Khảo về tiểu thuyết (1)
|
Tự
ngôn
Người
ta vẫn thường bảo: nghề báo cũng như nghề tiểu thuyết là nghề không trường,
không thầy.
Câu
nói ấy đúng, nhưng chỉ đúng với trước kia thôi. Hiện nay, ở Pháp và các nước
Âu châu có những trường đã mở những lớp dạy làm tiểu thuyết, dạy theo lối
chính thức hay dạy theo lối hàm thụ. Ngoài ra, lại còn những nhà văn, nhà báo
và giáo sư viết ra những cuốn sách nói về tiểu thuyết, giải thích thế nào là
tiểu thuyết dở, tiểu thuyết hay và bàn về những luận đề, kết cấu những cuốn
tiểu thuyết có tiếng để người sau bắt chước.
Những
trường, những thầy dạy tiểu thuyết đó xuất hiện nhiều sau thời kỳ chiến tranh
thứ nhì.
Tôi
rất lấy làm tiếc rằng, hồi 1941, là lúc viết cuốn “Khảo về tiểu thuyết” mà
các bạn đọc đây, tôi không có những cuốn sách đó ở bên cạnh để khảo thêm cho
đầy đủ hơn.
Tuy
vậy, đối với nước ta mà văn tiểu thuyết hãy còn đang ở trong thời kỳ sơ phát,
tôi thiết nghĩ rằng một cuốn sách nói về tiểu thuyết như cuốn này, nếu không
có ích lợi hẳn thì ít ra cũng đem đến được cho người đọc một chút quan niệm
về tiểu thuyết.
Trong
chương trình trung học của ta, có một chương phải học về tiểu thuyết. Thật
đáng tiếc là từ khi tôi viết cuốn này, chưa có vị nào mang kiến thức ra viết
nên một cuốn đầy đủ hơn khả dĩ ghi lại được bước đường tiến triển của loại
văn tiểu thuyết từ 1941 cho đến bây giờ. Vì thế, tôi cứ mạo muội để nhà “P.
VĂN TƯƠI” xuất bản, hy vọng rằng những tài liệu, nhận xét, kinh nghiệm mà tôi
thâu lượm được sẽ giúp ích cho các bạn được phần nào; sau nữa, để các bậc
thức giả phủ chính, và do đấy sẽ có nhiều cuốn khác ra đời, hầu đem lại cho
làng văn nghệ nước nhà những khích thích tố mới để tiến mau và tiến mạnh.
Hải Phòng, ngày 25-12-1954
Tác giả
Chương
I: Mới! Mới luôn luôn!
Một
số người lạc quan ở đây thường viết trên mục văn chương các báo hàng ngày
rằng phong trào văn chương của nước ta ngày nay cực tiến, không khác hồi
Thịnh Đường, nhất là phong trào tiểu thuyết thì lại càng tốt đẹp.
Tôi
không thể kể hết những lý lẽ họ đã viện ra để bảo đảm cho câu nói, nhưng tôi
còn nhớ có một ông đã lên tiếng ví truyện của ta bây giờ với truyện Pháp hồi
đệ nhị đế chính, và nói riêng từng quyển một thì không ngại đem sánh một
truyện X. Y. Z. của ta với một quyển La pitié dangereuse của Stefan
Zweig, với một quyển La peau de Chagrin của Balzac hay
một quyển Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Sự ví
von sôi nổi đó biểu thị một khối óc thiết tha với văn chương kèm một tấm lòng
yêu nước yêu nòi. Nhưng ta không vì thế mà cứ phải chịu rằng câu nói kia là
đúng để làm lầm lỡ bao nhiêu ngàn độc giả. Mà biết đâu ở nước ta lại chẳng có
những văn sĩ, vì câu nói đó, đi tưởng rằng mình đã là một Balzac, một
Bồ Tùng Linh, một Stefan Zweig thật, mà không thèm học hỏi
hay rèn giũa văn chương nữa, để phí uổng cả tài đi. Vậy bổn phận của chúng
ta, trong lúc đang học tập này, là phải dám nghĩ thực, và nói thực, nói thực
mà không quá, bởi vì sự quá độ bao giờ cũng là một sự bất công.
Nếu
tôi được phép nói thực tất cả những điều tôi nghĩ về những truyện của ta bây
giờ, tôi sẽ nhận ngay rằng văn chương của nước ta hiện nay quả đã bước sang
một thời kỳ mới, tốt đẹp mà hứa hẹn nhiều, nhất là về tiểu thuyết - tuy rằng
khoảng một năm nay những sách khảo cứu đã cản bước tiến của nó đi đôi chút.
Dù sao, tiểu thuyết cũng vẫn có tương lai hơn hết. Nói thế không phải là bảo
rằng tất cả những truyện bây giờ đều mới cả, đều hay cả bởi vì bán chạy cả
đâu. Không, sách chạy là một việc mà hay lại là một việc. Cứ chỗ tôi thấy thì
truyện hay ở nước ta vẫn hãy còn hiếm; thường thường vẫn thấy, thì là những
truyện không đến nỗi dở quá, như mươi năm trước, nhưng hay thì chả có cái gì
khả dĩ gọi là hay được. Đó chỉ là những cuốn truyện để cho những độc giả nhũn
nhặn đọc khi tửu hậu trà dư, những truyện đọc tiêu khiển, kết cấu đã cũ, tâm
lý lại cũ hơn; còn nếu kể về phương diện thuyết lý, luân lý hay tâm lý thì
thật không có một tí gì đáng nói. Mà điều chúng ta cần có, phải có hiện nay
thì là những truyện mới, không phải mới vì dùng văn mới hay tìm tòi được ít
danh từ mới vì lập dị, nhưng mới về tư tưởng, về chủ đề, về học lý, về cách
trình bày nhân vật và về cả cách hành văn và kết cấu.
Ta
thử giở mười quyển truyện xuất bản mới đây ra mà xem và ta có thể chắc chắn
trước khi đọc rằng ít ra trong mười quyển đó có chín quyển nói về tình mà
không phải là những trường hợp tình ái khác nhau đâu. Hầu hết đều là những
truyện tình ngây thơ, dớ dẩn mà từ khi có văn chương, giống người ở trên mặt
đất này đã viết mấy muôn lần rồi; duy muốn làm cho khác đi, người ta đặt
chúng vào những cái khung cảnh Việt Nam để cho có mầu sắc quê hương một chút.
Ngoài ra, văn quyển nào cũng từa tựa như quyển nào, có khác là nhà văn này
viết nhẹ hơn, nhà văn kia viết nặng hơn, nhà văn này viết ủy mị hơn, nhà văn
kia viết hùng hồn hơn, nhà văn này tả cảnh dài hơn, nhà văn kia cho những
nhân vật trong truyện nói ít hơn, nhà văn này cho truyện của mình hoạt động ở
ngoài tỉnh để tả con gái, con trai Hà thành nhiều hơn, nhà văn kia vì có ở
nhà quê một tháng, cho truyện của mình xảy ra ở nhà quê để tả về trời nắng và
trời mưa ở nhà quê nhiều hơn. Ấy, truyện bây giờ phần nhiều chỉ khác nhau có
thế. Ngoài ra, người ta lười nghĩ lắm, chả tìm ra được điều gì mới cả - nói
cả về văn nữa: hễ nói đến trai gái yêu nhau thì gọi bằng tên thật rồi dùng
rất nhiều chữ “cảm thấy” để cho có vẻ lãng mạn; nói đến tiễn biệt thì không
quên tả một con sông và mấy cây chẩu đứng buồn rầu ở dưới bóng chiều vàng;
còn như tả về thợ thuyền và người nghèo, tôi dám cam đoan với các bạn rằng
cái gì đen tối nhất, chán nản nhất, sầu khổ nhất thì họ cho vào - dù là họ tả
một gia đình thợ thuyền buôn bán đầu cơ ăn tiêu huy hoắc hơn một ông phú hộ.
Những
lối hành văn theo khuôn sáo đó, mà ông Albéric Cahuet nhạo báng một
cách lịch sự là “những lối văn nhai lại cho hợp thời” (les répétions
conventionnelles), văn giới Pháp đã đả đảo sau hồi chiến tranh
1914-1918. Cánh cửa văn đàn mở rộng ra, và ta đã thấy văn nhân Pháp làm việc
cho một chủ nghĩa lãng mạn mới khác hẳn Victor Hugo, Lamartine, Vigny(1): chủ nghĩa lãng mạn của Gide, đi tìm, luôn luôn đi tìm
cái toàn chân toàn mỹ, toàn thiện mà điều cần nhất là phải thực, thực với
mình trước đã. Làng tiểu thuyết của Pháp lúc đó mới thật là bước vào kỷ
nguyên mới hẳn. Các tiểu thuyết gia, thôi không còn bỏ sót một phương diện gì
của người, của đời mà không đem vào làm tài liệu cho những truyện của mình
soạn ra. Họ khổ công tìm những cái mới đem viết ra giấy để làm vui, buồn,
thương, giận những người ở tản mát trong bốn phương trời. Những truyện về
chiến tranh xuất bản có hàng ngàn cuốn, mà mỗi cuốn viết riêng về một phương
diện của chiến tranh; đã đành có cuốn cực hay, có cuốn tầm thường và cũng có
cuốn dở hoàn toàn nữa, nhưng ít ra một ngàn cuốn đó cũng đã đem đến cho làng
tiểu thuyết Pháp một nguồn sống mới, một làn gió mới. Đến khi thấy rằng
truyện nói về chiến tranh không còn được công chúng ưa chuộng mấy - không
những ở Pháp mà còn ở khắp cả thế giới nữa - đến khi đã thấy rằng người đọc
đã ngấy chán, no nê món ăn đó rồi, lại có sự đổi thay luôn. Những truyện về
cách mệnh hay cuộc di dân Nga đều chịu chung một số phận như thế cả. Văn nhân
Pháp viết truyện về đủ các đầu đề: tàu bay, tàu lặn, thám hiểm, du lịch, do
thám, chính trị, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, tất cả những cái gì thuộc về
khí nguyên thuyết, nói tóm lại từ trên trời xuống dưới đất không có điều gì
mà người ta không nói, không làm thành truyện. Ông Kessel và bà
Hélène Iswosky, trong cuốn Les Rois Aveugles lại tưởng tượng ra
cả một cuộc hội hiệp của thế giới, một cuộc tan rã của một triều đại, một xã
hội, và được thế giới hoan nghênh lạ lùng. Còn một thứ truyện nữa mà độc giả
hoan nghênh không kém, là truyện viết theo lối hồi ký mà ở trong đó
tác giả thuật lại những quãng đời ly kỳ hay nguy hiểm, có thực mà ra vẻ bất
kinh của chính họ đã sống và đã trải. Những truyện này được hoan nghênh thực
là xứng đáng bởi vì những sách đó đã làm rộng phạm vi cảm giác, ấn tượng,
mộng tưởng và thị lực của người ta nhiều lắm. Về loại này, ta có thể kể ra
làm ví dụ cuốn Maria Chapdelaine của Louis Hémon, những
truyện của Louis Frédéric Rouquette và những truyện của Pierre
Mac Orlan, đưa ta đi từ những xứ cách mệnh có nàng Elsa cưỡi
ngựa đến một thành phố rất “Mỹ” có tên là phố Rhum.
Trong
khi đó, một lớp nhà văn khác hết sức tưởng tượng để làm thỏa mãn một ức một
triệu sức tưởng tượng khác: Koenigsmark, Atlantide đến bây giờ xem
vẫn còn thú vô cùng; Kessel viết về tàu bay; Duhamel phản
đối máy móc; Mauriac và Bourget viết về truyện gia đình; Maurice
Larrouy với một sức tưởng tượng bao la, viết về bể với thủy quân Pháp;
còn Paul Chack, tác giả cuốn On se bat sur mer, khác hẳn,
cũng tả về bể nhưng cho ta thấy một cuộc mạo hiểm có chính trị và ái tình rất
lưu luyến, say sưa.
Thử
hỏi làng tiểu thuyết Pháp được tốt đẹp phồn thịnh như thế là tại đâu? Như
trên kia đã nói, sở dĩ tiểu thuyết Pháp được như thế, là vì những nhà viết
truyện luôn luôn nỗ lực làm việc và đi tìm cái mới cùng cái lạ để cho dải
rừng văn của họ đã tốt đẹp, rườm rà lại rườm rà, tốt đẹp hơn. Sau nữa, một
phần sự phồn thịnh đó cũng là do ảnh hưởng của các tuần báo, nguyệt báo văn
chương hết sức khuyến khích và cộng sự với các nhà viết truyện. Những học
giả, những nhà khảo cứu, những nhà xuất bản (kiểu như ông Bernard
Grasset), những ông hàn lâm và những nhà triết học, ngoài công việc tìm
tòi, thường băn khoăn đi kiếm những cái mới lạ để giúp ý kiến cho các nhà
viết truyện; khi thì bàn về cái hay cái dở của lãng mạn chủ nghĩa, tự nhiên
chủ nghĩa, tả chân chủ nghĩa, tượng trưng chủ nghĩa; khi lại nói rõ cho những
nhà viết truyện biết những kỹ thuật mới trong làng tiểu thuyết ngoại quốc để
lấy làm gương; khi thì tìm những vấn đề mới lạ đem nói ra để giúp thêm trí
tưởng tượng cho những nhà viết truyện. Thêm vào đó, những nhà phê bình, nhiều
lương tâm nhà nghề hơn là bụng ghét ghen tiểu kỷ, hết sức làm việc khuyến
khích những nhà viết truyện để cho họ gắng chí mà làm việc cho văn chương,
sản xuất những truyện sẽ làm rạng rỡ cái danh tiếng văn học của một nước đã
có tiếng là văn học.
Chương
I: Viết truyện gì?
Muốn
yêu nước thế nào thì yêu, ta cũng phải nhận rằng cái cảnh kề vai sát cánh đó,
cái cảnh nhà học giả, khảo cứu cộng sự với những nhà viết truyện để làm cho
văn tiểu thuyết tiến lên, tiến mãi lên, ở nước ta hầu như không thấy. Lúc
bình thì, những tờ báo được nhiều người đọc đến thì đi pha trò và tỉa tót văn
người ta ra mà chửi bới (thảng hoặc cũng có đôi ba tờ báo bàn đến văn chương
nghĩa lý thì lại chết vì không có ai đọc cả!). Còn vào lúc này là lúc người
đọc biết tìm những điều có ích lợi mà xem thì các ông học giả, khảo cứu lại
đổ xô nhau mà dịch sách Tàu, dịch bất cần phương pháp, dịch không có một
chương trình nào, dịch không phân biệt nên dịch loại nào trước loại nào sau;
thậm chí có khi một quyển Lão Tử, Mặc Tử chẳng hạn có ba
nhà xuất bản phát hành luôn trong một tháng! Đáng buồn nhất là những người
tây học cũng ùa vào để dịch sách Tàu (họ gọi là khảo cứu) trong khi người ta
trông đợi ở họ viết ra những điều họ đã học được ở Pháp, ở Anh, ở Bỉ, ở Nga
hay ở Đức. Nước ta, lúc này hơn hết cả lúc nào, thiếu hẳn người làm việc, vậy
bổn phận cấp bách của chúng ta là phải chia việc ra mà làm. Việc dịch sách
Tàu, nên để cho các nhà nho; nhưng cái cần của sự dịch sách Âu tây cũng khẩn
cấp không kém, ta còn trông vào ai được nữa, ngoài các ông tây học? Nhưng, dù
là dịch sách Hán hay dịch sách Âu, dù là biên những vấn đề thuộc văn minh cũ
hay biên những vấn đề thuộc văn minh mới, ta cũng phải có phương pháp rõ rệt
để làm việc, đại khái như Thương vụ Ấn thư quán, Duy Tân thư xã của
Tàu, hay Hachette, Grasset của Pháp. Ta phải chia nhau làm việc cho đủ hết
các ngành văn chương chứ không nên vì độc giả bây giờ ưa văn dịch - đó là
điều chưa chắc độc giả ta đã ưa thực, hay chỉ là theo phong trào - mà chỉ
nghĩ đến có mỗi một loại sách khảo cứu (!) còn bỏ bê loại văn sáng tác đó, không
trau dồi gì cả. Nói cho thực, những nhà viết truyện của ta hiện giờ, làm ra
được một cuốn tiểu thuyết, thật là vì tài riêng thì nhiều, chứ kể về học hỏi
thì thật ít, thành tiểu thuyết cứ đứng đấy hay tiến chậm, chứ không có sự
phồn thịnh tinh thần mà nhiều người ao ước. Ở các nước văn minh như Mỹ, có
trường đào luyện học sinh trong 6 tháng có 300 người viết tiểu thuyết bán cho
thiên hạ. Ở Pháp, như trên kia đã nói, những người từng trải, học nhiều, viết
báo viết sách để giúp ý kiến cho những nhà viết truyện đến sau; còn ở nước
ta, thật hoàn toàn không có gì, toàn là học theo lối bắt chước cả, kiểu như
những người thợ không học trường chuyên môn một ngày nào mà cũng chữa được
máy móc và chế được ra máy móc. Muốn cho thực đúng, ta phải nhận rằng nước ta
cũng có lắm người tài nhưng tiếc rằng cái tài đó không có cái học giúp cho
nên chỉ đến một trình độ nào đó, chứ không thể tiến hơn lên được.
Về
loại văn tiểu thuyết cũng vậy. Người viết truyện không có trường, không có
thầy mà văn tiểu thuyết của ta được đến địa vị ngày nay kể đã là một sự đáng
mừng. Duy chỉ đáng phàn nàn văn tiểu thuyết của ta bắt chước của Âu, mà những
người theo Âu tây chưa từng có viết qua một quyển sách nào nói về tiểu thuyết
để cho những người học cũ biết qua cái loại văn mới đó và giúp những người
viết truyện ít học hay không có sách Tây đọc biết thế nào là một quyển tiểu
thuyết, kết cấu của một cuốn tiểu thuyết, nhân vật trong một cuốn tiểu
thuyết. Tôi không quên cuốn Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh trong
Nam Phong tùng thư, xuất bản vào khoảng mươi lăm năm trước. Nhưng đó
là một cuốn sách lược khảo, một quyển nhập môn có dạy người ta cách làm tiểu
thuyết thực, nhưng không kỹ, bởi vì nó có tính cách nói chung, người đọc vẫn
không thấy sự khác nhau trong cách viết truyện dài, truyện ngắn ra sao cả.
Ngay đến câu định nghĩa của chữ tiểu thuyết cũng không rõ nữa.
Nhưng
nói thế không phải bảo rằng cuốn “Khảo về tiểu thuyết” trong Nam Phong
tùng thư không có giá trị đâu. Trái lại. Nhưng giá trị của nó chỉ hợp vào cái
thời 1911-1930 là cùng, riêng thích dụng cho những người mới bước vào làng
tiểu thuyết. Từ đó đến nay, xã hội, kinh tế, chính trị đã bao lần đổi thay
rồi, những nhà văn như Bourget, François Porché, Loti đã già để cho
một lớp J. J. Tharaud, Duhamel Henri Troyat, St. Exupéry lên thay;
văn tiểu thuyết vì vậy cũng có nhiều sự thay đổi mới lạ mà ta cần biết.
Những
điều mới lạ đó, ta cần phải nói ra, phải viết ra cho mọi người được biết.
Quyển Khảo về tiểu thuyết thứ hai, thứ ba chưa có, đó là lỗi ở các
nhà học giả, ở các nhà khảo cứu tân học vậy. Ta nên mong cho người ta bớt một
quyển Lão Tử, Mặc Tử - bởi có ba nhà xuất bản dịch một cuốn
sách - hay Thiên phương dạ đàm, Tây sương ký đi chẳng hạn,
để lấy giấy đó mà in một quyển sách mới nói về tiểu thuyết, tiếp theo quyển
của ông Phạm Quỳnh, trong khi bao nhiêu người trẻ tuổi ở nước ta, sách Tây
không có đọc, báo chí đứng đắn thì nói chuyện đâu đâu, chờ mong có người rọi
cho họ một tí ánh sáng, một tí phương pháp, một tí ý kiến mới hơn về tiểu
thuyết.
Ta
không thể tưởng tượng được một cuốn sách như thế, ra đời vào lúc này có ích
biết chừng nào. Không những các nhà tiểu thuyết tự phụ viết theo Tchékov,
Dostoievsky, hay ngang với Mauriac, Gide, thấy sự khó khăn của
nghề viết truyện, sẽ dịu dần tâm tính đi; mà những người mới viết, đương ngơ
ngác trước cuộc đời ngơ ngác, cũng hiểu hơn một chút về tiểu thuyết mà không
nhẫn tâm viết bậy bạ quá nữa, bừa bãi quá nữa, và do đó, sao ta không dám hy
vọng rằng chả bao lâu văn tiểu thuyết của ta cũng sẽ có một địa vị trên văn
đàn thế giới?
Cái ngày
đó hãy còn xa, đừng trông lắm. Ta hãy nhìn vào hiện tại. Hiện tại, ta nên
viết những truyện gì? Viết hết cả. Truyện tình, truyện xã hội, truyện mỹ
thuật, truyện hoang đường, truyện mạo hiểm, truyện lịch sử (nước ta chưa có
mấy người lấy những văn nhân danh tiếng ra viết thành tiểu thuyết), truyện
viết theo thể dự liệu, truyện ma quái, v.v… Nghề văn hấp dẫn người ta, một
phần cũng vì người làm nghề được tự do viết những điều mình thích, viết bất
cứ cái gì mình nghĩ; nhưng ta cũng nên tự chúng ta hạn chế cái tự do của
chúng ta, chúng ta nên viết theo phương pháp và tùy cái sức của chúng ta.
Theo
sự xét nhận của ông André Maurois, hầu hết các nhà văn Pháp - kể cả
ông nữa - đều có thử viết về khí nguyên thuyết (Genèse) cả, nhưng
rồi kết cục ông nào cũng bỏ. Emile Zola viết được tám câu mà ông Maurois
thì được ngót trăm trang giấy… rồi thôi. Đó là một bài học cho ta vậy. Những
vấn đề to quá, bây giờ chưa phải là lúc chúng ta nói tới; mà chúng ta cũng
chưa cần phải vượt sông, vượt núi đi mạo hiểm sang đảo Salapagos, lên Bắc
Băng Dương hay trèo lên đỉnh Hi Mã Lạp Sơn để viết truyện làm gì vội. Theo
trí nghĩ hẹp hỏi của tôi, nhà viết truyện bây giờ hãy cứ nên bắt chước một
lớp văn sĩ trẻ ở Pháp: không cần phải rời đất Pháp mới viết được truyện mới.
“Cứ
để tâm mà khám phá, mà học hỏi những tỉnh nhỏ rất lạ lùng, rất khác nhau ở
nước ta, cũng đủ rồi. Cái nguyên khí quê hương trong những truyện nói về đất
cát và làng mạc há chẳng phải là một thứ máu giàu nhất mà bao giờ người ta
cũng có thể dùng để cải lão hoàn đồng tiểu thuyết của nước mình đó ru? Tả một
cảnh trời thay đổi luôn luôn, không có gì là chán cả(1).
Vậy,
chúng ta hãy cứ tạm viết về nước ta thôi, về nhà quê, về tỉnh nhỏ, về phong
tục, về rừng núi, về Mán, Mọi, Thổ, Hời… về tất cả cái gì thuộc về nước ta,
về sự lên cao hay xuống thấp của tinh thần dân ta. Ai muốn viết thế nào thì
viết, muốn viết lối truyện gì thì viết, nhưng cái gì người khác đã viết rồi
thì đừng viết, đã nói rồi thì đừng nói, đã làm rồi thì đừng làm. Ta phải tỏ
ra đặc biệt. “Bạn ơi, cái gì mà một người khác có thể làm tốt đẹp như bạn,
bạn đừng làm. Cái gì mà một người khác cũng có thể nói hay như bạn, bạn đừng
nói. Chỉ nên giữ lấy cái gì mà bạn cảm giác rằng ngoài bạn không có đâu có
cả, và nhẫn nhục hay sôi nổi, bạn phải tạo mình thành một người, là một người
không ai có thể thay thế được(2).
Câu
nói đó của Gide nói chung về đời, về chân lý, ta có thể mượn tạm và
thu hẹp lại để đem ứng dụng vào văn chương, văn tiểu thuyết: “Nathanl! Bạn
ơi, hãy quăng sách của ta đi, đừng cho thế là tự túc. Chớ nên tưởng rằng một
người khác có thể tìm chân lý cho ta; hơn thế, bạn phải lấy việc đó làm xấu
hổ. Nếu ta tìm đồ ăn cho bạn, bạn sẽ không đói để ăn thức ăn của ta, nếu ta
giải giường cho bạn, bạn sẽ không buồn ngủ để ngủ trên giường của ta(3).
Vậy
những nhà tiểu thuyết của ta sẽ không nhàm sáo và sẽ chỉ tạm nói về những cái
gì thuộc về nước ta thôi. Đợi khi tay cầm bút của ta đã vững, kinh nghiệm,
lịch duyệt đã nhiều - mà việc đó cũng chả lâu đâu - sẽ viết những truyện cao
xa, những truyện rộng lớn cũng chưa lấy gì làm muộn. Ta hãy bắt đầu viết
truyện “một người” đàn ông, “một người” đàn bà đã rồi hãy viết truyện “Người”
đàn ông và “Người” đàn bà(1).
Tôi
cũng nhận như các bạn rằng thời đại chúng ta đương sống không có đủ sức quyến
rũ để cho chúng ta ép mãi trí óc và mộng tưởng vào một chỗ, không cho bay
bổng ra ngoài “biên giới”. Rồi một ngày kia chúng ta sẽ viết truyện xứ Tàu,
xứ Ấn Độ, Cao Ly, và chúng ta sẽ viết cả những truyện dự liệu (romans
d’anticipation) kiểu Voyage dans la lune của Jules Verne, Nouveau
Déluge và Nouvel Adam của nữ sĩ Nol le Roger; nhưng
thời kỳ đó, chỉ mới sắp đến mà thôi, bây giờ ta hãy viết truyện ta nhìn thấy
và ta cảm giác. Những truyện đó, các văn nhân nên viết theo lối văn minh sở
trường, chứ không nên lấy cớ rằng bây giờ có phong trào tiểu thuyết xã hội
mạnh thì mình, một nhà văn truyện tình, phải bỏ truyện tình mà viết truyện xã
hội đâu; cũng thế, ta không nên lấy cớ rằng hiện giờ những truyện nói về nước
Việt Nam cũ được hoan nghênh mà đổ xô đi viết truyện về nước Việt Nam cũ,
cũng như ta không nên thấy một người kia nổi tiếng vì viết tự sự mà cũng bỏ
lối văn sở trường của mình để viết truyện tự sự như người ta vậy.
Đi
theo người, không bao giờ được bằng người. Thảng hoặc có ra chăng nữa, thì
việc đó cũng biểu thị một tinh thần kém cỏi. Chúng ta phải có cái tự phụ rằng
nếu ta gắng sức thì rừng văn nước nhà mới đẹp, mới phồn thịnh, mới không chán
mắt, có cây sến, có cả cây leo, có cây gỗ trò, có cả bìm bìm dại, có cây núc
nác, có cả vàng tâm nữa. Rừng có một nghìn một vạn cái cây, mỗi cây ức có
triệu cái lá mà có hai cái cây, hai cái lá nào giống nhau bao giờ!
Vậy,
những nhà tiểu thuyết của ta sẽ sống mạnh mẽ như cây như lá vậy, nghĩa là
không người nào giống người nào, viết không sách nào giống sách nào, và nhất
là sẽ viết đủ hết các thứ truyện: thám hiểm, mạo hiểm, trinh thám, luân lý,
luận đề, dự liệu, bởi thứ nào cũng có ích, cũng có thể hay được cả.
Chương
III: Truyện “Quái đản bất kinh”
Nhưng
đó chỉ là mới nói về cái thể văn tiểu thuyết mà thôi. Còn tiểu thuyết chia
làm mấy loại? Ta cũng nên tìm biết. Người mình thường không phân biệt chữ thể
văn tiểu thuyết với loại văn tiểu thuyết.
Theo
tôi, có hơn một chục thể văn tiểu thuyết khác nhau, nhưng kể về loại thì tiểu
thuyết chỉ có hai loại: một loại truyện làm cho ta quên cõi đời này đi
có thể gọi là truyện “quái đản bất kinh”, và một loại truyện giảng cho ta
cõi đời này ra thế nào, có thể gọi là truyện “gần đời thiết thực”.
Vậy
truyện quái đản bất kinh là thế nào? Không phải lấy thí dụ đâu xa, ta cứ ngẫm
vào ta thì biết. Còn ai ở trong bọn chúng ta, từ bé cho đến lúc trưởng thành
lại không đọc ít ra mươi bộ truyện Tàu diễn nghĩa như Phong thần, Tây
du, Phong kiếm, La Thông, Bắc Du Trấn Võ, Thủy
Hử, Bát Tiên quá hải. Chúng tôi đã bỏ ăn bỏ uống để xem cho hết
đoạn Tôn Tẫn giở phép ra đánh với Bàng Quyên, Đại Thánh phá lò bát quái của
lão quân Thái Thượng hay Hoàng Phi Hổ phản Trụ đầu Chu, bắt Trụ Vương thiêu
mình. Chúng ta đem những truyện đó cả vào trong lớp học và há chẳng có bao
nhiêu người ở trong ký túc xá nghĩ đủ trăm mưu nghìn kế đánh lừa các viên
giám thị để đốt nến lên xem cho hết một cuốn truyện diễn nghĩa đó ru? Ai mà
không nóng ruột muốn biết Tôn Hành Giả rút một cái lông đuôi biến ra một
nghìn Tôn Hành Giả đánh nhau với yêu ở xóm Cao Lão thì ai được ai thua, Sử quận
chúa ra mặt tại lôi đài bị Trương Giác chọc khuấy thì về sau ra thế nào, và
Võ Tòng đánh nhau với con hổ đực đâm ba cái chết thì về sau con hổ cái có ra
trả thù cho chồng, cắn chết Võ Tòng hay không. Có một dạo, có người đề xướng
lên rằng những truyện kỳ hiệp, quái hiệp đó vô bổ vô cùng, rất nên đả đảo. Họ
miệt thị đó là những truyện để cho đàn bà, con trẻ đọc, nhưng thực ra thì có
thế đâu! Chúng ta đã biết rằng những người có học, đều mê những truyện đó cả,
mà họ mê như thế cũng không có gì là lạ. Những truyện diễn nghĩa đó, chẳng
qua cũng như những thơ anh hùng ca (poèmes épiques) của nước Pháp mà thôi,
những truyện mã thượng (romans de chevalerie) có yêu quái, quỷ sứ, người
khổng lồ và tiên ông có phép, khả dĩ làm cho người xem phải hồi hộp lo âu, và
gây trường hợp quái đản bất kinh để đánh vào một cái trí tưởng tượng dù là
chậm chạp nhất, ngang bướng nhất.
Tiểu
thuyết nguyên sinh ra vì có một mục đích đó mà thôi. Người xem không cần biết
đó là thực hay giả, người xem chỉ cần trong giây lát, quên cái cõi đời ô trọc
này đi để nhẩy lên trời vào thăm điện Ngọc hoàng Thượng đế hay hòa mình vào
với Lý Quảng, giả tảng uống rượu say để thử chòng ghẹo xem Sở Vân là con trai
hay con gái…
Về
sau này, muốn cho thích hợp với cuộc đời khoa học hơn, người ta rút phép đi,
làm những truyện mới nhưng cũng không ngoài mục đích làm cho độc giả quên
đời, quên cuộc đời của họ. Cuộc đời họ bẩn lắm thì họ đi tìm cái thanh cao ở
trong tiểu thuyết; tâm hồn họ hèn nhát lắm thì họ đi tìm cái quân tử, chí khí
ở trong các vai tiểu thuyết. Vậy ta cũng không nên lấy làm lạ tại sao có nhà
tiểu thuyết ở nước ta viết toàn truyện hùng, không thiết thực tí nào, “muốn
tỏ mình gan dạ không ngại thiến một bộ phận cần yếu trong người đi, đốt hàng
vạn tờ giấy bạc, cưỡi ngựa bắn một ngàn phát súng lục trúng cả”… Có nhà tiểu
thuyết ở nước ta viết hoang đường, bất kinh như thế mà sao một dạo cũng có
người xô nhau đọc!
Sự
hoan nghênh đó chỉ là một lẽ rất thường. Bao giờ cũng thế, độc giả tiểu
thuyết cũng chỉ cần người viết truyện tiêu khiển mình, làm cho mình quên mình
đi, bằng một câu truyện hay là một loạt trường hợp khác khả dĩ làm cho mình
thích thú, lãng quên, nói tóm lại là làm cho mình say sưa. Thơ anh hùng ca,
hát bội, tiểu thuyết Tàu hay tiểu thuyết hoang đường của ta bây giờ, cũng như
chiếu bóng, chính là đền đáp sự nhu cầu đó.
Ta
cũng không thể nói quyết như một số nhà phê bình ở đây rằng những truyện như
thế là dở và sẽ không trường cửu. Chứng cớ là những truyện Tây du, Phong
thần bao giờ cũng vẫn có người đọc như thường. Mà biết đâu đấy, trong số
những truyện hoang đường bây giờ lại chả có một vài quyển “đi xe ô tô lên Tam
Đảo giết nhau, sang Cao Miên bắn ba phát trúng ba con… hổ”, lại chả được
truyền đến đời sau!
Có
điều là những truyện đó, nếu làm được cho một số người ham thích, thì cũng đã
làm cho một số người khinh khi, ghét bỏ vô cùng. Từ thế kỷ thứ XIX, ở Pháp,
nổi lên một cuộc cách mệnh của văn phái tả chân hô hào đả đảo những truyện
quái đản bất kinh nọ và định đem một thứ truyện khác thay thế vào: truyện gần
đời, thiết thực.
Truyện
“gần đời, thiết thực” là thế nào? Tức là những truyện nói về đời, nói về cõi
đời chúng ta ở ra sao, có những gì, lưu động như thế nào, cái đời thực chứ
không giả dối.
Như
chúng ta đã biết, văn tiểu thuyết (roman) của Pháp là do văn anh hùng ca mà
ra, mà mục đích là làm thỏa mãn một thiên tính của độc giả là tính ưa những
truyện phi thường. Tàu dịch chữ roman không được đúng, thành ta cũng
dùng lầm. Thực ra, trong chữ roman ta phải hiểu rằng có ngụ một ý
“phi thường” mà chữ romanesque do chữ roman mà ra, chính là
một hình dung từ để chỉ những người, những việc phi thường, tuyệt diệu, thuộc
về tưởng tượng. Cái nghĩa chính của tiểu thuyết là thế, mà bây giờ chủ trương
một loại truyện gần đời, thiết thực - nghĩa là không phi thường một chút nào
- thì loại truyện đó còn đứng vững làm sao cho được?
Đó là
tất cả cái khó của cuộc cách mệnh của văn phái tả chân, nhưng họ đạt được,
nhờ một phép mầu: họ tìm được cái phi thường trong cái tầm thường, cái đặc
biệt trong cái bình dị. Văn học sử Pháp trong suốt một thế kỷ XIX đã ghi
nhiều trang quan hệ về những cuộc thử thách và những cuộc đắc thắng của tiểu
thuyết tả chân. Những nhà văn tả chân chủ trương như vầy: muốn làm cho người
đọc truyện thích thú, muốn cho họ quên những kỳ tình, quái trạng, những chiến
công bất kinh của bọn phong lưu mã thượng, những phép thuật tuyệt diệu của
bọn tiên ông với tiên bà, cần phải hết sức bịa đặt, thêm thắt vào sự thực
quái dị, rùng mình - hầu có làm say đắm người ta. Cố nhiên là một văn phái
chủ trương như thế phải làm những điều quá độ. Những điều quá độ đó, đến bây
giờ người ta vẫn chưa quên, và có lẽ hiện cũng vẫn còn, ở nước ta và ở cả
nước Pháp nữa: người ta tả thực một cách phóng đại quá, dùng chữ tàn nhẫn
quá, như tả một gia đình trưởng giả thì không bỏ một chữ nào có thể tỏ cái
bẩn thỉu của sự giàu có, mà tả một gia đình thợ thuyền thì không ngại đem bao
nhiêu chữ đen tối, thảm thương ra dùng để nâng sự nghèo khổ của gia đình thợ
thuyền đó lên. Tuy vậy, những điều quá độ đó không đến nỗi hoàn toàn vô ích.
Trái lại, nó dạy cho những người đến sau và gây cho ta những sự suy nghĩ sâu
xa về tâm lý, về sinh lý.
Vậy
là truyện “gần đời, thiết thực” ra đời, ra đời sau cuộc xô xát của văn phái
phi thường và văn phái tả chân (trong này chia làm hai phe, một phe theo tả
chân chủ nghĩa, réaliste, và một phe theo tự nhiên chủ nghĩa, naturaliste)(1).
Và
những nhà tiểu thuyết “gần đời, thiết thực” từ đó hiểu rằng: muốn quyến rũ
độc giả, muốn làm cho họ chú ý vào cuốn truyện, không cần phải cho thần tiên,
ma quái hay phù thủy vào trong truyện; rằng: chỉ vẽ lại sự thực cũng khả dĩ
làm cho độc giả say mê được; rằng: tả thực không nên quá độ đến thành ra
không thực nữa như thỉnh thoảng văn phái tự nhiên vẫn làm; rằng: bây giờ,
việc cốt yếu của nhà viết tiểu thuyết là phải làm thế nào bày tỏ cho độc giả
thấy những cái mắt thấy hàng ngày mà chính ra thì họ không trông thấy - tất
cả những cái đó, đem họp lại với nhau, thành ra cái kết cấu tuyệt diệu của
cuộc đời hàng ngày - và, thêm vào đó, đem thêm một ít cần thiết cho kiến văn
của họ, cho cái quan niệm về “người” của họ.
Bởi
thế loại truyện mới đó mới có tên là “truyện gần đời, thiết thực” (tạm dịch ở
chữ romanesque familier). Nhờ có sự kinh nghiệm của hai văn phái tả
chân và tự nhiên, văn phái “gần đời” có thể tạm coi mấy vấn đề khó khăn tạm
giải quyết xong rồi, mấy phương pháp không rõ ràng tạm minh bạch rồi.
a.
Ảnh hưởng của hoàn cảnh, đối với tâm trạng con người ta, vốn được coi như cái
linh hồn của văn tiểu thuyết trong nửa thế kỷ 19, những “nhà văn gần đời” vẫn
coi trọng lắm, mà đó là lẽ tất nhiên. Nhưng, nghệ thuật tả cảnh của văn phái
mới này có rất nhiều điều thay đổi lớn lao. Nhà viết tiểu thuyết mới “ly dị”
hẳn với những thứ tả cảnh bốn năm mươi trang giấy của Balzac, Emile Zola rồi;
mà người đứng xướng xuất ra cuộc cách mệnh đó, có lẽ là Guy de Maupassant
vậy.
b.
Thuyết thí nghiệm, thực nghiệm không đứng vững(1),
bởi vì người ta không thể lấy một cuộc thí nghiệm khoa học để áp dụng vào
tiểu thuyết. Ví dụ, sự đem chất đường gia giảm cho một người ốm ăn xem sức
phản ứng ra thế nào, cũng như đem một người say rượu bỏ vào đám thợ để xem sự
phản động ra sao. Mới nghe, thì hai sự thí nghiệm chả khác gì nhau cả, nhưng
suy cho kỹ thì không giống nhau được. Bởi vì trong một cuộc thí nghiệm khoa
học, chân lý của tạo hóa đem kết quả sự thí nghiệm đến cho ta. Còn trong một
quyển tiểu thuyết thì làm sao mà có chân lý của tạo hóa được, bởi vì một
quyển tiểu thuyết từ đầu chí cuối do người ta bịa đặt. Một nhà viết tiểu
thuyết bao giờ cũng có thể tỏ rõ những điều mình muốn. Đại khái bây giờ một
nhà tiểu thuyết muốn tìm ví dụ để tỏ rằng sự ly dị là có ích hay có hại, vấn
đề giáo dục trọng yếu hay không, thì cái kết quả có tất nhiên do ở sự quan
sát của nhà văn đâu, nhưng chính là do ý chí và thành kiến của nhà văn vậy.(1)
Có
người sẽ bẻ rằng tài liệu của nhà tiểu thuyết thu nhặt được cũng đủ là kết
quả cho sự thí nghiệm rồi, và cũng là sự quan sát rồi. Sự thực, người ta vẫn
thường quan sát theo thành kiến, mà tài liệu cũng lựa chọn do theo thành kiến
của nhà viết truyện.
c.
Đến vấn đề di truyền. Không ai có thể cãi được rằng thuyết di truyền vô cùng
quan trọng. Hiện nay, các nhà tiểu thuyết vẫn còn đem ra áp dụng thuyết đó,
nhưng áp dụng một cách kín đáo chứ không kềnh càng như thời Emile Zola
nữa. Đem thuyết di truyền ra mà làm kềnh càng quá độ, người ta xét nhận thấy
một điều này: các nhà viết tiểu thuyết coi ảnh hưởng sự di truyền đối với
nhân vật trong truyện to quá, họ nói đến nhiều quá, gớm ghiếc quá, đến nỗi
người xem phải tự nghĩ không biết mình có biết rõ ràng ảnh hưởng di truyền về
vợ mình, con mình, bè bạn mình như thế không, và quả thực người ta có cần
biết ảnh hưởng sự di truyền đến thế không?
Phàm
gọi là văn, muốn kể là một tác phẩm nghệ thuật, thì điều cần trước nhất là
luật bình quân. Những nhà tiểu thuyết bây giờ, phần nhiều đã chú ý về luật
bình quân đó trong việc xếp đặt yếu tố xây dựng truyện. Thật là một điều tốt
đẹp.
Đứng
trước sự tốt đẹp, chúng ta không thể đứng vững không học đòi bắt chước, bởi
vậy, mươi năm trở lại đây, làng văn tiểu thuyết Việt Nam cũng đã bắt đầu nhóm
lên cái phong trào viết truyện “gần đời, thiết thực” mà người thứ nhất đem
tải vào đây đã tạm gọi nó là “thứ truyện không có truyện”. Đương quen với
những truyện Tây du, Phong kiếm, rồi đến những chuyện
“phóng ô tô bắt cướp”, “đương nói chuyện với gái, quay ra bắn ba phát chết ba
con pạc pằng sồ”, hay ít ra những truyện có đủ những câu tả cảnh tả người và
những câu kết đầy đạo đức, đầy trung hiếu tiết nghĩa, độc giả ta nhất đán
“bị” đọc những truyện “dớ dẩn”, “tẻ ngắt”, “lạ hoắc”, “cụt thun lủn”, “chả có
đầu có đuôi gì cả”, không phải nói, ta cũng biết là họ bỡ ngỡ như thế nào!
Người ta phải đợi một thời gian khá dài mới thấy một số ít độc giả tập làm
quen với lối truyện “gần đời, thiết thực”. Còn cái số người không chịu được
“lối truyện tân thời” đó vẫn còn nhiều ở xã hội ta, và bao nhiêu lần, tôi đã
nghe thấy các cụ già và đàn bà con gái đến hỏi tôi như thế này:
-
Truyện tả một người say rượu rơi xuống hố, kêu gọi, không ai cứu cả. Hắn đứng
một lát, sau nhớ rằng hố không sâu, bèn trèo lên đi về nhà. Thế thì viết để
tỏ bầy cái gì, viết làm trò gì?
- Tôi
không hiểu ông định viết cái gì? Một người đàn bà có cái áo mới. Người đàn
ông bên cạnh sang xem, sờ vào. Không ai nghi ngờ. Nhưng vợ người đàn ông sợ
chồng người đàn bà có áo mới giận, sang xin lỗi. Thế là hết. Ông không tiếc
giấy ư?
- Một
người thư ký mê gái, ăn cắp tiền của chủ đi đánh bạc được, lại đem tiền hoàn
lại cho chủ. Thế thì có gì lạ? Thế thì viết làm gì cho người ta đọc mất cả
thì giờ?
Chao
ôi, ở đời có phải lúc nào người ăn cắp cũng bị hối hận và trừng phạt đâu, mà
có phải lúc nào thế sự cũng phiền toái, rắc rối như người ta thêu dệt! Có
người có tâm hồn bình dị đến vô cùng, mà cũng có bao nhiêu kẻ cứ tưởng chỉ
người khác mới cứu được mình nhưng chính thực thì nhiều khi chỉ có mình cứu
được mình mà thôi. Đời là thế. Nó không rắc rối quá như người ta tưởng tượng
mà cũng không quá đen tối như những nhà văn tả chân đã viết. Bây giờ, có một
bọn văn nhân thấy nó thế nào thì đem diễn ra thế, để xem cái kết cấu của đời “mà
người ta không trông thấy” ra sao, tưởng cũng có nhiều điều hay vậy.
Nhưng
nói thế, tôi không có ý kết luận rằng truyện “gần đời, thiết thực” hay hơn,
giá trị hơn truyện “quái đản, bất kinh”. Không. “Deux camarades” là
một cuốn truyện hay, một kiểu mẫu cho người ta hay ít ra cho tiểu thuyết gia
ta bắt chước, nhưng ai dám bảo “L’Ile aux trésors” không là một
truyện kiệt tác đáng bày trong tủ sách gia đình?
Tôi
đã nói loại văn nào cũng có thể hay được, mà thể văn nào
cũng có thể làm cho người ta ưa thích.
Vậy
chúng ta không nên chuyên riêng một thứ nào; trái lại, nên chia nhau và tùy
theo sở trường, sở đoản mà viết lối văn mình ưa thích, chớ có nên ép lòng.
Cái
khó không phải là ở đó, nhưng ở cách kết cấu câu chuyện, ở cách trình bày
nhân vật và ở cách diễn tả tâm lý.
(còn
tiếp)
|
Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012
Khảo về tiểu thuyết
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa