TÙY BÚT NGUYỄN TUÂN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – HÀ VĂN ĐỨC
TUỲ BÚT NGUYỄN TUÂN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
(Một số đặc điểm thể loại)
Hà Văn Dức
« …Tuỳ bút Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc trước hết bởi những trang viết chân thực với lượng thông tin phong phú, đa dạng, chính xác. Ông vốn xuất thân là một nhà báo, có vốn sống, vốn hiểu biết khá sâu rộng. Qua những trang tùy bút của Nguyễn Tuân, có thể thấy ông có mặt ở nhiều nơi, quan tâm tới nhiều mặt của đời sống, đã quan tâm tới cái gì thì tìm hiểu đến từng chi tiết nhỏ. Chính vì vậy mà tùy bút của Nguyễn Tuân có lượng thông tin rất cao. Nhiều bài tùy bút của ông đã cung cấp cho người đọc những kiến thức đa dạng, nhiều mặt cả về lịch sử, địa lý, địa chất, hội họa, âm nhạc v.v… Trong một lần đề cập đến nghề viết của mình, Nguyễn Tuân cho rằng: “Có hai lối viết, tôi gọi là lối nóng và lối lạnh. Cũng như tạng người, có tạng hàn, tạng nhiệt. Tôi thích lối viết lạnh. Chém treo ngành (còn có tên Bữa rượu máu) là lối viết lạnh, có anh không hiểu quy cho tôi là ca ngợi tên đao phủ chém đầu người. Tôi cho tác phẩm phải tạo được không khí cho câu chuyện của mình, không thì không có giá trị gì. Kinh nghiệm tạo không khí là phải có tri thức lịch sử, địa lý, tri thức về thiên nhiên rồi dùng sức tưởng tượng mà dựng lên”. Sự hiểu biết sâu sắc cặn kẽ của Nguyễn Tuân về một sự vật, hiện tượng nào đó nhiều lúc đưa lại cho người đọc những trang viết đầy hấp dẫn, thú vị. Viết về cây cầu Hiền Lương – thời kỳ đất nước còn bị chia cắt, tác giả say sưa kể về lịch sử cây cầu một cách khá cặn kẽ: “Cầu Hiền Lương bắc vào năm 1950. Có bảy nhịp kháp vào nhau. Sắt cầu của Anh “Made in England”, ván cầu Mỹ “us- Vigira”, nhân công cầu là đám công bình trong quân đội viễn chinh Pháp cộng với số nhân lực PMT… Cầu có bảy nhịp, cộng lại chỉ có 178 mét, và ván cầu tổng cộng chỉ có 894 miếng ván. Chiều dài cầu, miền Bắc miền Nam mỗi bên giữ 89 thước nhưng ván cầu thì 450 tấn thuộc về Bắc, và như thế ta hơn mấy tấm” (Cầu ma – Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, tr.183). Đọc tùy bút Sông Đà, người đọc không chỉ được đắm mình trong một cảnh sắc thiên nhiên vừa dữ dội, hoang sơ, vừa trữ tình thơ mộng mà còn có thêm nhiều hiểu biết về lịch sử một vùng đất đầy đau thương đang chuyển mình đi lên với cuộc sống mới.
Tùy bút Nguyễn Tuân không chỉ giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao, mà còn đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Chất tình cảm trong tùy bút Nguyễn Tuân trước Cách mạng thường là buồn, phản ánh cái tâm trạng bức bối, chán chường của tác giả trước một cuộc đời tù túng, tẻ nhạt (Thiếu quê hương). Sau Cách mạng Tháng Tám, cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Tuân có nhiều thay đổi: say mê, nhiệt tình và lạc quan hơn, nhiều thiên tùy bút trong Sông Đà là những áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ca ngợi thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Ở tùy bút của Nguyễn Tuân, chất trữ tình đậm đà được kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo, với những liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ đã làm nên nét độc đáo riêng biệt của Nguyễn Tuân. Qua các thiên tùy bút, Nguyễn Tuân trò chuyện với bạn đọc không chỉ bằng trái tim nghệ sĩ giàu cảm xúc mà còn bằng trí tuệ sáng suốt của một con người từng trải, lịch lãm, có học vấn rộng về nhiều lĩnh vực, có tác phong nghiên cứu điều tra tường tận, tỉ mỉ. Ông luôn giữ được cảm tình cũng như sự tin yêu mến mộ của bạn đọc. Có được kết quả đó một phần không nhỏ là nhờ vào cái “duyên tài tử”, cũng như lối hành văn, cách dẫn truyện hết sức tự nhiên của Nguyễn Tuân.
Tính chất đa nghĩa của những thiên tùy bút Nguyễn Tuân cũng là một mặt mạnh trong phong cách nghệ thuật của ông. Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, người đọc phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, phải có cùng một tư duy nghệ thuật với nhà văn thì mới cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của nó. Nói một cách hình ảnh, thì tùy bút Nguyễn Tuân giống như một khối ru-bi, mà nhìn ở mặt nào, khía cạnh nào người đọc cũng nhìn thấy sự toả sáng cả.
Vốn sống phong phú, cộng với sự nhạy cảm của các giác quan đã giúp cho ngôn ngữ và bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân có một khả năng đặc biệt trong việc tạo hình, tạo cảnh, tạo không khí. Chúng ta có thể dẫn ra những trang đặc sắc tả cảnh thiên nhiên của Lai Châu từ thân đèo Khâu Ma Hồng “nhìn xuống thung lũn choé vàng mây trắng giống như những cánh hoa thuê nổi trên tấm lụa chín”. Nhưng trang tả trận đánh dữ dội giữa con thuyền đuôi én do những người lái đò dũng cảm dày dạn kinh nghiệm và tài trí chỉ huy với hàng mấy chục cái thác dữ trên sông Đà như dàn thành thế trận trên sông, chực sẵn để vồ lấy chiếc thuyền đơn độc và liều lĩnh (Người lái đò Sông Đà). Văn xuôi của Nguyễn Tuân giàu hình tượng, giàu nhạc điệu và đầy chất thơ. Đặc biệt, ông đã cho biết sử dụng mặt mạnh của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau: âm nhạc, hội họa, điện ảnh… để làm tăng thêm khả năng biểu hiện của văn chương. Chẳng hạn thủ pháp motage vốn được coi là đặc thù riêng của nghệ thuật điện ảnh cũng được Nguyễn Tuân sử dụng để tạo nên một khung cảnh mới trong đó lắp ghép nhiều sự kiện, con người vốn xa cách nhau trong không gian và thời gian (Xòe). Ngay cả thủ pháp quay phim cận cảnh, viễn cảnh, trung cảnh, toàn cảnh cũng giỏi, khi miêu tả những tù binh Mỹ bị giải qua các phố Hà Nội, sự quan sát của Nguyễn Tuân có lúc như một ống kính điện ảnh quay từ xa để thu toàn cảnh “một xê ri đặc tả” từ những góc độ khác nhau như “trông nghiêng, trông chếch ba phần tư goc” để làm hiện rõ bộ mặt thảm hại của những tên tù binh Mỹ.
Ngoài điện ảnh ra, Nguyễn Tuân còn thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc, thấu đáo về nhiều lĩnh vực khác. Khi đề cập tới hội họa, âm nhạc ông cũng có những nhận xét sâu sắc, tinh tế. Nguyễn Tuân từng viết bài về tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái. Ông thấu đáo từng gam màu đậm nhạt, từng đường nét uyển chuyển, táo bạo trong hội họa. Nhiều khái niệm của hội họa, điêu khắc, nhiều trường phái nghệ thuật cổ điển, hiện đại được Nguyễn Tuân đề cập, bàn bạc với sự hiểu biết thấu đáo như một họa sĩ thực thụ. Trong một lần trao đổi vơi nhà phê bình Ngọc Trai, Nguyễn Tuân nói: “Có một nhà văn nước ngoài viết: “Nghe mưa rơi không cần phiên dịch”. Hội họa là vậy đó. Có một thứ ngôn ngữ mà bất cứ người nước ngoài nào cũng hiểu được mình, giao hoà cảm thông với mình thì còn gì quý bằng. Tôi ghen với mấy ông họa sĩ đó”.
Nhờ khả năng hiểu biết sâu sắc về hội họa mà trong tùy bút Nguyễn Tuân, chúng ta thấy ông sử dụng các gam màu, sắc độ rất bạo, rất tài hoa “Trăng ngàn láng thủy ngân… Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn vạn vạn sải… Đàn cá dầm xạnh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi…”. Đặc biệt, thủ pháp nghệ thuật tương phản trong hội họa và điện ảnh, đã được Nguyễn Tuân sử dụng rất thành công trong tác phẩm của ông. Trước Cách mạng Nguyễn Tuân hay dùng thủ pháp tương phản chỉ để làm nổi bật cái “tôi” cá nhân của mình, để đối lập với cái xã hội ô trọc, để tách mình ra khỏi đám chúng nhân tầm thường, tẻ nhạt và không có bản lĩnh. Những năm sau này, Nguyễn Tuân cũng hay dùng nghệ thuật tương phản, nhưng là để chiêm ngưỡng, so sánh quá khứ với hiện tại và tương lai, giữa cái cũ với cái mới, giữa bọn đế quốc và bè lũ tay sai – hung thần của bóng tối và ánh sáng của nhân dân, của Cách mạng. Tuy nhiên, việc sử dụng thủ phap nghệ thuật này không phải lúc nào nhà văn cũng thành công một cách mỹ mãn. Trong Sông Đà, có những trường hợp nhà văn quá sa đà vào quá khứ, thậm chí có khi bóng đen của quá khứ còn đè nặng lên cuộc sống hiện tại. Trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, thông qua cái nền đen tội ác của đế quốc Mỹ, nhà văn đã làm nổi bật những nét đẹp đẽ, tươi sáng, cao cả của Hà Nội, nhưng bên cạnh đó nhà văn chưa làm nổi rõ các khó khăn gian khổ, sự mất mát hy sinh cho nên sức thuyết phục của tùy bút Nguyễn Tuân chưa phải đã đạt đến một hiệu quả cao nhất.
Nguyễn Tuân cũng là người rất say mê âm nhạc, ông rất sành các loại đàn sáo dân tộc, các loại hình sân khấu như hát bội, hát chèo, ca Huế, ca cải lương, v.v… có lẽ cũng vì vậy mà trong một số tùy bút của ông đôi khi ta gặp những điệu hò ơ ngân dài, thân thiết như vọng ra từ chính tâm hồn của tác giả. Thật thú vị khi đọc những trang viết Nguyễn Tuân, miêu tả những lời hát đối đáp của trai gái, những điệu hò trên sông nước hay làn điệu dân ca quan họ Bắc Ninh đầy chất tạo hình: “mềm mại như những đường cong các mái đình cổ tỉnh Bắc”. Ông thấy được: “Ca nhạc và màu sắc quần áo tươi chói trong những buổi thu thanh vốn dân tộc và đĩa hát, càng gợi nhắc đến những nét dịu dàng của tranh Tố nữ yếm đào làng Hồ” (Bến Hồ và làng tranh).
Đặc sắc trong tùy bút Nguyễn Tuân còn ở cái tài kể chuyện rất vui, rất hóm và có duyên của ông. Văn Nguyễn Tuân viết tự nhiên như người nói chuyện: Ông trò chuyện với bạn đọc một cách thoải mái, chân tình, có khi điềm đạm, thẳng thắn, nghiêm trang, nhưng nhiều khi vui nhộn, linh hoạt kiểu tán gẫu, nói trạng, đưa lại cho người đọc những trang viết không kém phần thú vị. Giọng văn của ông luôn chuyển đổi, đang trang nghiêm cổ kính bỗng chuyển sang bông đùa, bốc tếu, có khi đang nói giọng Bắc lại chuyển sang giọng Trung, giọng Nam. Nhiều khi ông nhìn cuộc sống với con mắt rất nhộn, rất nghịch. Đoạn văn ông tả miếng đòn hiểm của thác nước sông Đà quật ngã người lái đò với những hình ảnh, liên tưởng nghịch ngợm và bạo miệng khiến người đọc không khỏi bật cười: “Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở chỉ bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò, hột sinh dục muốn vọt lên cổ” (Người lái đò sông Đà). Viết về thằng phi công Mỹ Míchkên – con tên đô đốc chỉ huy hạm đội 6 bị ta bắt sống, ông tưởng tượng cảnh thằng đô đốc chết, thằng con không về đưa ma được, chiếc kỳ hạm đô đốc “phải treo mũ rơm, gậy tre lên đòn trục cầu tàu Hoa Kỳ để thay cho thằng con bất hiếu” (Đèn điện phố Phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào). Đây là một cách nói khôi hài rất Nguyễn Tuân để chửi, để rủa bọn hiếu chiến Hoa Kỳ cho bõ ghét.
Văn tuỳ bút của Nguyễn Tuân biến đổi rất linh hoạt. Mạch văn tuôn chảy theo dòng cảm xúc hết sức thoải mái, chuyện này chồng chéo lên chuyện kia không theo một trình tự nào, và cũng không bị ràng buộc hạn chế bởi không gian, thời gian. Văn của ông khi thì lướt rất nhanh, chỉ điểm một vài nét chấm phá, khi thì dừng lại rất lâu ở một cảnh, một sự việc, rồi xoay ngang, xoay dọc, tỉa tót, chạm trổ tỉ mỉ, công phu như một nghệ nhân tài ba. Có những lúc tác giả như vận dụng hết mọi giác quan của mình để miêu tả: mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, trí óc liên tưởng… chẳng hạn như đoạn văn miêu tả thứ mắm đặc sản Thạch Hà, Cẩm Phả rất gợi cảm khiến ta đọc lên như cảm nhận thấy cả hương vị, màu sắc của nó: “Chà, vui mắt quá, cái sân chế biến nước mắm, hàng ngang chum kiệu màu da lươn thẫm dựng đứng theo hàng lối từng khu, mỗi khu xếp theo tuổi của nước mắm. Có những chum nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn. Uống một chén suông, chặc lưỡi một cái thấy ngọt lừ và không nghi ngờ gì nữa, đấy là cái vị ngọt chân chất của hoa quả đem từ lòng vườn bách thảo về mà chế biến ngay trên bờ. Lại thấy nhơ nhớ cái thơm lừng sảng khoái của nước mắm Hòn Năm xưa ghe bầu đem từ hòn đảo Phú Quốc về” (Huyện đảo).
Văn tùy bút Nguyễn Tuân quả có nhiều nét đặc biệt dễ nhận thấy khiến người đọc có thể dễ dàng phân biệt ông với những cây bút khác. Ông đã kế thừa được những thành tựu từ nhiều nguồn phương Đông và phương Tây, từ dòng dân gian, cổ điển đến hiện đại, nhưng đồng thời có sự sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn riêng của Nguyễn Tuân. Với thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân đã đạt được những thành công rực rỡ, cả ở giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám….”.
(In trong Văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, Nxb ĐHQG, HN, 1996)
Nguyễn Tuân - người lữ hành không mỏi của tiếng Việt - hồn Việt (*)
07-07-2010
GS MAI QUỐC LIÊN
Ngày 5/7/2010 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyễn Tuân. Đến dự có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, GS Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Trung ương và nhiều vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh, đã đọc diễn văn khai mạc, nhiệt liệt biểu dương sự nghiệp văn học đồ sộ, tâm huyết đối với đất nước và nhân dân của nhà văn Nguyễn Tuân. Các GS Phùng Hữu Phú, Phong Lê, nhà văn trẻ Võ Thị Xuân Hà đã đọc tham luận. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu tham luận của GS Mai Quốc Liên - GĐ Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Tổng biên tập Tạp chí Hồn Việt.
Trong những ngày Hà Nội đánh Mỹ, ta có thể nhìn thấy Nguyễn Tuân mặc một bộ đồ lụa nâu, thong thả giở tờ báo tiếng Pháp trên một chiếc nắp hầm trú ẩn cá nhân ở bái bia Cổ Tân trước Nhà Hát Lớn. Rồi những ngày B52, Cụ đội lên đầu cái mũ sắt phòng không, ở lại Hà Nội làm “phóng viên chiến trường”. “Tôi thấy tôi đúng. Mình là người viết văn, nhà văn Việt Nam. Trong khi Thủ đô – trái tim của cả nước lâm nguy mà bỏ Hà Nội mình đi, thì còn viết cái gì, mình còn ra gì nữa ông?”
Và những trang viết say nồng, phức điệu, giàu màu sắc, giàu ý tưởng… của Cụ trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi lại vang lên, tiếp nối những trang tùy bút đã viết trong kháng chiến chống Pháp: Đường vui, Tình chiến dịch, Tùy bút kháng chiến…
Nguyễn Tuân có cốt cách của một nhà văn – một nhà báo chiến trường như E.Hemingway, Erengbourg. Ông coi trọng văn từ báo, từ những vật liệu hàng ngày, từ công việc viết sử hàng ngày của người làm báo.
Và như vậy, Nguyễn Tuân đã đi, miệt mài suốt đời như một lữ khách không mỏi dâng hiến hết mình cho dân tộc và thế kỷ, với những kiệt tác văn chương còn mãi: Vang bóng một thời, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, các bài tùy bút, tiểu luận đặc sắc về Tú Xương, Sêkhov, Dostoievski, Nguyễn Du, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng… viết với nhãn lực, bút pháp một nhà văn bậc thầy và một nhà khảo cứu đam mê sự sống và tư liệu.
Nguyễn Tuân là kiểu nhà văn vừa truyền thống dân tộc ở độ sâu sắc sung mãn nhất của một người Việt, người Hà Nội – Trường An có thể có, vừa là nhà văn hóa am tường, say mê văn hóa phương Đông, phương Tây… Nhiều nhà văn nước ngoài, như nhà thơ Nga nổi tiếng E. Evtushenko gọi ông là “nhà văn cổ điển Việt Nam”. Đúng như vậy, văn chương của ông đã thành một di sản cổ điển ngay từ lúc ông còn sống.
Quang cảnh Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyễn Tuân
tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Nhân vật chính trong các tác phẩm Nguyễn Tuân từ đầu đến cuối là Nguyễn. Là con một ông Tú tài Hán học cuối cùng, Nguyễn Tuân sống và hiểu rõ những tập tục “quí phái” của những nhà Nho phong kiến như uống trà, viết chữ, thả thơ, ả đào… Tiếng vọng của một quá khứ văn hóa đến từ những câu chuyện đó. Nó đem lại một niềm luyến tiếc khôn nguôi cho những tâm hồn còn nặng nợ với văn hóa ta, đối lập với cái nhố nhăng, bát nháo của văn hóa thực dân đang du nhập ồ ạt. Đó là sự níu kéo mỏng manh, một “tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa” như một nhận định của một nhà văn hóa Cách mạng về văn chương lãng mạn 30 - 45. Vang bóng một thời còn là một tình điệu, một phong cách văn chương, một chiều sâu nội tâm ít có, uẩn áo… của một chàng trai mới ngoài 30 tuổi.
Day dứt vì “thiếu quê hương”, Nguyễn muốn làm một lãng tử lãng du, nhưng những chuyến đi sẽ đem lại gì ngoài sự chán nản sâu sắc hơn, sự bất mãn và bất lực trước cuộc đời và trước chính mình. Nguyễn chưa kịp trở thành một “con người phản kháng”, “con người vô luân”…, nhưng cái mầm của các thứ chủ nghĩa cá nhân hiện đại ấy của phương Tây đã thấp thoáng trên trang sách. Rồi Nguyễn đi vào “tàn đèn dầu lạc”, vào “hát ả đào”, một chút “Liêu Trai” ma quái mê sảng như trong “Chùa Đàn”. Cách mạng Tháng Tám đã đến cuốn bay tất cả những bế tắc đó, và Nguyễn đi kháng chiến.
Cuộc đổi đời say mê tận tụy dâng hiến ấy, nhờ vào làn sóng của thời đại, nhờ vào lòng yêu nước yêu dân tộc đã ăn sâu bén rễ từ trước ở một con người thanh niên trí thức thuộc địa, đã đem đến cho Nguyễn một chân trời mênh mông, phong phú của sáng tạo văn học, từ chân trời Việt Bắc – Cà Mau đến chân trời Lêningrat, Bắc Âu, Trung Hoa…
Người ta nói Nguyễn Tuân có phần “lập dị”, khinh bạc. Không, có lẽ Nguyễn Tuân là người muốn yêu, muốn tận hưởng tình yêu cuộc sống, tình yêu cái Đẹp, tình yêu tiếng Việt trong cái tận cùng của nó, và ông không thỏa mãn, coi thường những kẻ nửa vời… Cái Đẹp đối với ông là tất cả, cái Đẹp ngàn năm, cái Đẹp mới mẻ, cái Đẹp của ngày mới Cách mạng, cái Đẹp của cuộc chiến đấu kiên trì anh hùng vô song, cái Đẹp của những đời thường ở cả hai miền Nam Bắc. Trong văn của ông đã đạt tới đích của Tư tưởng, của Sự thật, của Nghệ thuật.
Có điều là Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân.
Ông không thấy cần thiết mình phải biến thành người khác, hòa giọng đồng ca “thổi sáo ở lẫn giữa ba trăm người” như người xưa nói. Ông bao giờ cũng trăn trở, tìm tòi, tỉ mỉ, nghĩ lớn đồng thời nghĩ tinh tế… trên từng dòng, từng chữ để diễn đạt mình cho hết. Ông đã vắt cạn tài năng này, tâm huyết cho từng trang văn, không bao giờ dám không gắng sức.
Ông là một trong những người lao động văn chương cần mẫn nhất thế kỉ, một “chuyên viên tiếng Việt”, một bậc thầy, và có thể nói một vị “pháp sư” về tiếng Việt. Cái thứ tiếng in hồn dân tộc, hồn người, hồn thời đại mà ông là một kẻ tình chung - sáng tạo: “… Tôi lặng cúi xuống mặt trang giấy trắng tinh đang om sòm những tiếng mời chào kia mà nói bật lên lời biết ơn đối với đất nước, ông bà tổ tiên. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi thứ tiếng nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới chào đời. Trong hương hỏa âm thanh từ điệu ấy, thấy như hiển hiện lên không biết bao nhiêu mồ hôi và máu huyết của đời ông bà khai rừng, mở cõi, giữ nước chống giặc, tiến lên đến đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó. Nay mỗi lần đụng đến cái di sản nhiệm mầu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi như vấn vương một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá mà tất cả trữ kim, trữ ngân của tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được”
Nguyễn Tuân và tiếng Việt, Nguyễn Tuân và phong cách văn chương tiếng Việt của ông là một điểm nổi bật nhất khi ta đọc ông. Câu văn Nguyễn Tuân, trang văn Nguyễn Tuân trùng điệp, phức điệu và phức cú, diễn tả những quan hệ phức tạp của cuộc đời và tâm trạng cá nhân, điểm nhìn và cách nhìn của chính tác giả. Một nhà ngữ học, theo phương pháp thao tác, cho rằng văn chương Việt Nam có ba loại câu văn độc đáo: câu thơ Kiều, câu đối Nguyễn Khuyến và câu văn Nguyễn Tuân.
Tuy thế, về bản chất văn Nguyễn Tuân vẫn là cách nói năng của người Việt, người Việt Hà Nội với tất cả cái đậm đà duyên dáng của nó trong giọng điệu, trong từ ngữ. Các lớp từ bình dân, thông tục chen lẫn giữa các từ “bác học”, “Hán học”, các từ hằng ngày báo chí nhặt lên từ cuộc sống lao động, chiến đấu của nhân dân hòa vào những từ sách vở, trí thức, chọn lọc…Trang văn là một hòa điệu của âm thanh, trước hết là của tiếng nói, giọng nói. Nó không trôi đi bình lặng, êm ả mà như đối thoại với nhau, tranh luận nhau, đa thanh, phức điệu.
GS Mai Quốc Liên phát biểu tại buổi lễ.
Nguyễn Tuân rất thích tiểu thuyết của Dostoievski, nhất là “Tội ác và trừng phạt”, “Anh em Karamazov” mà Dostoievski nổi bật ở phương điệu đa thanh, đối thoại… với thi pháp học hiện đại, với ngữ học và thi học cấu trúc của Jakobson ta biết đến không những cái đẹp, trong cái ý nghĩa nhỏ nhất của đơn vị ngôn ngữ (“hình vị”), với Jean Cocteau, ta còn biết đến “cái đẹp của ngữ pháp, cú pháp” câu văn.
Câu văn Nguyễn Tuân đẹp là do cấu trúc tầng tầng lớp lớp mà bao giờ cũng sáng sủa, trong trẻo, cũng đúng và cũng đẹp, ở đó ông rất chú ý đến giọng, đến thẩm âm, đến cách sắp xếp các từ, cách thay đổi chức năng từ…, để làm nổi bật các mối quan hệ trong sự vật và trong cảm giác của chính ông: “Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một niềm cảnh giác”, hay: “Vàng Nga vẫn còn như níu lại giữa khu vườn Bách Thảo có một cặp voi Việt Nam đang mài ngà vào nhau mà nhớ một bụi chuối bên quê cũ”.
Những câu văn như thế, nhiều câu văn như thế được viết ra lần đầu tiên trong tiếng Việt văn chương, nó có cái đẹp phi tuyến tính của những câu thơ siêu thực hiện đại như những câu thơ hiện đại. Cái cách gặm nhấm, phân tích tinh tế cảm giác, cảm xúc, tâm lí, cái cách liên tưởng nhiều tầng, nhiều lớp… cái đó là của văn chương hiện đại thế giới, được phối hợp với cái nhìn mơ màng của một lãng tử phương Đông, nó bao quát thế giới trong một cái nhìn vừa “chủ toàn” - trực giác vừa “chủ biệt” - phân tích. Nguyễn Tuân đã có đóng góp cho văn chương tiếng Việt, được bắt đầu từ các bậc thầy văn hóa, văn chương thời Trần, Lê, Nguyễn và văn chương Quốc ngữ.
Đi qua cả thế kỉ XX đầy biến động, giông bão và chiến thắng, đi trên “con đường qua thống khổ” của dân tộc để đến vinh quang, Nguyễn Tuân đã chia sẻ với tất cả thời đại, dân tộc, văn chương. Chân dung ông lừng lững ở chân trời thế kỉ. Ông đã đến, đã yêu, đã trăn trở, đã viết và để lại một di sản văn chương đồ sộ, hàng năm ngàn trang in khổ lớn.
Nhìn vào di sản văn chương đó, nhớ đến ông, một cụ già hiền hậu, khi được bạn đọc Sài Gòn nhào đến xin chữ ký vào “Sông Đà”, vào “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”… ở Nhà Văn hóa Thanh Niên sau 1975 đã ứa nước mắt xúc động – những giọt lệ lăn trên đôi má một thời gian khó… Cụ đã ăn những bát cơm đạm bạc cùng chúng tôi ở Sài Gòn 1978, nhâm nhi chút khô mực với vài chén rượu Gò Đen, nói chuyện văn, chuyện đời… Thung dung như một đạo sĩ, Cụ là một bậc thiên sứ đã xuống vui chơi với những kẻ phàm trần chúng tôi, làm chúng tôi bao cảm kích. Nguyễn Tuân nổi tiếng là một ẩm thực gia, nhưng trong cuộc đời thực, ông có ăn uống được bao nhiều đâu, mà cũng đâu có tiền mà ăn! Cuộc đời thế hệ ông là hi sinh là gian khổ, nhường vinh quang cho người, nhường hưởng thụ cho người, làm cái rễ cây hút nhụy từ lòng đời để nuôi sống văn chương. Để đến hôm nay, hồn ông bát ngát bay lên trời Hà Nội – Thăng Long 1000 năm lịch sử.
*
Xin cho phép tôi nói vài câu về chuyện Nguyễn Tuân và giới phê bình.
Khoảng năm 1959, Cụ Nguyễn Tuân in Sông Đà, đến tháng 1/1960, Tạp chí Văn Học in bài của ông Nam Mộc trên trang đầu về cuốn sách đó. Bài viết thật khắc bạc, có thể nói là quá quắt: một tập ký hay như thế, đẹp như thế mà chê tàn tệ, đến nỗi Cụ Nguyễn viết rằng, lên Tây Bắc có người nhầm Cụ với ông chủ tư sản gì đó về cái dáng của Cụ, mà bài phê bình cũng trích ra đay nghiến Cụ. Nay thì ông Nam Mộc cũng về “sinh hoạt chung” với Cụ Nguyễn rồi, nhưng qua bài ấy mà “hận” giới phê bình thì cũng đúng.
Sau này, Cụ còn bị phê mấy đợt: Tình rừng, Tờ hoa, Chả giò… Nhớ có câu thơ “vịnh” báo Văn Nghệ nhân vụ Tình rừng: “Hết nạn nọ đến nạn kia. Chưa xong Cái gốc, đã lia Tình rừng”. Một con người son đỏ với Cách mạng và kháng chiến trên từng chữ từng ý nghĩ như Cụ Nguyễn mà bị nghi oan, hỏi sao không đau, không giận? Có lẽ Cụ trút cái giận đó lên giới phê bình quan phương, các người mà Cụ gọi “phụng bút cấp trên” mà viết! Cho nên có câu: “Khi chết hãy chôn theo tôi một nhà phê bình để còn tiếp tục cãi nhau”, câu nói hóm hỉnh và cũng phản ánh đúng tâm trạng Cụ.
Có điều ta không nên quên là chính Nguyễn Tuân cũng là nhà phê bình. Như người ta định nghĩa, phê bình (critique) là tất cả những gì viết về văn chương. Mà Nguyễn Tuân thì viết về văn chương rất nhiều; Cụ viết theo cách của Nguyễn, nhưng dù là “tùy bút”, nó vẫn là phê bình. Trong văn khí Nguyễn Tuân, cái giọng luận bình, luận đàm luôn vang lên như một giọng chủ đạo.
Cụ đích thực là một tiểu luận gia (essayiste). Không hẳn như chị Như Trang nói: “Phê bình là thứ công việc mà Cụ không ưa”, tôi nghĩ có phần trái lại. Về cuối đời, theo chỗ tôi biết, Cụ còn định viết về Liêu trai. Có điều là Cụ, cũng như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Đặng Thai Mai… chỉ chọn viết về những đỉnh cao, và chỉ khen… Cụ chỉ không ưa những nhà phê bình nào “phê” Cụ, và “phê” không đúng, ác ý.
Cụ viết “khi các nhà phê bình đã ngủ” (Câu này hình như Cụ lấy lại của một nhà văn cổ điển), nhưng nhà phê bình trong Cụ thì vẫn phải thức, và vì thế mới có được Nguyễn Tuân. Vả lại, trong đời, phải đâu Cụ chỉ “ghét mặt” mấy “thằng cha” phê bình. Cụ cũng không yêu tất cả giới sáng tác, bởi vậy không nên lấy sự yêu ghét nhiều khi cũng thất thường của một ai đó, dù người đó là nghệ sĩ, làm một thước đo tổng quát. Mỗi người có “kẻ thù” và bạn bè của riêng mình. Cho nên, ta chả nên khai thác các khía cạnh này nhiều, nên vừa đủ thôi.
Rút lại, thì Cụ Nguyễn Tuân có vấn đề với phê bình qua một số vụ việc cụ thể, qua một vài khuynh hướng phê bình hồi đó, (không phải ai cũng viết như vậy và đừng “truy chụp” cho tất cả, và nên nhớ là phê bình hồi đó không chỉ có ông Nam Mộc mà còn có cả Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ… và nhiều người khác).
Ở Pháp có luận điểm: “Sáng tác cao hơn cuộc sống, còn phê bình thì cao hơn sáng tác”. Chắc rằng luận điểm này không đúng lắm. Nhưng ta hãy nói như Biêlinxki: “Phê bình không phải tùy thuộc vào sáng tác, cả phê bình và sáng tác đều xuất phát từ thời đại, chỉ có điều phê bình là ý thức triết học của sáng tác”. Phê bình là nhu cầu khách quan của xã hội.
Từ thời cổ đại, Lưu Hiệp đã từng luận rất hay về việc “theo sóng tìm nguồn” của phê bình trong thiên Tri âm, sách Văn tâm điêu long. Còn Cụ Khổng thì hàng ngàn năm trước đó đã phê bình Kinh thi rồi.
Những vấn đề giữa phê bình và sáng tác luôn luôn có, nhưng chớ nên vì thế mà miệt thị giới phê bình. Phê bình không phải chỉ là chuyện khen chê, phê bình phải công tâm, thẳng thắn, vẫn biết rằng con người ai cũng thích được khen. Tôi biết rất nhiều nhà văn nổi tiếng có những người bạn chí thiết, “tri âm” trong giới phê bình. Chẳng việc gì mà đào hố chia rẽ giới này giới nọ cho mệt. Trước hết là con người, rồi sau đó mới đến giới, đến nghề, và người làm sang cho nghề, chứ nghề không làm sang cho người.
*
Cuối cùng, điều tôi muốn nói ở đây hôm nay, trên diễn đàn trang trọng này của lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Cụ Nguyễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, là:
Tôi trộm nghĩ, Nguyễn Tuân, một trí thức thuộc địa nửa phong kiến, kế thừa dòng máu yêu nước thơm ngát các sĩ phu, đã yêu nước, yêu văn hóa dân tộc, nhưng đã biết bao hoang mang buồn đau trước cuộc đời. Thời đại Hồ Chí Minh đã đến, và cơn bão táp Cách mạng và Kháng chiến đã cuốn trôi tất cả những sống mòn nhục lụy, những hen rỉ của cuộc đời “một đêm đưa ma (Vũ Trọng) Phụng” tê tái buồn, để đưa Nguyễn đến với nhân dân, Tổ Quốc.
Chân dung nhà văn Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đã lớn dậy, càng phát huy tài năng, tâm huyết, trở thành nhà văn – đại sư, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Lừng lững bóng dáng ông cuối chân trời thế kỷ XX và bóng dáng ông sẽ còn che mát cho chặng đường đi tới của chúng ta hôm nay. Chúng ta nguyện đi theo con đường ấy của Cụ, con đường văn chương nghệ thuật xả thân cho độc lập, tự do của Tổ Quốc, của chủ nghĩa xã hội, tin yêu ở tương lai Tổ Quốc và hạnh phúc con người, ở chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa.
Nhất định chúng ta sẽ phải kiên trì con đường ấy hàng trăm năm, không dời chuyển, không đổi chí, không đổi tiết, không để các thế lực bên ngoài gây áp lực, không thoái hóa biến chất thực dụng vì lợi ích cá nhân – lợi ích cục bộ: “Chỉ vụ ích kỷ phì gia, thiên hạ lớn lao chẳng hề đoái tiếc” (Nguyễn Trãi); hi sinh cao cả như thế hệ đàn anh Cách mạng Kháng chiến, như Nguyễn Tuân và bao tiên liệt khác, thì sự nghiệp của chúng ta, dù phải trải qua thử thách đến mấy, cũng sẽ đến được bờ thắng lợi.
Ba mươi năm chúng ta đã giành lại nước, hơn ba mươi năm chúng ta đã xây dựng cơ ngơi vật chất đầu tiên cho chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta tiếp tục vững vàng đi tiếp trên con đường lớn Hồ Chí Minh, “dĩ bất biến ứng vạn biến” tình hình xây dựng hạ tầng con người – văn hóa – giáo dục – khoa học – trí tuệ… một cách thích đáng, hợp lý trong điều kiện phát triển của Việt Nam…, thì giấc mộng về đất nước đẹp vô cùng trên từng trang văn thao thức của Cụ Nguyễn và của bao sĩ phu Bắc Hà Nam Hà nhất định sẽ trở thành hiện thực.
Xin đa tạ.
Nguyễn Tuân độc đáo, tài hoa
17-06-2010
ANH CHI
Nguyễn Tuân người làng Mọc Thượng Đình, một trong bảy làng Mọc của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho cuối mùa, người bố thi đỗ Tú tài khoa thi chữ Hán cuối cùng, thường được người ta gọi là “cụ Tú Lan”. Mẹ ông bán hàng tạp hoá. Cụ tú Lan chuyển từ bút lông sang bút sắt, làm ký lục Toà sứ các tỉnh và thường được điều đến làm việc ở nhiều địa phương. Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội, nhưng từ niên thiếu đã theo gia đình chuyển đến sống ở nhiều tỉnh, thành phố, từ Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Huế, đến Khánh Hoà, Hội An, Đà Nẵng, có thời gian sống khá lâu ở Nam Định. Vậy nên Nguyễn Tuân học trung học ở thành phố Nam Định.
Năm 1929, đang học dở trung học, Nguyễn Tuân tham gia cuộc biểu tình chống lại một giáo viên nói xấu và khinh miệt người Việt Nam, nên đã bị đuổi học. Năm 1930, ông theo một người bạn thân sang Thái Lan chơi, vốn ghét người Tây, lại có tính ngông nghênh coi thường luật pháp, nên bị bắt tại Băng Cốc và bị đưa về giam ở nhà lao Thanh Hoá. Hết hạn tù, Nguyễn Tuân xin việc ở Nhà máy đèn Thanh Hoá, được vài năm, rồi trở về Hà Nội và bắt đầu lập thân bằng nghề báo với chân phóng viên báo Đông Tây. Sau đó, ông viết cả cho An Nam tạp chí, Trung Bắc tân văn, Hà thành ngọ báo, Tiểu thuyết thứ bảy… Ngoài tên thật Nguyễn Tuân còn ký nhiều bút danh khác, như Nhất Lang, Thanh Hà, Ngột Lôi Quất, Thanh Thuỷ, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc…
Làm báo chí và văn chương, Nguyễn Tuân lại rất say mê kịch nói. Thời gian này, Lê Tràng Kiều, Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Vi Huyền Đắc lập nên Ban kịch Hà Nội rất được mến mộ, Nguyễn Tuân kết bạn với nhóm kịch sĩ, và đã tham gia đóng một vai trong vở kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc.
Nhà văn Nguyễn Tuân.
Khi Tổng thư ký Liên đoàn các nghệ sĩ Việt Nam là Đàm Quang Thiện đưa một nhóm nghệ sĩ sang Hồng Công làm phim Cánh đồng ma, Nguyễn Tuân cũng tham gia đóng một vai phụ. Là một người có tâm hồn phóng túng, thích ngông, Nguyễn Tuân đã kết bạn vong niên với thi nhân lừng danh Tản Đà. Có lần Nguyễn Tuân đến 71 phố Cầu Mới thăm Tản Đà, quà mang theo là một bó đóm. Khi tiễn khách về, Tản Đà đã sẻ đôi bao diêm, biếu Nguyễn Tuân một nửa cùng mấy câu thơ vừa ứng tác:
Đóm kia tuy chẳng là bao
Nhưng là tình nghĩa lẽ nào dám quên
Sẵn đây còn có bao diêm
Tặng ông một nửa còn riêng tôi dùng.
Kỷ niệm ấy và bài thơ Tản Đà tặng, Nguyễn Tuân nhớ suốt đời, cho thấy ông trân trọng Tản Đà đến ngần nào. Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn từ năm 1937, khi chơi thân với nhóm nhà văn trong Ban kịch Hà Nội, với Vũ Trọng Phụng, và nhất là khi kết thân với Tản Đà. Ông viết cho Tiểu thuyết thứ bảy những truyện ngắn đầu tiên.
Sau chuyến đi đóng phim ở Hồng Công về, năm 1939, ông gửi đăng liên tục các truyện ngắn trên Tiểu thuyết thứ bảy và tạp chí Tao Đàn. Những truyện ngắn đó được dư luận đánh giá cao, đến năm 1940, Nguyễn Tuân tập hợp lại trong Vang bóng một thời, do Tân Dân xuất bản. Tác phẩm này khiến Nguyễn Tuân trở thành nhà văn có tên tuổi trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn phát triển cuối cùng.
Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn viết về cái “thời” vừa mới qua, nay chỉ còn “vang bóng”. Là thời Tây vừa đặt xong ách đô hộ lên nước ta, phong trào Cần Vương thất bại, trong không khí loạn lạc và nhiều lo âu, những nhà Nho thui thủi đi dự khoa thi cuối cùng. Viết về thời phong kiến suy tàn ấy, hầu như nhà văn chỉ thấy còn lại những cung cách sống hào hoa, cầu kỳ của đám nho sĩ cuối mùa.
Các nhân vật trong Vang bóng một thời thuộc loại tài hoa và sống tài tử. Như ông Huấn Cao có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp” (truyện Chữ người tử tù). Như cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ chùa Đồi Mai… những người thành kính đến mức thiêng liêng khi thưởng thức một ấm trà; pha trà với nước giếng gánh từ trên đồi cao hoặc nước đọng ở lá sen trên mặt hồ mỗi buổi sớm (truyện Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm).
Như cụ nghè Móm, nghèo mà vẫn “thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản”, đánh bạc bằng thơ dưới trăng rằm trên mặt sông, tiếng ngâm thơ “âm hưởng trên làn nước lạnh… như tiếng vang của một hội tao đàn nào”(truyện Thả thơ). Như ông Cử Hai với những cuộc phiếm du bầu rượu túi thơ. Và như bọn cướp có miếng đòn “ném bút chì” lợi hại và nghệ thuật, là những nghệ sĩ trong nghề của họ (truyện Ném bút chì)…
Các nhân vật đó được nhà văn mô tả tỉ mỉ, coi đó là những “tài hoa”, và coi kiểu sống “tài tử” đó như là “đạo sống” của họ! Đó là một cách nhà văn biểu hiện phần nào thái độ chán ghét cuộc đời tầm thường, xấu xa trước mắt. Đặc tính này vừa là cái mạnh làm hưng phấn khiến Nguyễn Tuân viết tác phẩm có sức hấp dẫn; nó cũng bộc lộ sự hạn chế của nhãn quan nhà văn, đó là cách nhìn nặng về hoài cổ.
Tuy nhiên, trong Vang bóng một thời, còn có bóng dáng của những nhân vật có khí phách, đứng lên chống lại xã hội đen tối (truyện Chữ người tử tù). Và, còn có lòng thù hận bọn thực dân tàn ác cùng lũ tay sai (truyện Chém treo ngành). Lối kể chuyện có sức cuốn hút, và nhất là thứ ngôn ngữ thuần Việt đã làm cho Vang bóng một thời đạt tới thành công đỉnh cao của văn chương Nguyễn Tuân trước năm 1945 nói riêng, và cả đời văn Nguyễn Tuân nói chung.
Vào lúc đang nổi danh trên văn đàn, cuối năm 1940, Nguyễn Tuân lại bị bắt ở Hà Nội, cũng do tính khí và thái độ đối với người Tây, và bị giam vào trại tập trung ở Vụ Bản, Nho Quan một năm. Ra khỏi trại tập trung, Nguyễn Tuân lại chuyên chú vào sáng tác văn chương, ông liên tiếp cho ra đời nhiều tác phẩm: Thiếu quê hương, Nhà bác Nguyễn, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, Tuỳ bút…
Trong con người Nguyễn Tuân chất chứa mối bất hoà sâu sắc đối với cái xã hội trưởng giả tầm thường, tù đọng, nhưng bản thân ông thì vẫn sống rất bế tắc. Những điều đó thể hiện cả trong văn của ông. “Càng về sau, Nguyễn Tuân càng chìm sâu vào bế tắc, khủng hoảng và cho in những sáng tác ma quái (Xác Ngọc Lan, Đói roi rượu bệnh…)”- Từ điển văn học, tập II, NXB Khoa học xã hội-1984. Thật sự may mắn cho Nguyễn Tuân là, đang chìm sâu vào bế tắc, thì Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đã giải phóng cho tâm hồn cũng như nghệ thuật của ông. Nguyễn Tuân lập tức hoà mình vào cuộc sống mới.
Bìa cuốn Vang bóng một thời do NXB Chinh Ký in năm 1953.
Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tham gia một Đoàn văn hoá kháng chiến, làm công tác tuyên truyền ở Thanh Hoá và Vinh. Bởi đã có kinh nghiệm về nghệ thuật sân khấu từ trước, năm 1947 Nguyễn Tuân phụ trách một đoàn kịch lưu động, phục vụ kháng chiến vùng khu V. Năm 1948, ông ra Việt Bắc dự Đại hội thành lập Hội văn nghệ Việt Nam, đ¬ược bầu làm Tổng thư ký Ban chấp hành Hội, và giữ chức vụ này đến năm 1958.
Trong kháng chiến chống Pháp, công tác ở cơ quan Hội văn nghệ đóng tại Việt Bắc, Nguyễn Tuân đã tham gia nhiều chiến dịch, có những chuyến đi thực tế vùng hậu địch. Ông viết được nhiều tác phẩm phục vụ đắc lực đời sống kháng chiến như Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1953), Tuỳ bút kháng chiến (1955), Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình (1956)… Có thể thấy rõ, Nguyễn Tuân hầu như đã rũ bỏ được cái tôi khinh bạc cũ, hoà mình vào đời sống nhân dân, và đã viết văn vì sự nghiệp lớn của dân tộc. Điều đó khiến văn chương của ông có sự thay đổi hẳn về chất.
Nhận xét về Nguyễn Tuân trước năm 1945, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Nguyễn Tuân là nhà văn đứng riêng ra một phái. Những tập văn của ông không phải là tuỳ bút, cũng ngả về tuỳ bút không ít thì nhiều. Ông lại không thể nào bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất cứ về việc gì, nên có nhiều đoạn lê thê… Tuy vậy, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”.
Trong văn chương kháng chiến của Nguyễn Tuân, ông đã khắc phục được cái sở đoản của mình trước đây, là rũ bỏ được cái tôi khinh bạc. Đồng thời thấy ông đã phát huy sở trường của mình là, quan sát đời sống rất lọc lõi tinh tế, suy nghĩ thâm trầm, sâu sắc.
Nền văn học nước ta sau năm 1945 khuyến khích nhà văn đi vào đời sống, theo xu hướng biểu dương, ca ngợi cái hay, cái tốt của con người và cuộc sống mới trong kháng chiến chống Pháp, cả trong thời gian hoà bình kiến thiết ở miền Bắc cũng như trong kháng chiến chống Mỹ. Với xu hướng như vậy, thể ký trở nên rất thịnh. Và thể ký chính là thế mạnh của Nguyễn Tuân, đặc biệt là tuỳ bút.
Sau Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, ông viết Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, tập II (1957), rồi năm 1960 lại có tập tuỳ bút Sông Đà rất nổi tiếng. Những bài ký viết thời miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, Nguyễn Tuân tập hợp trong tập Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), là một thành tựu mới nữa, ông đóng góp cho văn chương nước nhà.
Tạp chí chuyên đề về Nguyễn Tuân.
Thời gian sáng tác trước năm 1945 của nguyễn Tuân chừng không đến 10 năm, dù ông xuất bản hàng chục đầu sách, nhưng thành công đỉnh cao là tác phẩm Vang bóng một thời. Thời kỳ này, thành công về truyện của ông đã khiến ông trở thành một tên tuổi lớn, mặc dù Vũ Ngọc Phan có nhận xét truyện ông “ngả về tuỳ bút không ít thì nhiều”. Và, Trương Chính nhận xét còn độc đáo hơn: “Ông là nhà viết tiểu thuyết mà lại không sáng tạo được một nhân vật nào, ngoài nhân vật đại diện cho ông là chàng Nguyễn”.
Văn chương Nguyễn Tuân không chú vào làm hay ở “truyện” và ở hư cấu, chúng tôi thấy ông chuyên sâu vào làm hay ở “lời văn” và ở sự thật đời sống. Đấy là phẩm chất lớn của văn chương Nguyễn Tuân, khiến cả đời văn ông đứng riêng ra một phái, xin gọi là “phái tuỳ bút”. Sau năm 1945, ông có liên tục hơn 40 năm sáng tác văn học, viết đều, viết nhiều, và chuyên chú thật sâu vào thể ký. Nghĩ cho cùng, là ông đã vứt bỏ sở đoản mà chỉ phát huy sở trường của mình. Phẩm chất tuỳ bút của Nguyễn Tuân đã hay ngay từ Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua… Đó là những trang viết về uống trà, chơi chữ, phóng bút chì, thả thơ… với sự hiểu biết thâm sâu về tục lệ, con người, văn hoá Việt Nam.
Phẩm chất tuỳ bút của Nguyễn Tuân hay cho tới Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi…vẫn là sự hiểu biết thâm hậu về đời sống, văn hoá, con người Việt Nam, ông tích luỹ suốt cả đời văn, và viết ra bởi một ngôn ngữ “hoàn toàn Việt Nam” như nhận xét của Vũ Ngọc Phan.
Chúng tôi chỉ muốn nói thêm rằng, với một ngôn ngữ riêng do Nguyễn Tuân tu luyện mà có, ông là một nhà văn thật độc đáo và cũng thật sự tài hoa. Nguyễn Tuân qua đời tại Hà nội năm 1989, để lại cho đời nhiều tác phẩm, từ truyện, ký, đến phê bình, dịch thuật, trong đó “ký Nguyễn Tuân” hay “tuỳ bút Nguyễn Tuân” như người đời ghi nhận, thực sự là một giá trị đóng góp cho nền Văn chương Việt Nam hiện đại!
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa