay đầu nhìn quanh song chẳng thấy ai, nên hỏi: "Túc hạ ở đâu?" Ðáp: "Ðệ ở trong phòng ngủ. Túc hạ hãy đến mở cửa ra thì thấy!" Hư Nhất bèn đứng dậy, bước tới phòng ngủ, mở cửa nhìn vào thì thấy quả có một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như ngọc, y phục mới tinh, sang trọng lịch sự, đang ngồi trên giường, nhìn mình mỉm cười. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thì thiếu niên đã biến mất. Hư Nhất bèn khép cửa phòng ngủ, trở lại bàn tiệc. Nghe có tiếng chân người bước ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại song chẳng thấy ai. Hư Nhất vừa an tọa thì nghe có tiếng cười, hỏi: "Phải chăng bữa nay đệ đã giải tỏa được điều ấm ức của túc hạ?" Hư Nhất chẳng đáp. Hai người lại tiếp tục yến ẩm, đàm đạo.
Tới khuya, thấy Hư Nhất vẫn chưa đứng dậy cáo biệt như mọi lần, tướng công biết là Hư Nhất còn lưu luyến tình bạn ở căn nhà này, nên cười, nói:"Mọi việc ở đời, kể cả hợp tan, đều đã có định số, túc hạ lưu luyến làm chi?" Hư Nhất lặng im, chẳng đáp. Tướng công bèn sai tiểu yêu đi lấy hai chén lớn, rồi tự tay rót đầy rượu, đưa một chén mời Hư Nhất, nói:"Ðây là chén rượu ly biệt" Hai bên cùng cạn chén. Thấy Hư Nhất đã say, tướng công bèn sai lũ tiểu yêu hộ tống về nhà.
Sáng sau, khi tỉnh rượu, Hư Nhất vội tắm gội sạch sẽ rồi cưỡi ngựa đến thăm tướng công. Tới nơi, Hư Nhất thấy căn nhà đã hoàn toàn vắng lặng, chẳng còn một tiếng động. Từ đó, căn nhà hết chồn.
Mười năm sau, Hư Nhất vẫn thanh bần như xưa.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa từ Sơn Ðông xuống Tứ Xuyên thăm em. Tới nơi, thấy em mình có nhà cao cửa rộng, đồ đạc sang trọng, Hư Nhất cảm khái, thở dài. Ở chơi với em được hơn một tháng, Hư Nhất cáo biệt.
Dọc đường về, Hư Nhất buông cương cho ngựa bước tự do, còn mình thì ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ miên man về sự quý hiển của em, sót thương cho thân phận mình, rồi bất giác thở dài. Chợt nghe có tiếng vó ngựa ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại thì thấy một thiếu niên anh tuấn, dáng vẻ phong nhã, mặc áo lông cừu, đang phóng một thanh câu đuổi theo mình. Hư Nhất bèn dừng cương, ghìm ngựa, đứng chờ. Khi thiếu niên tới gần, Hư Nhất gật đầu chào. Thiếu niên cung kính chắp tay đáp lễ. Hư Nhất hỏi: "Túc hạ đi đâu vậy?" Thiếu niên đáp: "Ðệ tới huyện thành ở gần đây!" Rồi hỏi lại: "Thế còn túc hạ đi đâu?" Hư Nhất đáp:" Ðệ từ Sơn Ðông xuống đây thăm người em ruột, bây giờ lại trở về Sơn Ðông" Thiếu niên nói: "Túc hạ xuống đây thăm lệnh đệ thì lẽ ra trông phải vui lắm mới đúng chứ sao trông lại buồn bã thế?" Hư Nhất thở dài, đáp: "Gia đệ thì quý hiển, nhà cao cửa rộng, còn đệ thì từ bao năm nay vẫn lận đận long đong. Vì nghĩ mình chẳng bằng em nên buồn!" Thiếu niên nói: "Trời sinh ra con người, cho mỗi người một phần số, túc hạ so sánh làm chi? Cứ an nhiên tự tại thì có phải là thanh thản hơn không?" Rồi nói lảng sang chuyện khác.
Rong ngựa cùng đi được hơn một dặm, tới ngã rẽ nhỏ, thiếu niên dừng cương, chắp tay nói: "Bây giờ thì đệ phải rẽ vào con đường này. Mong túc hạ tự bảo trọng!" Hư Nhất cũng chắp tay nói:"Xin cám ơn túc hạ!" Thiếu niên vừa dợm phóng thanh câu đi thì như chợt nhớ ra điều gì, lại dừng cương, nói: "Lát nữa đây, nếu túc hạ có gặp ai nhờ túc hạ đem một vật gì về Sơn Ðông trao cho một người quen của túc hạ thì xin túc hạ làm ơn nhận giùm cho!" Rồi vái chào, phóng thanh câu đi. Hư Nhất thắc mắc, toan lên tiếng hỏi thì thanh câu đã mất dạng trên con đường nhỏ. Hư Nhất bèn tiếp tục lên đường.
Ði được chừng ba dặm, quả nhiên Hư Nhất thấy một ông lão đứng ở bên đường, tay xách một giỏ trúc trông có vẻ nặng. Hư Nhất vừa rong ngựa tới thì ông lão đã vội chạy ra nắm lấy dây cương, nói:"Xin tiên sinh tha cho lão nô tội đường đột! Dám hỏi tiên sinh đang đi đâu đó?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân đang trên đường về Sơn Ðông!" Ông lão nói:"Thế thì may cho lão nô quá! Bản chủ nhân cũng vừa sai lão nô đem chiếc giỏ này đi Sơn Ðông để trao cho một người quen của tiên sinh! Nay được biết tiên sinh đang trên đường về Sơn Ðông, lão nô dám mạo muội nhờ tiên sinh đem chiếc giỏ này về trao cho người ấy!" Hư Nhất đáp:"Ðược! Song phải nói rõ người ấy là ai vì bỉ nhân có nhiều người quen lắm!" Ông lão đáp:"Người ấy là Trương Hư Nhất tiên sinh!Ợ Hư Nhất kinh ngạc, nói: "Bỉ nhân chính là Trương Hư Nhất đây!" Rồi hỏi ông lão: "Quý chủ nhân là ai?" Ông lão đáp:"Bản chủ nhân là Hồ tứ tướng công!" Lúc đó Hư Nhất mới vỡ lẽ rằng thiếu niên mình vừa gặp chính là Hồ tứ tướng công và tướng công muốn tặng mình chiếc giỏ này. Ông lão trao giỏ. Hư Nhất giơ tay ra nhận. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thêm thì ông lão đã biến mất.
Mở giỏ ra coi, Hư Nhất thấy trong giỏ có một gói lớn, bọc bằng lụa đỏ, ngoài có dán một tấm giấy vàng, trên đề mấy chữ:"Hồ tứ tướng công kính tặng Trương Hư Nhất tiên sinh" Hư Nhất mở gói ra coi thì thấy toàn là vàng, ngọc.
Hư Nhất bèn buộc chặt chiếc giỏ trên mình ngựa rồi phóng về quê ở Lai Vu, Sơn Ðông.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Kim đan của ma chồn
truyện VƯƠNG LAN



Kim đan thiết đắc để sinh hoàn.
Nhân thuật tiên tâm kiến nhất ban.
Tụ ẩm Yên Ðôn thương tí phỉ.
Châu liên cơ thoán Thiết Vi san.


Thời xưa, ở Trung quốc, người ta tin rằng người chết thì thành ma, ma chết thì thành tiện, chồn chết thì thành ma chồn, ma chồn chết thì thành tiện chồn. Dù là người hay chồn, ma hay ma chồn, kẻ nào có kim đan mà nuốt cũng thành tiên. Tiên nào cũng có thuật trường sinh bất tử, có phép thần thông.
Huyện Lợi Tân tỉnh Sơn Ðông có nho sinh họ Vương, tên Lan, có vợ và hai con. Trong làng, Vương Lan chơi thân với một nho sinh, họ Trương, tên Hội. Trương Hội lại chơi thân với một kẻ vô lại họ Hạ, tên Tài. Hạ Tài chẳng chịu làm ăn, suốt ngày chỉ rượu chè cờ bạc, phung phí hết tài sản của cha mẹ để lại.
Vương Lan đang sống khỏe mạnh, hạnh phúc với vợ con, bỗng bị bạo bệnh mà thác. Quỷ tới bắt hồn, dắt theo để đi bắt các hồn khác. Nửa năm sau, khi đã bắt được đủ số hồn trong danh sách tào ty giao cho, quỷ mới dắt cả xuống âm phủ, trình Diêm Vương. Diêm Vương sai tào quan mở sổ kiểm lại. Kiểm xong, tào quan trình rằng quỷ đã bắt lầm một người tên Vương Lan. Diêm Vương bèn nổi cơn thịnh nộ, cho gọi quỷ lên quát mắng thậm tệ rồi bắt phải đưa Vương Lan trở về dương thế. Quỷ vội đưa Vương Lan về.
Tới nhà, thấy xác Vương Lan quàn trong linh cữu đã rữa, hồn chẳng thể nhập vào được, quỷ kinh hãi quá, thầm nghĩ nếu lại dắt Vương Lan trở xuống trình Diêm Vương thì thế nào Diêm Vương cũng sẽ trị tội mình. Quỷ bèn dụ Vương Lan:"Bây giờ xác anh đã rữa, anh chẳng thể nhập vào để trở lại làm người được nữa! Vậy để tôi đền anh bằng cách khác, anh có chịu không?" Vương Lan hỏi:"Ðền bằng cách nào?" Quỷ đáp:"Tôi sẽ giúp anh thành tiên!" Thấy Vương Lan có vẻ ngần ngừ, quỷ dụ tiếp:"Ðang làm người mà phải xuống làm ma thì mới khổ, chứ đang làm ma mà được lên làm tiên thì sướng lắm, còn sướng hơn được trở lại làm người nữa!" Vương Lan thở dài, hỏi:"Làm cách nào mà thành tiên được?" Ðáp:"Ở âm phủ, tôi biết có một ma chồn hiện đang luyện kim đan. Bây giờ, anh để tôi dẫn anh xuống nhà y, lấy cắp kim đan của y cho anh nuốt thì anh sẽ thành tiên. Anh có chịu không?" Thấy chẳng còn cách chi hơn, Vương Lan đành gật đầu.
Tối đó, nhằm tối nguyên tiêu, trăng sáng vằng vặc. Quỷ dắt Vương Lan xuống âm phủ, vào một biệt thự rộng lớn, tĩnh mịch, núp trong một bụi rậm ở cuối sân. Lát sau, Vương Lan thấy một chồn từ biệt thự bước ra sân, đến ngồi trên một chiếc ghế, chăm chú nhìn trăng. Ðột nhiên, chồn phùng mang trợn mắt thổi một kim đan từ trong miệng bay vút lên phía mặt trăng, rồi lại chu miệng hút. Chồn cứ thổi đi hút lại như thế mãi. Núp trong bụi rậm, quỷ nhẩm đếm số lần thổi. Tới lần thứ một trăm, khi chồn đang chu miệng hút thì quỷ nhảy vụt ra, phóng mình lên cao, chặn lấy kim đan, nhảy trở vào bụi, nhét vào miệng Vương Lan, giục:"Nuốt ngay đi!" Vương Lan còn đang bỡ ngỡ, nghe tiếng quỷ giục, liền nuốt. Chồn mất kim đan, nổi cơn thịnh nộ, nhảy theo quỷ, vung quyền đánh, quyết tâm đoạt lại. Vương Lan nhảy ra bênh quỷ. Thấy mình cô thế, khó thắng hai kẻ địch, vả lại thấy kim đan đã bị Vương Lan nuốt, chồn đâm chán nản, quay vào biệt thự, đóng sập cửa lại. Quỷ bèn nói với Vương Lan:"Tôi đã đền anh xong! Bây giờ anh đã thành tiên! Anh có thể biến thành người, trở về dương thế để thăm vợ con được rồi đó! Thôi, tôi đi đây!" Nói xong, quỷ bỏ đi.
Quỷ đi rồi Vương Lan mới sực nhớ là mình chưa hỏi quỷ cách biến thành người và đường về dương thế! Còn đang bực tức, bỗng Vương Lan sửng sốt khi thấy mình đã biến thành người và đang đứng trên dương thế, ngay giữa phòng khách nhà mình. Vừa lúc ấy, vợ con Vương Lan từ phòng trong bước ra. Thấy Vương Lan, ba mẹ con cùng kinh hãi, la hét thất thanh, hò nhau bỏ chạy, cho rằng hồn Vương Lan hiện về để bắt vợ con theo. Vương Lan vội lớn tiếng phân trần:"Nàng và hai con đừng sợ! Hãy đứng lại mà nghe ta nói! Bây giờ ta đã thành tiên rồi, chẳng phải là ma nữa!" Nghe thấy thế, ba mẹ con chỉ nửa tin nửa ngờ, song cũng đứng lại. Vương Lan bèn thuật cho vợ con nghe chuyện mình bị quỷ bắt lầm rồi chuyện mình được nuốt kim đan của ma chồn. Nghe xong, ba mẹ con mới hết sợ. Vương Lan bèn bảo vợ con dọn cho mình một phòng riêng. Ba mẹ con bàn tính với nhau rồi ưng thuận. Từ hôm ấy, ngày nào ba mẹ con cũng bưng cơm nước vào phòng cho Vương Lan ăn uống.
Chín hôm sau, chuyện Vương Lan tái sinh được đồn đãi khắp làng. Trương Hội nghe tin, chạy sang thăm. Vương Lan thuật chuyện cho bạn nghe rồi nói:"Hai ta cùng nghèo. Bây giờ tôi có cách làm giàu cho cả hai ta, anh có chịu không?" Trương Hội hỏi:"Làm giàu bằng cách nào?" Vương Lan đáp:"Bây giờ tôi có thuật chữa bệnh mà không cần phải dùng thuốc. Một mình tôi cũng có thể biến thành thày thuốc, đi chữa bệnh cho thiên hạ để làm giàu cho vợ con. Thế nhưng tôi lại sợ thiên hạ đồn tôi là ma rồi chẳng có ai chịu bỏ tiền ra nhờ tôi chữa bệnh. Vì thế bây giờ tôi muốn truyền thuật chữa bệnh cho anh rồi hai ta cùng lên tỉnh kiếm bệnh nhân. Nếu có ai chịu bỏ tiền ra nhờ anh chữa bệnh thì tiền kiếm được sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, anh có chịu không?" Trương Hội gật đầu. Vương Lan bèn giục:"Thế thì anh về sửa soạn hành trang đi!" Trương Hội liền về nhà sửa soạn hành trang rồi gom góp chút tiền bạc, theo Vương Lan lên tỉnh.
Tới tỉnh, hai người vừa vào trọ trong quán Yên Ðôn thì thấy trên tường có dán cáo thị:"Bỉ nhân họ Triệu, tên Hà, cư ngụ tại cửa Nam tỉnh này, có một gái tên Ân Ân. Từ hơn một tháng nay, tiện nữ bị hôn mê bất tỉnh. Các thày thuốc trong vùng đều bó tay. Nay, nếu có ai chữa được cho tiện nữ khỏi bệnh thì bỉ nhân xin tạ ngàn vàng" Vương Lan liền ghé tai Trương Hội mà thì thầm. Trương Hội gật đầu lia lịa, miệng lẩm nhẩm học thuộc những điều Vương Lan căn dặn.
Sáng sau, Trương Hội ăn mặc chỉnh tề, tìm tới nhà Triệu ông, quả quyết rằng mình có thể chữa được bệnh cho Ân Ân. Triệu ông nghĩ chắc là Trương Hội cũng chỉ khoác lác như mấy thày thuốc trước nên cũng chẳng tin, song vẫn nói:"Nếu đúng như vậy thì xin tiên sinh hãy giúp ngay cho!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông hãy cho bỉ nhân được coi sắc diện của lệnh ái!" Triệu ông bèn dắt Trương Hội vào phòng con. Thấy Ân Ân nằm hôn mê trên giường, Trương Hội ngắm nghía hồi lâu rồi nói:"Bệnh này đã tới thời kỳ nguy kịch song vẫn còn có thể chữa được!" Triệu ông hỏi:"Bệnh này là bệnh gì?" Trương Hội đáp:"Là bệnh lạc hồn!" Hỏi:"Tiên sinh sẽ dùng thuốc gì để chữa?" Ðáp:"Bệnh này chẳng cần dùng thuốc mà chỉ cần thỉnh thần linh đi tìm hồn, dẫn về cho nhập vào xác là xong!" Triệu ông chẳng tin, chỉ lắc đầu, thở dài, song vẫn nói: "Thôi thì tiên sinh cứ thử chữa giúp xem sao!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông cứ yên chí, thế nào bỉ nhân cũng chữa được! Chỉ xin tôn ông cho lập một bàn thờ giữa phòng khách rồi cho trải một chiếc chiếu trước bàn thờ là đủ!" Triệu ông liền sai gia nhân làm theo lời.
Trương Hội bước vào ngồi ở giữa chiếu, chắp tay lên trán khấn khứa hồi lâu rồi đứng dậy, nói:"Chỉ một giờ nữa là hồn sẽ về tới đây!" Triệu ông bèn sai tì nữ pha trà để cùng khách nhâm nhi, chờ hồn về. Chừng một giờ sau, Trương Hội thấy Vương Lan ghé tai mình thì thầm:"Hồn đã về, nhập vào xác ở trong phòng rồi đó!" Trương Hội bèn đứng dậy, lập lại lời nói của Vương Lan. Triệu ông nửa tin nửa ngờ song cũng đứng dậy, dắt Trương Hội vào phòng con. Tới cạnh giường, Trương Hội vỗ vai Ân Ân, hỏi:"Tiểu nương đã tỉnh chưa?" Ðột nhiên Ân Ân vươn vai ngáp, mở to mắt nhìn Trương Hội. Triệu ông thấy con đã tỉnh thì mừng quá, vội chạy tới hỏi: "Con có mệt không?" Ân Ân ngước mắt nhìn cha, đáp: "Con hơi mệt" Hỏi: "Con có nhớ được gì không?" Ðáp: "Thưa có!" Hỏi: "Con nhớ được những gì?" Ðáp:"Con nhớ là hôm ấy con đang dạo mát trong vườn thì bỗng thấy một kẻ lạ mặt, lưng đeo cung tên, dắt hai tiểu đồng cùng một con ngựa, mở cổng đột nhập vào vườn, giương cung bắn sẻ, song chẳng bắn trúng con nào!" Hỏi:"Thế con có nhớ tại sao con lại bị hôn mê không?" Ðáp:"Con không nhớ! Con chỉ nhớ rằng con sợ quá, quay mình bỏ chạy vào nhà thì bị y nhảy tới chặn lại, đưa cung tên cho, bắt tập bắn. Con lắc đầu từ chối rồi lại lách mình bỏ chạy. Y liền giơ tay túm lấy con, bế xốc lên lưng ngựa, phóng ra khỏi cổng. Hai tiểu đồng cũng chạy theo, song vì ngựa phi nhanh quá nên chỉ lát sau, con chẳng thấy chúng đâu nữa!" Hỏi: "Y phóng ngựa đưa con đi đâu?" Ðáp: "Y phóng ngựa đưa con tới một ngọn núi! Con gào khóc, chửi mắng y. Y cười, nói Ta chỉ muốn bắt ngươi theo ta một lát để dạy cho ngươi biết cách bắn cung thôi. Hãy im đi, đừng la lối nữa, kẻo ta ném xuống đường bây giờ!" Hỏi: "Thế con có im không?" Ðáp: "Thưa không! Con cứ tiếp tục gào khóc, chửi mắng y" Hỏi: "Thế rồi y ném con xuống đường phải không?" Ðáp: "Thưa vâng! Y ném con xuống đường rồi phóng ngựa đi mất!" Hỏi: "Thế sao con không chạy về nhà?" Ðáp:"Con muốn chạy về nhà lắm song không biết đường về! Con cứ lang thang quanh quẩn ở trong núi, bụng đói miệng khát, chẳng có gì ăn uống. Tới tối, khi gặp một hang núi, con vội chui vào thì vừa lúc con mệt lả, nằm vật xuống ngủ!" Hỏi: "Con ngủ được bao lâu?" Ðáp: "Con cũng chẳng nhớ! Con chỉ nhớ là con ngủ miên man cho tới sáng nay mới tỉnh!" Hỏi: "Tỉnh rồi thì con làm gì?" Ðáp: "Con vừa tỉnh thì chợt thấy một người lạ mặt tới nắm lấy tay con kéo dậy, lôi đi!" Hỏi: "Lôi đi đâu?" Ðáp: "Lôi lên trời! Con sợ quá, nhắm mắt lại thì cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, rồi nghe có tiếng gió thổi vù vù bên tai. Vừa rồi, khi hết tiếng gió, con mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường này! Cha ơi! Vị khách đây là ai thế?" Triệu ông đáp: "Là Trương y sư, người vừa chữa bệnh cho con đó! Con hãy nằm nghỉ đi! Mai mốt con khoẻ hẳn, cha sẽ thuật lại mọi chuyện cho con nghe!" Rồi Triệu ông mời Trương Hội trở ra phòng khách.
Bấy giờ Triệu ông mới phục tài chữa bệnh của Trương Hội, coi Trương Hội như một vị thần y, sai gia nhân mở kho lấy vàng, đếm đủ ngàn lạng, cho vào túi lớn, trả công Trương Hội. Trương Hội nhận túi vàng rồi xin cáo biệt. Triệu ông vội giữ lại, nói:"Xin tiên sinh hãy vui lòng ngủ lại đây đêm nay để xem bệnh tình của tiện nữ biến chuyển ra sao!" Trương Hội liền bằng lòng ở lại. Triệu ông bèn sai gia nhân dọn cho Trương Hội một phòng riêng. Trương Hội đem túi vàng về phòng.
Tối ấy, Triệu ông sai gia nhân làm tiệc khoản đãi Trương Hội. Tiệc xong, Trương Hội vừa về tới phòng thì thấy Vương Lan đã ở trong phòng. Thấy Trương Hội, Vương Lan nói:"Một mình anh mà đem túi vàng này về quê thì dọc đường dễ bị cướp lắm. Ðể tôi đem về trước cho. Tôi sẽ chia đôi, trao cho vợ con anh một nửa, vợ con tôi một nửa. Rồi tôi sẽ trở lại đây báo tin anh biết!" Trương Hội gật đầu, nói:"May quá! Tôi cũng đang lo chẳng biết phải làm thế nào để đem được túi vàng này về quê cho an toàn! Nay anh tính thế thì hay quá!" Nói xong, lấy túi vàng ra trao cho Vương Lan. Vương Lan liền đỡ lấy rồi từ giã Trương Hội mà lên đường.
Lát sau, Vương Lan về tới nhà, đánh thức vợ con dậy, chia cho nửa túi vàng rồi dặn sáng sau phải đem nửa túi kia sang trao cho vợ con Trương Hội, nói là của Trương Hội gửi về. Dặn dò xong, Vương Lan lại lên đường tới nhà Triệu ông. Tới nơi, Vương Lan nói với Trương Hội: "Tôi đã chia đều vàng cho vợ con anh và vợ con tôi rồi. Bây giờ anh cứ ở lại đây mà ngủ, tôi đi đây! Sáng mai, ta sẽ gặp nhau ở quán trọ!" Trương Hội gật đầu.
Sáng sau, Trương Hội cáo biệt Triệu ông. Thấy Trương Hội không đem theo túi vàng, Triệu ông nhắc: "Tiên sinh quên túi vàng rồi!" Trương Hội đáp:"Bỉ nhân đã cho gia nhân đem về trước rồi!" Triệu ông lấy làm lạ vì nhớ rằng Trương Hội chỉ tới đây có một mình. Tuy nhiên, Triệu ông cũng chẳng hỏi chi, chỉ lấy thêm ba trăm quan ra biếu Trương Hội làm lộ phí. Trương Hội cám ơn rồi cầm tiền về quán trọ. Dọc đường, Trương Hội gặp Hạ Tài.
Thấy Trương Hội, Hạ Tài mừng quá, vội chạy tới. Trương Hội hỏi:"Mi đi đâu?" Hạ Tài đáp:"Tôi nghe đồn anh vừa được Vương Lan truyền cho thuật chữa bệnh để làm giàu nên tôi lên đây tìm anh để xin chút tiền tiêu!" Trương Hội toan lấy trăm quan ra cho thì chợt có tiếng Vương Lan thì thầm bên tai:"Chỉ cho y mười quan thôi! Rồi đuổi y đi!" Trương Hội bèn nghe lời.
Hạ Tài đem tiền về Lợi Tân rượu chè cờ bạc. Mười ngày sau hết nhẵn, lại lên tỉnh hỏi thăm chỗ ở của Trương Hội. Khi được tin Trương Hội trọ trong quán Yên Ðôn thì trời đã tối nên Hạ Tài đành phải chờ sáng sau.
Ðêm ấy, Vương Lan ghé tai Trương Hội thì thầm:"Thế nào sáng mai thằng Hạ Tài cũng mò tới đây xin tiền. Nó bê tha rượu chè cờ bạc, anh chẳng nên chơi với nó nữa. Anh nên khuyên nó phải chí thú làm ăn rồi cho nó thêm chín chục quan nữa. Nó sẽ vâng dạ anh để lấy tiền, song nó sẽ chẳng nghe lời anh đâu! Nhưng thôi, anh cứ nên làm thế cho trọn tình bằng hữu. Cho nó ít tiền thì anh còn bị họa nhỏ, chứ cho nó nhiều tiền thì anh sẽ bị họa lớn đó!" Trương Hội đáp:"Tôi hiểu rồi!"
Quả nhiên, sáng sau, Hạ Tài lại mò tới. Trương Hội nói:"Tao đã biết trước là thế nào sáng nay mi cũng tới đây xin tiền. Mi cứ bê tha, rượu chè cờ bạc như thế này thì dù có ngàn vàng mi cũng sẽ tiêu hết ngay. Nếu mi thực tâm hối cải thì tao sẽ cho mi thêm chín chục quan nữa để lấy vốn mà làm ăn!" Hạ Tài vâng dạ rối rít. Trương Hội bèn lấy chín chục quan ra cho Hạ Tài.
Hạ Tài lại đem tiền về Lợi Tân, la cà ở các tửu quán, đổ trường. Lính tuần biết Hạ Tài đã sạt nghiệp mà nay lại có tiền vung vãi thì nghi ngờ, bèn bắt giải vào trình quan tể. Quan hỏi Hạ Tài lấy tiền ở đâu ra thì Hạ Tài man khai là tiền của cha mẹ để lại. Quan chẳng tin, sai lính tra khảo. Bị đánh trọng thương, Hạ Tài đành phải khai thực là của Trương Hội cho. Quan bèn bắt Hạ Tài dẫn lính lên quán trọ Yên Ðôn để bắt Trương Hội về huyện đối chất xem lời khai của Hạ Tài có đúng hay không. Thế nhưng, vì bị trọng thương nên mới đi được nửa đường, Hạ Tài đã lăn ra chết. Lính đem xác về trình. Quan liền sai lính đem đi chôn, rồi dẹp vụ án.
Hạ Tài chết, hồn bay lên tỉnh, vào phòng trọ của Trương Hội. Gặp hồn ma của Vương Lan ở trong phòng, Hạ Tài kinh hãi quá, quay mình bỏ chạy. Vương Lan gọi giật lại, nói:"Vì anh chẳng nghe lời bạn nên mới bị uổng tử. Nay đã thành ma thì hãy ở lại đây mà chơi với bạn ít bữa vì chỉ mấy hôm nữa thôi là các anh sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa!" Thấy Vương Lan nói chuyện tử tế với mình, Hạ Tài bèn ở lại.
Tối ấy, Trương Hội đưa tiền nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm mình để thết đãi hồn ma hai bạn. Hạ Tài được dịp ăn uống thỏa thích, nên say sưa bí tỉ, la hét ầm ĩ. Vương Lan nói:"Anh la hét như thế thì chỉ tổ làm hại bạn anh thôi!" Hạ Tài chẳng nghe, cứ tiếp tục la hét. Vương Lan bèn bỏ đi.
Ðêm ấy, quan tuần phương ngự sử dắt lính đi tuần quanh tỉnh. Qua quán trọ Yên Ðôn, thấy có tiếng la hét, quan bèn sai lính vào bắt kẻ làm huyên náo. Lính vào hỏi chủ quán:"Tiếng la hét từ đâu vọng ra đường?" Chủ quán chỉ phòng của Trương Hội. Lính ập vào phòng thì chỉ thấy một mình Trương Hội đang ngồi độc ẩm. Lính liền bắt trói Trương Hội, đem ra trình quan. Ngự sử truyền giải Trương Hội về tỉnh đường, nhốt vào ngục.
Sáng sau, ngự sử đăng đường, cho giải Trương Hội lên, hỏi:"Sao đêm qua mi lại uống rượu say, làm huyên náo cả đường phố?" Trương Hội kinh hãi, đáp:"Bẩm đại quan, đó là hồn ma của bạn tiểu nhân chứ chẳng phải là tiểu nhân!" Hỏi:"Bạn mi tên chi?" Ðáp:"Bẩm đại quan, y tên Hạ Tài!" Hỏi:"Sao mi biết là hồn ma của y la hét?" Ðáp:"Bẩm đại quan, vì đêm qua tiểu nhân có nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm tiểu nhân để thết đãi hồn ma hai người bạn là Hạ Tài và Vương Lan. Hồn Hạ Tài uống rượu say rồi la hét, hồn Vương Lan khuyên thế nào y cũng chẳng nghe!" Ngự sử nổi giận, quát:"Mi chỉ nói toàn chuyện hoang đường! Chính mi la hét chứ ma với quỷ nào!" Rồi ra lệnh cho lính đánh mười roi, nhốt vào ngục.
Tối ấy, khi ngẫm lại lời khai của Trương Hội, ngự sử lại nửa ngờ nửa tin. Nhân gần công đường có đền Linh Quan, nổi tiếng linh thiêng, ngự sử bèn viết một lá thư Gửi Thần Ðền Linh Quan. Trong thư, ngự sử thuật lại lời khai của Trương Hội rồi hỏi:"Trương Hội khai như thế có đúng không?" Sau đó, ngự sử sai lính đem lá thư tới đốt ở lò hương trong đền. Ðêm ấy, ngự sử nằm mộng thấy một người, mình mặc giáp vàng, đầu đội mũ thần, tới nói:"Bản chức là thần đền Linh Quan. Nhận được thư của đại quan nên tới đây để trả lời. Trương Hội khai như thế là đúng. Y vốn có hai người bạn là Vương Lan và Hạ Tài. Vương Lan thì bị quỷ bắt lầm rồi sau đó, nhờ có cơ duyên mà được thành tiên. Y vô can trong vụ la hét đêm qua. Ngày mai, bản chức sẽ phụng mệnh Diêm Vương, trao cho y chức Thanh Ðạo Sứ, bắt y phải lên đường phó nhậm ngay. Hạ Tài mới là kẻ có tội. Tên này khi sống là kẻ vô lại, khi chết chẳng chừa tật xấu, làm huyên náo cả đường phố ở dương gian. Theo lệnh của Diêm Vương, ngày mai y sẽ bị đày đi làm phu vác đá ở núi Thiết Vi. Còn Trương Hội vô tội, xin đại quan tha cho y!" Sáng ra, ngự sử cũng lấy làm lạ về giấc mộng. Bèn đăng đường, truyền lệnh thả cho Trương Hội ra về.
Trương Hội về quán trọ, kiểm lại tiền bạc, thấy vẫn còn đủ hai trăm quan của Triệu ông biếu. Bèn thanh toán tiền phòng, lên đường về quê. Tới nhà, đem một trăm quan sang biếu vợ con Vương Lan.
Hai gia đình Trương Hội và Vương Lan cùng dùng vàng của Triệu ông trả công để làm vốn đi buôn. Sau, trở thành hai gia đình khá giả ở trong làng.



Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Bảy chị em chồn
truyện TIÊU THẤT



Phấn nhị chi hương tập ỷ diên.
Ôn nhu hương diệc hữu tiền duyên.
Tiêu lang vị ẩm tâm tiên túy.
Tụ đắc lăng cân cánh diểu nhiên.

Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có nho sinh họ Từ, tên Kế Trường, có vợ họ Ðiền. Ðiền thị đẹp lắm, đã hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, lại hay chiều chồng và ưa bỡn cợt với chồng. Kế Trường đi thi hương mãi không đậu nên bỏ học, đi làm chủ bạ.
Một buổi sáng mùa hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát nước, Kế Trường đảo mắt kiếm một ngôi nhà để vào xin nước uống thì thấy hai bên đường chỉ toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây. Khi miệng đã khô, Kế Trường mới thấy một biệt thự ở đằng xa. Mừng quá, Kế Trường vội rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão đang ngồi hóng gió ở ngoài cổng. Kế Trường chắp tay vái chào, nói:"Bỉ nhân khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy, nói:"Xin mời lang quân hãy đi theo lão phu!"
Sau khi dẫn Kế Trường vào sảnh đường ngồi, ông lão gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ cho Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin lang quân cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân họ Từ, tên Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.
Lát sau, Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt. Ông lão nói:"Trời tối rồi, khó thấy đường đi, lang quân ở lại đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Ðang bị say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách rồi quay qua nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để lang quân đi nghỉ, song giờ này còn sớm, mời lang quân ngồi đây nói chuyện với lão phu thêm một lát nữa đã!" Kế Trường đành phải ngồi lại.
Tới nửa đêm, đột nhiên ông lão gọi gia nhân lên, sai bày tiệc rượu cho tám thực khách. Kế Trường ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa nửa đêm còn đi bày tiệc rượu, song cũng chẳng dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Lang quân có gia thất chưa?" Kế Trường đáp:"Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng lang quân!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện gì?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê là lão phu đường đột! Nguyên lão phu có bảy con gái, đã gả chồng hết sáu, chỉ còn đứa út năm nay mười sáu. Nay thấy lang quân là người xứng đôi với nó nên lão phu muốn gả nó cho lang quân làm trắc thất, chẳng hay ý lang quân thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Bỗng ông lão sai gia nhân sang hàng xóm mời khách sang dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô Bảy trang điểm và trình với phu nhân đưa cô Bảy ra chào khách.
Lát sau, có bốn lão khách từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là hai tì nữ dìu một nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người. Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Lang quân đây họ Từ, húy Kế Trường. Lão phu vừa quyết định đêm nay làm lễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng lang quân đây! Nửa đêm mà còn đi làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.
Kế Trường say rượu, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, chỉ muốn được đi nằm, nhưng trong tình cảnh ấy, cũng phải miễn cưỡng ngồi vào bàn. Rượu được vài tuần, Kế Trường say quá, chẳng còn kham nổi nên đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại song Kế Trường cương quyết chối từ. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái vào chung phòng. Tì nữ dắt hai người vào căn phòng mới dọn, rồi khép cửa, bỏ đi.
Vào phòng, Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì đến ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp: "Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Ðáp:"Thiếp không có tên!" Hỏi:"Không có tên thì lấy chi mà gọi?" Cười, đáp: "Ai cũng gọi thiếp là cô Bảy vì thiếp là con gái thứ bảy trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nàng ra sao?" Ðáp:"Gia thế thiếp thì nghèo hèn thô lậu, chẳng có gì đáng khoe. Tuy nhiên, nay thiếp đã được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng chẳng đến nỗi làm nhục cho gia thế nhà chồng. Do đó, thiếp thiết tưởng chàng cũng chẳng nên căn vặn nữa!" Kế Trường ngượng quá, chẳng dám hỏi chi thêm. Bỗng cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường hỏi lại:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp: "Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Ðáp:"Vì chàng còn chánh thất ở nhà. Ðại nương hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao chẳng dắt thiếp về chung sống?" Thấy Kế Trường ngần ngại, cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về trước, xin đại nương cho thiếp về ở chung. Nếu đại nương ưng thuận thì xin cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu. Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường vui vầy với Kế Trường. Lát sau, Kế Trường mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy cô Bảy đã biến mất. Kế Trường vội vùng dậy coi thì thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ, trên một đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội chỉnh lại mũ áo rồi ra về.
Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Ðiền thị chẳng tin, rũ ra cười, nói:"Chắc là tại chàng say rượu, ngã xuống đường mà ngủ rồi nằm mơ thấy thế chứ gì?" Tuy nhiên, vì muốn bỡn cợt chồng, Ðiền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm gối chăn mới, rồi ra nói:"Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu mới!" Nói xong, lại rũ ra cười, làm cho Kế Trường cũng phải cười theo.
Tối ấy, cơm nước xong, Ðiền thị muốn bỡn cợt chồng, bèn đến cạnh chồng, nắm tay lôi tới căn phòng mới dọn, rồi mở cửa phòng, lên tiếng hỏi đùa:"Tân giai nhân đã tới đó ư? Còn chờ gì mà chẳng ra dắt tân lang vào ngủ?" Nói xong, lại rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Ðiền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống đất, xỏ chân vào giày, chạy ra phía cửa. Ðiền thị đưa mắt nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang chắp tay vái chào Ðiền thị. Ðiền thị gật đầu chào lại rồi hỏi:"Hiền muội tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Ðiền thị chỉ Kế Trường, nói:"Bây giờ hiền muội cứ giữ lang quân ở lại đây, để ngu tỉ đi lấy rượu vào cho hai người làm lễ hợp cẩn!" rồi bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn cô Bảy thì chỉ che miệng mà cười. Lát sau, Ðiền thị đem rượu vào phòng rồi trở ra. Ðêm ấy, Kế Trường ngủ lại phòng cô Bảy.
Sáng sau, cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi Ðiền thị ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất thì thích lắm, chẳng ngớt lời khen. Từ đó, ba người chung sống hòa thuận, vui vẻ dưới một mái nhà.
Tháng sau. Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, sáu tỉ tỉ của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, lấy chi mà đãi khách?" Ðáp:"Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên họ sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với đại nương tối nay giúp thiếp hâm nóng lại thức ăn một chút mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Ðiền thị vui vẻ nhận lời. Trưa ấy, quả nhiên có người gánh hai thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân nhà rồi bỏ đi. Ðiền thị liền ra lấy, đem vào nhà bếp.
Tối ấy, khi thấy sáu chị tới, cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình rồi giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy cô Cả cũng chỉ chừng bốn mươi trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng mười tám. Cô Sáu có vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì vì mới góa chồng. Ðiền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Ðiền thị lên dự tiệc. Ðiền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng. Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm ĩ. Thấy tiếng ồn ào trên phòng cô Bảy, Ðiền thị bèn chạy lên dòm qua cửa sổ để xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy nhưng tai thì vẫn nghe thấy tiếng cười nói của nhiều người. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn tiễn sáu chị ra về.
Ðiền thị vào phòng cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Ðiền thị cười, hỏi:"Lũ nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi:"Sao nàng biết?" Ðiền thị cười, đáp:"Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" rồi thu dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.
Tiễn khách về rồi, cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được thu dọn, liền hỏi Kế Trường:"Ai dọn dẹp thế này?" Kế Trường đáp:"Chị ấy dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Ðiền thị mà rửa, giục Ðiền thị lên nhà đi nghỉ.
Ðiền thị lên phòng cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì thực là kỳ cục, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm cho một bữa tiệc mà mời khách!" Kế Trường trầm ngâm, chẳng đáp. Lát sau, Ðiền thị nói:"Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng mình.
Tháng sau. Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc, rồi bảo cô Bảy về nhà mời sáu chị sang dự. Ðến tối, Ðiền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng cô Bảy. Lát sau, khách tới. Kế Trường bảo cô Bảy ra mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo chi, song chừa lại bốn bát thức ăn, chẳng đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ, hỏi:"Sao các tỉ tỉ chẳng dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười, đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại bốn món, để phần nhà bếp!"
Trong tiệc, cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường làm cho Kế Trường phải đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em liền đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng hễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Cô nào thì cũng chỉ bị phạt một vài chén, riêng cô Sáu thì bị phạt tới mười hai chén. Vì thế, cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng. Kế Trường chờ mãi chẳng thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy cô Sáu đang nằm ngủ vùi ở xó bếp, tay nắm chặt một chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi áo, rồi trở lên bàn tiệc, nói cô Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho cô ấy ngủ.
Ðêm ấy, bữa tiệc kéo dài tới gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy năm chị lớn đã sửa soạn ra về mà chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, cô Bảy liền chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, song vẫn còn ngái ngủ, chưa chịu ngồi dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu đứng dậy lên nhà trên, cùng năm chị ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi tiễn khách. Ðược lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa. Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy chiếc khăn ra coi thì thấy chiếc khăn đã mất. Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ, nghĩ rằng mình đã đánh rớt chiếc khăn ở dọc đường khi đi tiễn khách nên vội thắp đèn đi tìm, song tìm mãi chẳng thấy. Thấy Kế Trường trở về, vẻ mặt buồn rầu, cô Bảy mỉm cười, hỏi:"Ði đâu về thế?" Kế Trường đáp:"Ði đóng cổng!" Hỏi:"Ði đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Chối:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công vô ích!" Kế Trường kinh hãi quá, đành thú thực:"Ta mê chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói: "Thiếp biết chứ! Nhưng chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Ðáp:"Vì kiếp trước chàng là nho sinh còn chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp chị Sáu thì mê song cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, phải nằm liệt giường, nhờ người báo tin cho chị Sáu biết, xin chị Sáu tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã được toại nguyện. Chị Sáu ưng thuận song cứ chần chờ. Ðến tối, khi chị Sáu tới thì chàng đã thác. Vì thế, chị Sáu chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay chị Sáu để gỡ trộm khăn rồi thì nợ đã hết. Vì thế, hai người khó lòng mà tiến xa hơn được!"
Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc để mời các cô chị của cô Bảy. Thế nhưng lần này, chỉ có năm cô tới còn cô Sáu không tới. Kế Trường nghi là cô Bảy ghen, không cho cô Sáu tới nên rất oán hận cô Bảy. Cô Bảy phân trần:"Thấy chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho chị ấy tới. Thực ra thì tại chị ấy không muốn tới chứ chẳng phải là tại thiếp ghen!" Kế Trường vẫn chẳng tin. Cô Bảy bèn tìm đủ cách cho Kế Trường gặp lại cô Sáu nhưng cô Sáu nhất định chẳng chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.
Tám năm sau.
Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Ðáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng chẳng thể ở lại đây được nữa hay sao?" Ðáp:"Chẳng thể được! Song trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Ðáp:"Việc gặp lại chị Sáu! Trong tám năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại chị Sáu để cho chàng được toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời chị ấy tới đây dự tiệc thì chị ấy có quyền từ chối, song chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng! Xưa nay, nhân định thắng thiên cũng nhiều!" Kế Trường mừng lắm, thuận đi theo cô Bảy.
Chiều ấy, cô Bảy vào chào vĩnh biệt Ðiền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả hai cùng bay bổng lên không trung. Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đang đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Tiêu lão cùng phu nhân khẽ gật đầu đáp lễ rồi bảo cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách. Vào phòng, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay qua nói với Kế Trường:"Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với hiền tế trong tám năm qua, lão thân rất cám ơn hiền tế. Vì lão thân già yếu, chẳng tới nhà hiền tế được lần nào, mong hiền tế hiểu cho!" Sau đó, quay qua bảo gia nhân:"Tối nay, hãy bày tiệc rượu cho năm thực khách!" Gia nhân vâng dạ.
Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường và cô Bảy cùng ngồi vào bàn dự tiệc với mình. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao chẳng thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp: "Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả song sáng nay đứa nào cũng theo chồng về nhà rồi! Chỉ còn con Sáu ở lại đây thôi!" Rồi sai tì nữ vào nhà trong mời cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ cô Sáu ra song chờ mãi chẳng thấy. Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Kế Trường đưa mắt nhìn thì thấy nét mặt cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ chẳng được vui tươi như trước.
Rượu được vài tuần, Tiêu lão và phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại ba người ở bàn tiệc, cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười, nói:"Em thử nghĩ coi! Gần gũi với con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, để làm gì?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho cô Bảy. Ðột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ hai chén rượu ở tay hai người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép hai người phải uống hết. Thấy hai người còn e dè, cô Bảy nói:"Uống hết đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy đứng dậy, đi vào nhà trong.
Thấy trong phòng chỉ còn có cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay cô Sáu. Ðột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng. Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?" Kế Trường còn đang luống cuống thì cô Sáu đã biến mất. Kế Trường buồn bã, ngồi bệt xuống sàn thì bỗng thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất cả, duy chỉ còn mình đang ngồi giữa một bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bàu trời đầy sao.
Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi tới rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy đến. Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ săn kinh hãi, hỏi:"Bằng hữu là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân làm chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về thì bị lạc đường nên phải ngồi tạm xuống chỗ này nghỉ chân!" Bọn thợ săn hỏi:"Tụi tôi đang đuổi theo một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, bằng hữu có thấy không?" Ðáp:"Bỉ nhân chẳng thấy chi cả!" rồi đưa mắt nhìn quanh thì nhận thấy mình đang ngồi cạnh một ngôi cổ mộ thuộc gia đình họ Vu. Bọn thợ săn ra về. Kế Trường buồn bã đứng dậy, về theo. Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe, làm Ðiền thị cũng phải kinh ngạc. Kế Trường thầm mong cô Bảy trở lại một lần song trước sau cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín.


Liêu Trai Chí Dị
Liêu Trai Chí Dị Thần thánh cũng ưa nịnh
truyện HẠ TUYẾT



Hợp hướng nhân gian hưởng đại danh.
Viêm thiên phong tuyết nhất thời tình.
Ngự tai hãn hoạn thành linh sảng.
Kiêu thái hà đa thế tục tình.

Ở Trung quốc thời xưa, dân chúng thường có thói xưng hô siểm nịnh. Vào đời vua Khang Hy triều Thanh, dân chúng quen gọi các cử nhân bằng Gia, các tiến sĩ bằng Lão Gia, các triều quan bằng Ðại Lão Gia.
Giữa mùa hè năm đinh hợi (1707), niên hiệu Khang Hy thứ 46, ngày 3 tháng 6, phủ Quy Ðức, tỉnh Hà Nam bị bão tuyết. Tuyết xuống dày hơn hai gang tay, lúa má ngoài đồng đều bị hủy hoại.
Ðến ngày mồng 6 tháng 7, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô cũng bị bão tuyết. Dân chúng kinh hãi lắm, rủ nhau tới đền thờ Ðại Vương cầu khấn. Họ khấn Ðại Vương bằng hai tiếng Lão Gia. Bỗng họ thấy Ðại Vương nhập vào một người, nói:"Thời nay, người đời quen khấn thần thánh bằng ba tiếng Ðại Lão Gia, thay vì bằng hai tiếng Lão Gia như trước. Chắc các ngươi cho rằng ta chỉ là một tiểu thần nên chẳng thèm khấn thêm tiếng Ðại ở đằng trước chứ gì?" Dân chúng kinh hãi quá, vội khấn Ðại Vương bằng ba tiếng Ðại Lão Gia. Bão tuyết liền ngưng.
Câu truyện trên đây hàm ý thần thánh cũng ưa nịnh như người đời. Nếu đúng thế thì đáng tiếc cho dân chúng phủ Quy Ðức đã chẳng biết dùng ba tiếng Ðại Lão Gia mà khấn thần thánh để cứu cho mùa màng khỏi bị thiệt hại.

1 nhận xét: