Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2012

Ba chị em nhà họ Tống

Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Thay Lời Tựa
Trong lịch sử cận đại, không có một gia đình nào có thể khuynh đảo lịch sử quốc gia và đời sống của hàng trăm triệu người như gia đình họ Tống của Trung Hoa. Trên một nửa thế kỷ, những người của gia đình này đã dùng mọi thủ đoạn để độc chiếm quyền lực chính trị và tài chánh của Trung Hoa, và đã thu thập được những tài sản khổng lồ, lớn nhất thời đại.
Dòng họ Tống gồm những ai?
Họ là con cháu của một gã thiếu niên đi hoang. Gã thiếu niên đó gặp cơ duyên may mắn qua được Hoa Kỳ, sống dưới sự che chở của giáo hội Methodist vào khoảng cuối thế kỷ 19. Gã thiếu niên may mắn đó vốn người họ Hàn tại đảo Hải Nam, nhưng khi sang Hoa Kỳ, hắn đổi tên là Tống Charliẹ Khi trưởng thành và trở về Trung Hoa, Tống Charlie lấy tên là Tống Giáo Nhân, và tạo được một sản nghiệp đồ sộ bằng nghề in và bán sách Thánh Kinh. Tống Giáo Nhân cũng bí mật tham gia phong trào cách mạng của Tôn Dật Tiên, chống lại triều đình Mãn Thanh.
Nếu Tống Giáo Nhân không có ba cô con gái thì cuối cùng gia đình nhà họ Tống sẽ không giầu sang quyền thế đến thế, và cũng sẽ chỉ là một gia đình trọc phú tầm thường trong cái đám đông đảo những người Trung Hoa giầu có. Nhưng Tống Giáo Nhân sinh được ba cô con gái rất quý tướng. Đúng ra Tống Giáo Nhân có sáu người con, ba trai và ba gái. Nhưng chính ba cô con gái này đã trở thành những nhân vật xuất chúng trên chính trường Trung Hoa, vì kết hôn với những lãnh tụ lớn của Trung Hoa. Ba chị em nhà họ Tống đã tạo được một sự nghiệp chính trị hiển hách và những sản nghiệp vĩ đại cho nhà họ Tống.
Trong số ba người con gái của Tống Giáo Nhân, chỉ có bà Tống Khánh Linh tạo được một địa vị cao quý trong lịch sử và tâm hồn người Trung Hoa. Bà được cả hai phe cộng sản và Quốc dân đảng kính trọng. Tống Khánh Linh kết hôn với Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng Trung hoa của đầu thế kỷ 20. Trong lịch sử Trung hoa có hai cuộc cách mạng quan trọng nhất, đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu của xã hội và nhà nước. Cuộc cách mạng thứ nhất là của Tần Thủy Hoàng năm 221 trước tây lịch, đã chấm dứt kỷ nguyên phong kiến, và thiết lập chế độ quân chủ tập quyền chuyên chế. Cuộc cách mạng thứ hai là của Tôn Dật Tiên năm 1911, còn được gọi là cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi đã lật đổ sự thống trị của vua chúa, và dẫn tới việc thành lập chế độ dân chủ.
Khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, bà Tống Khánh Linh trở thành biểu tượng sống của cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Bà quyết định ở lại với những người cộng sản chiến thắng năm 1949, từ chối không rời bỏ nước Trung Hoa yêu quý của bà. Bà không bao giờ theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng bà được những người cộng sản, từ Mao Trạch Đông trở xuống, hết sức kính trọng và biệt đãi. Chu Ân Lai đã từng gọi bà là "một người cao quý nhất của quốc gia". Không những chỉ riêng người Trung Hoa kính trọng bà Tống Khánh Linh, mà cả người ngoại quốc cũng ngưỡng mộ bà. Nhiều chánh khách quốc tế đã tỏ lòng quý trọng bà. Đại học Victoria của Gia Nã Đại đã trao tặng bà văn bằng Tiến sĩ Luật Khoa danh dự ngày 8-5-1981.
Tất cả những người con khác của Tống Giáo Nhân đều đi theo Tưởng Giới Thạch, vì có lợi cho họ. Cô con gái út nhà họ Tống là Tống Mỹ Linh kết hôn với Tưởng Giới Thạch, và là một vị đệ nhất phu nhân đầy quyền thế. Cô con gái lớn của nhà họ Tống là Tống Ái Linh thì kết hôn với Khổng Tường Hy, nhà tài phiệt số một của Trung Hoa, cháu 75 đời của Khổng Tử. Tống Ái Linh đã trở thành người đàn bà nhiều tiền nhất Trung Hoa.
Ba người con trai của Tống Giáo Nhân là Tống Tử Văn, Tống Tử Lương và Tống Tử An. Tống Tử Văn trở thành cánh tay đắc lực cho Tưởng Giới Thạch, nhờ công ơn của hai bà chị và cô em gái là vợ của Tưởng Giới Thạch. Tống Tử Văn đã giữ những chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng, như bộ trưởng tài chánh, bộ trưởng ngoại giao và thủ tướng. Trong chính thể Quốc dân đảng thối nát tham nhũng thì quyền đẻ ra tiền, vì thế các người con trai nhà họ Tống cũng tạo được những sản nghiệp khổng lồ. Trừ bà Tống Khánh Linh, mỗi người trong gia đình nhà họ Tống có tài sản lên tới cả tỷ mỹ kim, trong khi đó hàng triệu người Trung Hoa chết đói hàng năm.
Một điều ngạc nhiên là ba chị em nhà họ Tống có những sự nghiệp khác hẳn nhau. Mặc dầu tình chị em giữa ba người bao giờ cũng thân thiết, nhưng con đường đi của họ hoàn toàn xa cách nhau. Người ta có thể nói ba chị em nhà họ Tống tiêu biểu cho ba khuynh hướng chính trị tại Trung Hoa trong đầu thế kỷ 20, với Tống Ái Linh đứng về phía cực hữu, Tống Khánh Linh phía cực tả trong khi Tống Mỹ Linh thì đứng giữa.
Ba chị em nhà họ Tống đã là đề tài sôi nổi nhất cho các nhà tướng số Trung Hoa, mặc dầu cả ba chị em nhà họ Tống đều không tin bói toán, và chưa bao giờ đi xem bói toán, vì họ là những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Các nhà tướng số Trung Hoa đã căn cứ vào các tấm hình của ba chị em nhà họ Tống trên báo chí để đưa ra những nhận xét về tương lai và sự nghiệp của ba bà. Một điều các nhà tướng số đều đồng ý là cả ba chị em nhà họ Tống đều có tướng "vượng phu", có nghĩa là có tướng giúp chồng thành công. Các ông chồng của ba chị em nhà họ Tống đều "làm nên" là nhờ tướng tốt của vợ.
Đối với các nhà tướng số Trung Hoa thì hơi khó đoán cho Tống Ái Linh, vì Tống Ái Linh không thích chụp hình, và hình của bà cũng ít xuất hiện trên báo chí. Theo các nhà tướng số thì Tống Ái Linh có khuôn mặt "hạt dưa", có nghĩa là mặt trái soan. Người Trung hoa rất ưa thích đàn bà con gái có khuôn mặt trái soan. Một người đàn bà được coi là có tướng tốt nếu người ta không nhìn thấy hàm từ phía sau. Khuôn mặt trái soan của Tống Ái Linh không những được coi là đẹp, mà còn chứng tỏ bà là một người rất khôn ngoan kín đáo, và tính tình rất thực tế nữa. Quả thực các nhà tướng số đoán đúng con người của Tống Ái Linh, một người luôn luôn đứng sau hậu trường để chỉ huy, không xuất đầu lộ diện trước công chúng, nhưng tiền bạc lúc nào cũng đổ vào các trương mục ngân hàng của bà. Không những kín đáo mà Tống Ái Linh còn có một tâm địa độc ác, không ngần ngại dùng những biện pháp mạnh nếu gặp trở ngại, nhưng bao giờ cũng ở trong bóng tối.
Tống Khánh Linh có khuôn mặt tròn và hơi nhỏ, với những nét đẹp cực kỳ thanh tú. Bà có một vẻ mặt cao quý và trang nghiêm của một người thiên về lý tưởng. Khuôn mặt Tống Khánh Linh là khuôn mặt của một công chúa. Ngay khi đã lớn tuổi, Tống Khánh Linh vẫn giữ được vẻ đẹp quý phái và nhân hậu này. Bà là người được rất nhiều chính khách ái mộ, cả về nhan sắc và nhân cách. Bề ngoài bà có vẻ yếu đuối, nhưng tinh thần bà rất mạnh mẽ, lúc nào cũng sáng chói không lay chuyển hoặc nhượng bộ, ngay cả trong những nghịch cảnh.
Tống Mỹ Linh thường được coi là người đẹp nhất trong ba chị em, nhưng Tống Mỹ Linh chụp hình không ăn ảnh lắm. Gò má Tống Mỹ Linh hơi cao, và đó là tướng của một người có uy quyền. Các nhà tướng số thường chỉ vào lưỡng quyền cao của Tống Mỹ Linh và đoán bà sẽ có được quyền lực chính trị. Trong cái địa vị của một đệ nhất phu nhân trong một nước Trung Hoa hãy còn phong kiến thì Tống Mỹ Linh có cái uy quyền của một Dương Qúy Phi đang được sự sủng ái của Tưởng Giới Thạch, một thứ Đường Minh Hoàng hiện đại. Khi kết hôn với Tống Mỹ Linh, Tưởng Giới Thạch thừa hưởng cái sự nghiệp chính trị hiển hách cũng như uy tín của Tôn Dật Tiên, vì Tôn Dật Tiên cũng là rể nhà họ Tống như Tưởng Giới Thạch. Chính vì thế Tưởng Giới Thạch cũng cảm thấy chịu ơn Tống Mỹ Linh một phần nào. Thực ra khi Tôn Dật Tiên chết, Tưởng Giới Thạch ước ao được kết hôn với bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Tôn Dật Tiên, bởi vì nếu lấy được bà Tống Khánh Linh thì Tưởng Giới Thạch sẽ có uy thế chính trị lớn lao gấp bội. Nhưng bà Tống Khánh Linh vốn khinh tởm Tưởng Giới Thạch, và bà cũng quyết tâm thủ tiết với chồng, mặc dù bà có nhiều chính khách tên tuổi theo đuổi, nên họ Tưởng đành lấy cô em vậy.
Gia đình nhà họ Tống ảnh hưởng tới chánh sách của tổng thống Mỹ Roosevelt về Á Châu trong một thời gian khá lâu dài. Những người nhà họ Tống rất giỏi khoa giao tế, và biết cách mua chuộc các chính khách Hoa Kỳ. Ngoài ra sự thành công của họ còn nhờ một phần lớn vào sự ủng hộ của Henry Luce, một nhà truyền giáo Mỹ rất có thế lực tại Trung Hoa. Các tạp chí Time và Life của Henry Luce đã tạo huyền thoại quanh gia đình nhà họ Tống, mô tả họ là những người yêu chuộng dân chủ, và là những anh hùng dân tộc của Trung Hoa.
Chúng ta hãy theo dõi cuộc đời của ba chị em nhà họ Tống, để xem họ đã đem lại vinh quang cho dòng họ nhà chồng và dòng họ Tống như thế nào, và ảnh hưởng của họ đối với chính trường Trung Hoa đầu thế kỷ 20 ra sao.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 1 Vận May Của Một Chú Bé Triều Châu
Tống Charlie vốn họ Hàn và sinh tại đảo Hải Nam thuộc mỏm cực nam của Trung Hoa. Tổ tiên nhà họ Hàn lánh nạn Mãn Thanh và di cư từ vùng Sơn Tây tới đảo Hải Nam từ lâu đời rồi. Lúc đầu họ bị dân bản xứ gọi là Hakka, có nghĩa là "Khách Trú", nhưng dần dần họ kết hợp với người địa phương tại đảo qua những cuộc hôn nhân giữa hai nhóm dân, và cuối cùng trở thành người Triều Châu. Thân phụ Tống Charlie là Hàn Hùng Kỳ, một thương gia khá giả, sống bằng nghề thương thuyền, buôn lậu và buôn thuốc phiện. Người Triều Châu có khuynh hướng lien kết với nhau chặt chẽ trong lối sống và công việc kinh doanh. Họ tổ chức thành những bang hội. Hàn Hùng Kỳ cũng là một bang trưởng Triều Châu.
Hàng năm cứ về mùa hè, những người Triều Châu tại Hải Nam chất đầy hàng hóa lên những thương thuyền của họ, và chở tới bán tại các vùng duyên hải miền bắc Trung Hoa. Khi mùa đông đến, để tránh cái lạnh của miền bắc, họ chở hàng hóa xuôi về miền nam, đem đến bán tại Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương. Thương thuyền của họ rất lớn, hai đầu cong lên, hai bên mạn thuyền vẽ hai con mắt, giống như mắt gà. Những tay lái buôn này bình thường làm ăn lương thiện, nhưng gặp lúc thuận lợi, bắt gặp một thương thuyền nhỏ bé yếu thế hơn, họ trở thành những tay hải tặc, tấn công thuyền lạ, cướp của, giết người, quăng xác nạn nhân xuống biển, và đánh đắm thuyền của nạn nhân cho mất tang tích. Đôi khi trên đường viễn thương, nếu gặp một làng mạc duyên hải nào trù phú mà không có sự phòng thủ, họ cũng xông vào, tấn công đoạt của và giết người.
Theo tục lệ của người Triều Châu, các con của bang trưởng phải đi tập sự làm việc buôn bán tại các chi nhánh khắp nơi. Khi Tống Charlie lên 9 tuổi thì được ông bố gửi đi theo người anh lớn đang tập sự hành nghề tại đảo Java của Nam Dương. Năm 12 tuổi, Tống Charlie gặp được một người bà con xa vào hàng cha chú. Người chú hờ này đi Nam Dương mua hàng về bán tại Hoa Kỳ. Người chú hờ gặp Tống Charlie liền có ý định dụ hắn đi theo sang lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Thực tâm người chú hờ chỉ có ý lợi dụng, đem Tống Charlie sang làm việc không công cho mình. Nhưng đó cũng là vận may hãn hữu cho Tống Charlie, và hắn lập tức đi theo người chú hờ.
Năm 1862, chính phủ liên bang Hoa Kỳ quyết định phát triển hệ thống xe lửa xuyên lục địa, nối hệ thống xe lửa từ bờ biển phía đông sang bờ biển phía tây Hoa Kỳ, từ Philadelphia trên bờ Đại Tây Dương sang San Francisco trên bờ Thái Bình Dương. Đây là một đại công trình dài tới 4500 cây số đường sắt, chạy xuyên qua những cánh đồng mênh mông của miền đông và những vùng hoang vu sa mạc, những đỉnh cao của rặng núi Sierra Nevada của miền tây. Hai công ty được giao phó xây dựng công trình này là Union Pacific bắt đầu từ miền đông, và Central Pacific bắt đầu từ miền tây. Hai công ty dự định đường xe lửa từ hai đầu sẽ gặp nhau tại trung tâm Hoa Kỳ.
Công ty Union Pacific gặp thuận lợi hơn, vì miền đông là đồng bằng nên không gặp trở ngại, và cũng dễ tuyển nhân công vì dân cư vùng này đông đúc và có nhiều di dân từ Âu Châu sang. Trái lại công ty Central Pacific gặp rất nhiều khó khăn, phải xây đường xe lửa vượt qua các rặng núi tuyết và sa mạc thuộc tiểu bang Nevadạ Hơn nữa công nhân tại miền tây rất khan hiếm; công ty chỉ tìm được một số người da đen mới được giải phóng, và một số người Mê Tây Cơ di cư bất hợp pháp. Những người này lại lười biếng và hay bỏ bê công việc. Công nhân người Mỹ da trắng thì ít ai chịu làm một công việc vừa nguy hiểm gian khổ vừa ít lương như thế. Cuối cùng công ty tuyển thử một số người Trung Hoa, và kết quả là người Trung Hoa làm việc rất chăm chỉ, hiệu quả gấp đôi những toán nhân công khác. Hơn nữa, công nhân Trung Hoa bằng lòng một số lương rẻ bằng phân nửa của công nhân Mỹ.
Thế là hàng chục ngàn người Trung Hoa tham gia xây cất đại công trình này, và người Trung hoa chiếm tới 80% công nhân của công ty Central Pacfific. Đến năm 1865, các công nhân Trung Hoa bắt đầu đụng phải những khối đá hoa cương đầu tiên trong rặng núi Sierra Nevadạ Họ phải chịu đựng những trận bão tuyết, làm việc trong cái lạnh dưới không độ, phải làm việc tại những nơi nguy hiểm, cheo leo trên những vách đá thẳng đứng. Tuy thế, công việc vẫn tiến triển đều đặn. Gần hai năm sau, đường xe lửa vượt qua được sang bên kia rặng núi Sierra Nevadạ Trên một ngàn công nhân Trung Hoa đã thiệt mạng trong các tai nạn, như đá lở, cốt mìn nổ trúng, bị tuyết vùi hoặc chết cóng. Nhưng người này chết thì lại được bổ xung bằng người khác. Số công nhân Trung Hoa du nhập vào Hoa Kỳ lên đến trên một trăm ngàn người.
Ngày 10-5-1869, hai toán công nhân miền đông và miền tây đã gặp nhau tại một địa điểm trong tiểu bang Utah. Thế là đại công trình đã hoàn tất, và công nhân Trung Hoa đã góp một phần lớn vào sự hoàn thành đường xe lửa này. Hai công nhân Trung Hoa đại diện cho miền tây, và hai công nhân Ái Nhĩ Lan đại diện cho miền đông, khiêng khúc đường rầy cuối cùng đặt xuống, trước tiếng reo hò của đông đảo quan khách trong ngày lễ khánh thành. Toàn thể nước Mỹ hân hoan chào mừng ngày vui lớn đó. Trong khi người Mỹ ăn mừng thành quả lớn lao ấy thì các công nhân xây cất đường xe lửa bị sa thải, vì hết công việc.
Với sự cần cù làm việc và tinh thần tiết kiệm, sau một thời gian làm công nhân xây cất đường xe lửa, nhiều người Trung Hoa đã có đủ tiền để mở những tiệm buôn nhỏ. Người chú hờ của Tống Charlie cũng ở trong trường hợp này. Ông ta mở được một tiệm bán trà và đồ khô của người Trung Hoa tại thành phố Boston. Khi Tống Charlie tới Boston, hắn phải làm việc trong cửa tiệm của ông chú suốt ngày, và cả bảy ngày trong tuần. Lúc đó tại thành phố Boston cũng có một số sinh viên người Trung Hoa sang du học do các nhà truyền giáo gửi tới. Các sinh viên Trung hoa du học thường lui tới tiệm của Tống Charlie để mua đồ. Trong số những sinh viên đến tiệm có Văn Bình Chung và Mai Sơn Châu. Hai người trở nên thân thiết với Tống Charlie.
Hai sinh viên này thấy rằng nếu Tống Charlie cứ tiếp tục làm việc tại tiệm trà như thế thì sẽ không có tương lai gì. Họ nghĩ Tống Charlie cần phải đi học thêm để có một tương lai sáng sủa hơn. Cả hai người tới gặp người chú của Tống Charlie, và yêu cầu ông ta cho phép Tống Charlie đi học, ít nhất là bán thời gian. Ông chú hờ tỏ ra rất tức giận trước đề nghị này, vì thực tâm ông ta chỉ muốn lợi dụng sự làm việc của Tống Charlie mà không phải trả lương. Ông ta từ chối đề nghị của Văn Bình Chung và Mai Sơn Châu. Ông quyết liệt nói với Tống Charlie rằng muốn khấm khá thì nên đi theo con đường làm ăn của ông ta, cần gì phải đi học cho tốn kém. Hãy theo gương của ông tạ Ông ta có cần học hành gì đâu mà cũng làm chủ được một cửa tiệm rất phát đạt.
Tống Charlie dĩ nhiên rất bất mãn không được đi học như ý muốn, nên đã rắp tâm muốn thoát ly khỏi cửa tiệm của ông chú hờ. Một hôm hắn ra bến tầu, thơ thẩn đứng chơi. Chợt hắn trông thấy một chiếc tầu buôn sắp sửa nhổ neo rời bến. Không kịp suy nghĩ, Tống Charlie chạy vội xuống chiếc tầu đang sửa soạn ra khơi và tìm một chỗ thật kín đáo để nấp. Mãi khi con tàu ra khơi rồi người trên tầu mới bắt được Tống Charliẹ Viên thuyền trưởng chiếc tàu này vốn là một người rất mộ đạo, thuộc giáo hội Methodist. Tống Charlie kể nông nỗi phải trốn khỏi cửa tiệm của ông chú hờ để tìm cách được đi học. Viên thuyền trưởng thương tình cảnh của một đứa trẻ 15 tuổi, và định tâm giúp đỡ Tống Charlie.
Viên thuyền trưởng tìm cách đưa Tống Charlie vào dòng truyền giáo Methodist tại North Carolinạ Tống Charlie liền được hội truyền giáo chú ý ngay vì Tống Charlie là người Trung Hoa. Các nhà truyền giáo Methodist vẫn thèm khát cái "thị trường tôn giáo" đông đảo của Trung Hoa, nơi họ ước ao sẽ gặt hái được hàng triệu linh hồn đi theo họ. Họ quyết định cho Tống Charlie theo học trường truyền giáo để được huấn luyện thành một nhà truyền giáo, và sau đó sẽ được đưa về hoạt động tại Trung Hoa.
Tống Charlie cũng tỏ ra có nhiều tiến bộ trong việc học, mặc dù hắn không có căn bản giáo dục. Tuy vậy Tống Charlie thường chú ý đến con gái nhiều hơn là việc đọc sách Thánh Kinh. Có lần Tống Charlie đã bị tống cổ ra khỏi nhà một giáo sĩ truyền giáo mà hắn đang ở trọ, vì hắn lân la tán tỉnh cô con gái cưng của chủ nhà. Đến năm 1885, Tống Charlie tốt nghiệp trường truyền giáo, và được hội truyền giáo quyết định gửi về phục vụ giáo hội Methodist tại Thượng Hải. Tháng 12 năm đó, Tống Charlie lên đường hồi hương bằng xe lửa xuyên qua Hoa Kỳ để tới California. Tống Charlie đi trên con đường xe lửa do chính đồng bào của hắn đã đóng góp nhiều công lao để thiết lập nên.
Trên chuyến xe lửa xuyên Hoa Kỳ đi về miền tây, Tống Charlie không hề hay biết rằng với vẻ mặt người Trung Hoa, hắn có thể gặp nguy hiểm bất cứ lúc nào, một sự nguy hiểm có thể đưa tới cái chết mất xác. Lúc đó người Trung Hoa sống tại Hoa Kỳ đang trải qua một thời kỳ bị khủng bố khủng khiếp. Trên những cánh đồng đầy hoa trái và những rặng núi màu tím hùng vĩ của miền tây Hoa Kỳ, người Trung Hoa đang bị người Mỹ trắng săn đuổi và lột da đầu. Vào những năm của thập niên 1880, miền tây Hoa Kỳ trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, việc làm rất khan hiếm khiến, và con số người thất nghiệp gia tăng rất nhanh chóng. Giới chủ nhân người Mỹ gặp dịp người khôn của khó, người thất nghiệp thì nhiều, và nhu cầu thì lại ít, lợi dụng thời cơ của chủ nhân ông, xa thải người da trắng và mướn người Trung Hoa thay thế. Người Trung Hoa làm việc chăm chỉ hơn người Mỹ trắng, chấp nhận đồng lương bằng nửa người Mỹ trắng, và không dám đưa ra các yêu sách đòi hỏi chủ nhân như những công nhân da trắng có nghiệp đoàn.
Để trả đủa lại, các công nhân da trắng thất nghiệp khuấy động phong trào điệt trừ "mối hiểm họa da vàng" trên báo chí, và được sự ủng hộ của các chính trị gia thời cơ muốn lấy phiếu của cử trị Các khu vực của người Trung Hoa bị tấn công và đốt cháy. Những người da trắng quá khích tổ chức những buổi party "cắt đuôi heo", đè người Trung Hoa xuống rồi cắt mớ tóc đuôi sam của họ. Không những người Mỹ da trắng chỉ cắt cái đuôi sam của các nạn nhân người Trung Hoa mà thôi, họ còn tàn nhẫn lột luôn cả da đầu nạn nhân nữa.
Tại một vài nơi thuộc tiểu bang Montana, một số người Trung Hoa bị chặt đầu. Một đám đông tại Rock Spring, tiểu bang Wyoming, chặt đầu 28 người Trung Hoa trong thành phố và đốt sống những người khác trong lúc các mệnh phụ da trắng đứng vỗ tay và cười một cách hả hệ Một cảnh thù hằn độc nhất vô nhị đã xảy ra khi một đám người da trắng đè một người Trung Hoa xuống, lột quần áo và cắt đứt bộ phận sinh dục của nạn nhân. Những người da trắng say men chiến thắng đem cái bộ phận sinh dục ấy vào một tiệm rượu, nướng lên và chia nhau nhậu với rượu, ngon lành như ăn barbecue vậy.
Hàng ngàn người Trung Hoa tìm cách bỏ chạy về Trung Hoa để tránh cái "hiểm họa đa trắng". Những người Trung Hoa có học hoặc giầu có đã rời Hoa Kỳ trở về nước. Nhưng những người Trung Hoa nghèo thì phải cố mà ở lại, vì họ biết rằng trở về Trung Hoa thì cũng lại lâm vào cảnh đói khổ. Con số người Trung Hoa tại Hoa Kỳ từ 110 ngàn người chỉ còn lại khoảng 60 ngàn. Những người Trung Hoa liều ở lại phải đoàn kết với nhau thành từng cộng đồng sống tách biệt hẳn, tránh không hòa nhập vào xã hội Mỹ để sinh tồn. Đúng lúc cuộc tắm máu của người Trung Hoa lên cao độ nhất thì Tống Charlie đang trên đường trở về Trung Hoa.
Tinh thần chống người Trung Hoa lên cao độ đến nỗi Quốc hội Mỹ phải ra một đạo luật giới hạn số người Trung Hoa được di cư sang Hoa Kỳ. Đây là lần đầu tiên chính phủ Mỹ ra một đạo luật như vậy. Thực ra trước kia chính quyền nhà Mãn Thanh ngăn cấm không cho người Trung Hoa xuất ngoại. Nhưng các cường quốc Âu Mỹ cần công nhân rẻ tiền, dùng áp lực buộc nhà Mãn Thanh phải cho người Trung Hoa xuất ngoại. Nước cổ võ và đòi hỏi cho người Trung Hoa xuất ngoại ồn ào nhất là Hoa Kỳ, vì nhu cầu công nhân xây cất đường xe lửa. Nhưng khi đường xe lửa hoàn thành rồi thì đám nhân công Trung Hoa kia bỗng trở nên một gánh nặng, chứ không còn cần thiết và ích lợi như trước nũa. Do đó Quốc hội Mỹ sửa lại điều luật cũ, chỉ cho phép các giáo chức, sinh viên, thương gia và du khách Trung Hoa được nhập cảnh Hoa Kỳ. Những người Trung Hoa đã có mặt tại Mỹ bị cấm vào quốc tịch Mỹ. Năm 1881 có 40 ngàn người Trung Hoa đến Hoa Kỳ, nhưng đến năm 1887 chỉ có 10 người.
Phản ứng tại Trung Hoa về việc tàn sát người Trung Hoa tại Hoa Kỳ rất là ác liệt. Từng đám đông xông vào tàn phá các cơ sở truyền giáo của Mỹ và Âu châu. Tại nhiều nơi, việc đi lại của người Âu Mỹ rất nguy hiểm. Các báo chí Âu Mỹ không hề nhắc nhở tới sự khủng bố dã man mà người Trung Hoa phải chịu đựng tại Hoa Kỳ, trong khi đó thổi phồng và tỏ thái độ phẫn nộ trước những trả đủa của người Trung Hoa. Sự bóp méo sự thực của báo chí tây phương là cớ giúp các cường quốc tây phương áp lực một triều đình Mãn Thanh yếu đuối phải nhượng bộ. Triều đình nhà Mãn Thanh phải phái quân đội đi dẹp những vụ chống đối người tây phương tại Trung Hoa. Triều đình ra tuyên cáo, yêu cầu người Trung Hoa phải "sống hòa bình với các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo". Trong khi đó chính phủ Hoa Kỳ không có những nỗ lực tương tự để chấm dứt phong trào triệt hạ người Trung Hoa tại Hoa Kỳ.
Trong cơn nguy hiểm cho người Trung Hoa tại Hoa Kỳ như thế, Tống Charlie may mắn tới được San Francisco một cách an toàn. Tống Charlie dùng đường thủy, đi tầu Pacific Mail Lines về Thượng Hải qua ngả Yokohamạ Sau mười năm xa cách quê hương, Tống Charlie về đến Thượng Hải vào tháng giêng năm 1886. Con tầu chở Tống Charlie đi vào sông Hoàng Phố, và cặp bến tại Hồng Khẩu.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 2 Nhà Truyền Giáo Họ Tống
Khi Tống Charlie về đến Thượng Hải thì cái thành phố này đang bắt đầu trở thành một thành phố kỹ nghệ và thương mại lớn nhất Trung Hoa. Trên danh nghĩa thì lúc đó nước Trung Hoa đang được vua Quang Tự cai trị, nhưng thực ra thì ông vua trẻ có tinh thần cải cách của nhà Mãn Thanh này đang bị giam giữ trên một hòn đảo nhỏ bên trong Cung Điện Mùa Hạ. Người thực sự nắm giữ vận mạng của mấy trăm triệu người Trung Hoa là Từ Hy, một bà thái hậu đã già và đã nắm quyền từ nhiều năm trước.
Từ Hy là một người đàn bà thông minh, nhưng không hiểu biết gì bên ngoài nước Trung hoa, và do đó đã trở nên lạc hậu trong cái thế kỷ có nhiều tiến bộ tại Tây phương. Từ Hy đã phải nhượng nhiều đất đai cho các cường quốc tây phương, nhưng bà tin rằng một ngày nào đó các nhượng địa sẽ trở về với Trung hoa. Từ Hy được trời cho hưởng tuổi thọ, nhưng bà càng sống lâu càng thấy vương quốc của bà ngày một thu hẹp lại. Nhiều tỉnh trù phú miền duyên hải phải nhượng cho các nước tây phương. Miến Điện bị Anh quốc chiếm; Bồ Đào Nha chiếm Ma Cao; Nga Sô thì chiếm một giải đất mênh mông ở miền bắc, còn Việt Nam rơi vào vòng bảo hộ của Pháp. Từ Hy đã tiếm quyền của vua Quang Tự, nhưng vương quyền ấy đã ung thối vô giá trị từ bên trong, và có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Triều đình nhà Thanh vẫn còn huy hoàng và không thay đổi bên trong Cấm Thành, trong khi thế giới bên ngoài tiến bộ không ngừng. Nhà Thanh còn giữ được sự huy hoàng là nhờ vào tiền thuế hải quan, mô phỏng theo hệ thống thuế hải quan của người Anh.
Thượng Hải thì hoàn toàn nằm trong tay ngoại bang, như những tô giới của người Anh người Pháp. Dần dần cùng với nền khoa học mới, tinh thần văn hóa tây phương xâm nhập vào Thượng Hải và lan ra các vùng kế cận. Các tu sĩ công giáo người Pháp và tu sĩ Thiên chúa giáo của người Anh và Mỹ đã đem theo những tiến bộ y học và tôn giáo của họ đến Thượng Hải. Những phái bộ truyền giáo bành trướng khắp nơi, trên cái đất nước đã cho phép ba tôn giáo khác nhau đồng lưu là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Trong cái không khí phát triển tôn giáo rất nhộn nhịp của cuối thế kỷ 19, giáo hội nào cũng cần có những người như Tống Charlie.
So sánh với khu vực nội địa thì Thượng Hải quả là một thành phố sang trọng. Ngay từ 1843, Thượng Hải đã là một hải cảng dành cho các nước tây phương được quyền khai thác. Sau Hiệp ước Nam Kinh, người Anh phát triển thành phố, biến Thượng Hải thành một thành phố tây phương, và cho phép người Trung Hoa được làm những công việc đầy tớ hoặc mở những cửa tiệm nhỏ. Rồi mỗi khi có nội chiến, Thượng Hải trở thành một trung tâm cho những di dân trốn tránh chiến tranh trong nội địa, và đến sống dưới sự che chở của người ngoại quốc tại đây. Vào lúc Tống Charlie về đến Thượng Hải năm 1886 thì Thượng Hải đã trở thành một thành phố quốc tế, một nơi tiền rừng bạc bể cho những người biết mánh khóe làm giầu, như giới mại bản.
Khi về đến Thượng Hải, Tống Charlie được Dr. Allen, người đứng đầu giáo hội Methodist tại Thượng Hải, phái tới dạy học tại một trường trung học Methodist. Một trong những học sinh đầu tiên của Tống Charlie là Hồ Thích, sau này là đại sứ Trung hoa và là một nhà văn hóa danh tiếng. Hồ Thích không bao giờ quên buổi dạy học đầu tiên của Tống Charliẹ Khi Tống Charlie bước lên bục giảng của giáo sư, tất cả học sinh đều khúc khích cười với nhau, vì thân hình lùn béo và nét mặt xấu trai của Tống Charliẹ Học sinh Trung hoa quen gặp những ông thày trang nghiêm, mảnh khảnh và dáng điệu phong nhã. Hồ Thích tưởng Tống Charlie sẽ bỏ lớp vì xấu hổ khi bị học sinh cười chế nhạo. Nhưng Tống Charlie bình tĩnh lên tiếng, và tất cả học sinh đều im lặng lắng tai nghe cho tới hết giờ. Tống Charlie đã chinh phục lớp học đầu tiên bằng khả năng và lòng tự tin của mình. Các học sinh cũng công nhận Tống Charlie là một nhà giáo xuất sắc, tuy bề ngoài không được hấp dẫn.
Nỗi khổ tâm của Tống Charlie không phải đến từ phía học sinh, vì Tống Charlie rất thành công trong nghề dạy học và được học sinh ưa thích. Sự khổ tâm đến từ Dr. Allen. Mỗi tháng Tống Charlie được trả lương 15 đô la và phải chịu sự khắc nghiệt của Dr. Allen. Dr. Allen không ưa Tống Charlie vì họ Tống được giáo dục tại Hoa Kỳ nên không có sự phục tùng hoàn toàn như những giáo sĩ thuần túy Trung Hoa, chưa từng được xuất ngoại. Dr. Allen cũng không thích sự thành công của Tống Charlie trong việc dạy học.
Đối với cấp lãnh đạo thì đã buồn phiền như thế. Ngay dân chúng ngoài đường phố cũng không ưa Tống Charliẹ Mỗi khi đi ra đường, Tống Charlie trở thành đề tài chế riễu cho người dân ngoài phố, vì cái bề ngoài không giống ai của Tống Charliẹ Hầu hết thanh niên Trung hoa thời đó đều để tóc dài kết thành đuôi sam, và mặc một chiếc áo choàng dài bó lấy người. Riêng Tống Charlie thì cắt tóc ngắn và mặc âu phục. Tống Charlie không đẹp trai theo tiêu chuẩn người Trung hoa: người thì lùn lại khá mập, bộ điệu rất tự nhiên vì do lối sống lâu năm tại Hoa Kỳ, nên không biết che dấu xúc cảm như phần đông người Trung hoa khác. Ngoài ra, người Thượng Hải rất khó hiểu được thổ âm Hải Nam của họ Tống. Bởi vậy mỗi khi Tống Charlie đi dạo phố thì người lớn gọi chàng là "thằng lùn", và con nít thì đuổi theo réo gọi "con quỷ lai căng". Do đó những cảm tưởng đầu tiên của Tống Charlie về cuộc đời tại Thượng Hải không hào hứng lắm.
Mấy tháng sau, Tống Charlie được phép về Hải Nam thăm gia đình sau hơn mười năm xa cách. Cuộc đoàn tụ đem lại cho Tống Charlie nhiều niềm vui. Thân phụ của chàng bây giờ đã là người lãnh đạo của người Triều Châu tại Hải Nam, và người anh cả của chàng đã thay thế thân phụ quán xuyến công việc làm ăn của gia đình. Không những thế, Tống Charlie còn được gia đình giới thiệu gửi gấm với những tổ chức làm ăn bí mật của người Triều Châu tại Thượng Hải.
Sáu tháng sau, Tống Charlie được cử tới một nhiệm sở mới tại một thị trấn cổ hủ có trên ba trăm ngàn dân, nằm bên ngoài Thượng Hải, trên đường đi Tô Châu. Tại đây nhà truyền giáo trẻ tuổi bất đắc dĩ này bị cả người bản xứ và người ngoại quốc xa lánh. Người bản xứ thì không chấp nhận lối ăn mặc và bề ngoài của Tống Charlie, mà họ cho là quá ngoại lai. Còn người tây phương, phần đông là giáo sĩ truyền giáo, thì không ưa Tống Charlie vì vấn đề cạnh tranh nghề nghiệp. Tống Charlie thuê một một căn nhà tranh ở khuất xa mọi người. Đây là giai đoạn Tống Charlie cảm thấy chán nản nghề truyền giáo nhất. Cuối cùng, Tống Charlie phải tự thay đổi cho vừa lòng dân chúng. Chàng bắt đầu mặc áo choàng dài, và chụp lên đầu một cái nón tròn nhỏ để hoà mình với quần chúng.
Cuộc đời vô vị của Tống Charlie cứ thế trôi qua, cho đến một ngày kia vận may của chàng cũng tới. Một hôm Tống Charlie về thăm Thượng Hải. Trong lúc đang lang thang ngoài phố thì tình cờ Tống Charlie gặp Văn Bình Chung, người bạn cũ của những ngày còn ở Boston. Sau khi nghe những lời than thở của Tống Charlie về cảnh sống hiện tại, Văn Bình Chung kết luận Tống Charlie cần phải có vợ, và đó là giải pháp giản dị nhất để giúp Tống Charlie qua được sự buồn phiền. Văn Bình Chung còn tình nguyện làm mai cho Tống Charlie nữa. Thực ra Văn Bình Chung cũng vừa mới lấy vợ, được làm rể Nhiếp gia, một gia đình rất giầu sang, dòng dõi quan tể tướng Văn Định Công đời nhà Minh. Gia đình này đã theo đạo Thiên Chúa từ lâu đời. Chính Văn Bình Chung cũng đã giới thiệu Mai Sơn Châu vào làm rể nhà họ Nhiếp, lấy cô con gái thứ hai của nhà này. Nhà họ Nhiếp còn một cô gái út chưa chồng, và Văn Bình Chung tính làm mai cho Tống Charlie.
Nhiếp phu nhân sinh được ba con gái. Theo tục lệ cổ truyền, bà bó chân cho con gái để giữ được những bàn chân nhỏ xinh đẹp. Việc bó chân cho hai cô con gái đầu lòng thì không có gì trục trặc. Nhưng đến cô gái út thì có phản ứng bất lợi. Mỗi khi bị bó chân thì cô bé đau đớn đến phát sốt lên. Cuối cùng Nhiếp phu nhân phải bỏ ý định ấy. Nhiếp Quế Sương, tên cô gái út, lớn lên với hai bàn chân to bình thường. Nhiếp Quế Sương được gia đình cho đi học theo lối tây phương và biết chơi đàn dương cầm. Chính ba cái khuyết điểm: hai bàn chân to, học cao và chơi đàn là ba yếu tố bất lợi cho đường chồng con của Nhiếp Quế Sương. Thời đó không ai chịu rước về nhà một nàng dâu có tới những ba điều cấm kỵ như thế.
Nếu Nhiếp Quế Sương khó lấy chồng thì Tống Charlie cũng là một thanh niên khó lấy được một người vợ đàng hoàng, vì dáng người thô xấu, mập và lùn, vì thổ ngữ Hải Nam, và vì lợi tức thấp kém trong một xã hội chỉ trọng kim tiền. Bởi vậy hai người gặp nhau thật là tương xứng. Nhiếp phu nhân cũng nhận biết điều này, và bà mau lẹ chấp nhận lời cầu hôn của Tống Charlie do Văn Bình Chung đại diện. Hôn lễ được cử hành vào mùa hè năm 1887. Sau đám cưới, Tống Charlie đưa vợ về nhiệm sở của mình. Với đồng lương 15 đô la một tháng cho hai miệng ăn thì phải giật gấu vá vai mới đủ. Tuy nhiên Nhiếp Quế Sương cũng đem về cho chồng một món hồi môn đáng kể, và gia đình họ Nhiếp có thể đưa Tống Charlie vào các lãnh vực kiếm tiền dễ dàng tại tô giới Anh ở Thượng Hải.
Thực ra Tống Charlie không thiết tha gì với công cuộc truyền giáo. Chàng có một cá tính đặc biệt, một người ưa thích vi phạm luật lệ hơn là tuân giữ luật lệ. Lúc đó xã hội Trung Hoa rất cần những người biết phá bỏ những luật lệ cổ truyền. Những tập tục cổ truyền trở nên một gánh nặng cần phải được cởi bỏ, và đó là thời của giặc cướp trở thành vua chúa. Tống Charlie đang lăm le từ bỏ giáo hội Methodist để tìm một con đường thích hợp với bản chất của mình hơn.
Năm 1888, Tống Charlie được giới thiệu vào các tổ chức bí mật tại Thượng Hải và bắt đầu giai đoạn hoạt động cách mạng. Tống Charlie gia nhập Hồng Hội, một tổ chức chống lại triều đình Mãn Thanh. Chính Văn Bình Chung đã đưa Tống Charlie vào Hồng Hội, và sau này chính Tống Charlie là người đã in những tài liệu bí mật của hội. Hồng Hội giúp đỡ hội viên về tinh thần và vật chất, và nhằm mục đích lật đổ nhà Mãn Thanh. Hồng Hội đã theo đuổi mục tiêu này từ ba thế kỷ trước, kể từ ngày nhà Minh bị nhà Mãn Thanh thay thế.
Tuy nhiên cơ hội giúp Tống Charlie làm giầu chưa đến ngaỵ Chàng rất thành công trong nghề truyền giáo. Năm 1888, Tống Charlie được lên chức mục sư, năm sau được đổi về Thượng Hải, và năm 1890 thì chính thức được bổ nhiệm trông coi một nhà thờ tại Thượng Hải, không còn phải đi thuyết giảng lưu động như trước kia nữa. Chính lúc này Tống Charlie đã thành lập được một nhà in. Bây giờ chàng không còn cần giáo hội Methodist nữa, và từ chức.
Ngay từ cuối năm 1889 Tống Charlie đã bắt đầu in Thánh Kinh, và được giáo hội Methodist trợ cấp. Sau đó Tống Charlie in Thánh Kinh cho nhiều giáo hội khác nhau và nhận trợ cấp của các giáo hội ấy. Đến khi nhà in của Tống Charlie bắt đầu in các loại sách khoa học, lịch sử và kỹ thuật của tây phương thì lợi tức của họ Tống đã khá lắm rồi.
Đầu năm 1890 Quế Sương sinh con gái đầu lòng và đặt tên là Tống Ái Linh. Đến ngày 27-1-1892, Tống Khánh Linh ra chào đời. Vào lúc sinh Khánh Linh thì Tống Charlie đã giàu có rồi. Dùng của hồi môn của vợ và tiền đầu tư của Văn Bình Chung, và sự trợ giúp của Hồng Hội, Tống Charlie mua thêm máy in, và một căn nhà trong khu tô giới Pháp để thành lập nhà in Hoa-Mỹ Ấn Quán.

Phú quý sinh lễ nghĩa. Tống Charlie biết mình không phải họ Tống và đã lỡ nhận họ Tống rồi thì muốn cho họ Tống có danh tiếng. Tống Charlie bèn cho in bộ sách "Bách Gia" đầu tiên về các dòng họ Trung Hoa mà chàng cho là danh giá cao quý nhất. Dĩ nhiên trong cuốn Bách Gia này có ghi cả họ Tống để được thừa nhận là người quý phái. Trên các tấm danh thiếp, Tống Charlie bỏ hẳn cái tên lai căng Tống Charlie, và thay thế vào đó là cái tên Tống Giáo Nhân thuần túy Trung Hoa. Cùng với cái tên mới Tống Giáo Nhân, tiền vào tay họ Tống mỗi ngày một nhiều hơn, và Tống Giáo Nhân nghiễm nghiên trở thành một phú thương có máu mặt tại Thượng Hải. Các hoạt động bí mật chống triều đình Mãn Thanh của Tống Giáo Nhân không hề bị phát giác, nhờ đức tính rất kín miệng của Tống.
Thời thế tại Trung hoa đã đến lúc phải thay đổi. Giới sĩ phu cho rằng Trung Hoa bị tây phương làm nhục chỉ vì tây phương có vũ khí mạnh hơn. Họ liền tìm cách chế tạo vũ khí mới và đào tạo quân đội Trung Hoa theo kiểu mẫu tây phương. Một số sĩ phu khác có khuynh hướng cải cách, quan niệm rằng sức mạnh của tây phương không phải là ở vũ khí, mà là ở sức mạnh kỹ nghệ. Lập tức kỹ thuật tây phương được khai thác, và các ngành kỹ nghệ mới như tơ sợi, thuốc lá, thực phẩm, ngân hàng, đóng tàu, và các cơ sở buôn bán bành trướng mau lẹ. Chính trong giai đoạn này giai cấp trung lưu của Trung Hoa bắt đầu xuất hiện. Trong hoàn cảnh đó, Tống Giáo Nhân, một người giỏi thổ ngữ Hải Nam, thổ ngữ Thượng Hải, thông thạo Anh ngữ, và trong lúc đàm đạo lại hay trích dẫn những tư tưởng đạo đức trong Thánh Kinh, đã mau lẹ trở thành một người mại bản có thế lực, và rất thành công đại diện cho tây phương. Một chú bé Triều Châu nghèo khó đi hoang, nay nghiễm nhiên trở thành một triệu phú tại Thượng Hải.

Các Bang Hội Và Công Cuộc Phản Thanh Phục Minh
Người Trung Hoa bất mãn và thù ghét triều đình Mãn Thanh, và lấy các nhân vật Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử làm kiểu mẫu chống lại nhà Thanh. Rất nhiều tổ chức bí mật, bang hội hoạt động cho mục đích lật đổ nhà Mãn Thanh. Biểu tượng cho các tổ chức Phản Thanh Phục Minh là một hình tam giác, còn gọi là Tam Điểm, tượng trưng cho quan niệm nhân sinh của người Trung hoa, gồm có: Trời, Đất và Người.
Bang hội là một nét đặc biệt trong xã hội Trung hoa, biểu thị phản ứng của nông dân, thợ thuyền, dân nghèo tại các thành thị, chống lại sự đàn áp của giai cấp thống trị. Lịch sử Trung Hoa là hàng loạt những cuộc nổi dậy của nông dân chống lại những triều đình hà khắc hoặc những triều đại ngoại xâm. Trong những cuộc nổi dậy ấy, các bang hội đóng vai trò lãnh đạo quần chúng. Hoạt động của các bang hội không phải chỉ là những cuộc đấu tranh chính trị hay vũ trang, mà còn bao gồm nhiều hoạt động khác: có thể là một cuộc tấn công vào nha môn để giết tham quan hoặc giải thoát tù nhân - có thể là phục kích cướp đoạt hàng hóa, tiền thuế, lương thực, hoặc bắt cóc người đòi tiền chuộc - có thể là tấn công các nhà giầu, thương gia hoặc địa chủ...
Thành phần chủ yếu của bang hội là các nông dân không có ruộng phải đi lang thang kiếm miếng ăn, hoặc những thợ thuyền đi vào bước đường cùng, và đặc biệt là những binh lính bị giải ngũ. Khi có chiến tranh thì nhà nước bắt nông dân đi lính ồ ạt, nhưng khi hết chiến tranh, nhà nước sa thải lính hàng loạt tại chỗ. Những người này không có phương tiện trở về quê, đành phải sống lang thang, và dễ gia nhập các bang hội để tìm chỗ nương thân. Vả lại sau một thời gian làm lính, những nông dân hiền lành trở thành những tay côn đồ, quen cướp bóc hà hiếp dân chúng, và do đó họ không còn muốn trở lại với nghề nông nữa.
Một bang hội lâu đời nhất tại Trung hoa là Bạch Liên Giáo, bắt đầu ra đời từ thế kỷ 12, và có một vai trò quan trọng trong công cuộc chống lại sự thống trị của người Mông Cổ. Khi nhà Mãn Thanh chiếm được Trung Hoa, Bạch Liên Giáo cũng phát động vài cuộc nổi dậy, nhưng thất bại. Mặc dù không đạt được thắng lợi, nhưng các bang hội cứ tiếp tục tồn tại trong nhiều thế kỷ. Mỗi lần bị đàn áp, bang hội bị tan rã, nhưng những người còn sống sót lại tiếp tục tập hợp và tổ chức lại. Số hội viên của các tổ chức bí mật này gia tăng rất nhanh, và về sau có đủ thành phần trong xã hội tham gia. Có những tổ chức hoàn toàn vì lòng ái quốc, nhưng cũng có nhóm dùng tinh thần ái quốc che dấu những hoạt động tội ác của họ. Vào cuối thế kỷ 19 có ba tổ chức nổi bật nhất là Thiên Địa Hội, Tam Điểm Hội và Tam Hòa Hội.
Tam Hòa Hội ra đời từ thế kỷ 17, khi người Mãn Châu lật đổ nhà Minh và lập nên nhà Mãn Thanh. Người Trung Hoa không phục người Mãn Châu, và nhiều tổ chức bí mật được thành lập với chủ trương Phản Thanh Phục Minh. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng tham gia công cuộc này. Bề ngoài chùa Thiếu Lâm giả vờ thần phục nhà Thanh để chờ thời cợ Năm 1678, nhà Thanh mở một cuộc chinh phạt một bộ tộc tại Tân Cương. Các nhà sư Thiếu Lâm xin đi theo tham chiến với quân nhà Thanh, nhưng thực tâm muốn tìm cơ hội liên kết với bộ tộc Tân Cương chống lại nhà Thanh. Nhưng âm mưu của các nhà sư Thiếu Lâm bị bại lộ, và tất cả các nhà sư Thiếu Lâm đều bị quan quân nhà Thanh hành quyết, và ngôi chùa bị hỏa thiêu.
Nhưng có năm nhà sư Thiếu Lâm may mắn trốn thoát, và thành lập Tam Hòa Hội, với mục đích diệt nhà Thanh để phục thù. Tam Hòa Hội đã gây khốn đốn cho triều đình, vì thế những người thuộc Tam Hòa Hội mà bị triều đình bắt được thì thường bị những hình phạt tàn khốc hơn các người thuộc bang hội khác. Thực ra Tam Hòa Hội, Tam Điểm Hội và Thiên Địa Hội đều giống nhau trong mục đích là khôi phục nhà Minh, nên mọi người trong ba hội này đều tự nhận là con cháu nhà Minh, tức là Hồng Nhị Chữ Hồng thoát thai từ chữ Hồng Võ, niên hiệu của Chu Nguyên Chương, ông vua khai sáng nhà Minh.
Về tổ chức, lúc đầu Tam Hòa Hội không có cơ quan trung ương, và mỗi hội viên chỉ trực thuộc vào phân đàn của mình. Tam Hòa Hội có năm phân đàn ở năm tỉnh lớn, tượng trưng cho năm vị sư sáng lập, thuộc các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Vân Nam, Hồ Nam và Chiết Giang. Như vậy sức mạnh của Tam Hòa Hội đều tập trung tại miền nam Trung Hoa, và nhà Mãn Thanh cũng bị chống đối mạnh nhất tại miền nam Trung Hoa. Từ giữa thế kỷ 19, Tam Hòa Hội chuyển hoạt động về các thành phố duyên hải, đặc biệt là Thượng Hải, Quảng Châu...
Một trong những lãnh tụ quan trọng nhất trong phong trào Phản Thanh Phục Minh là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Tôn Dật Tiên sinh ngày 12-11-1866 tại một làng ven biển thuộc tỉnh Quảng Đông. Thuở nhỏ Tôn Dật Tiên học trường làng cho đến năm 13 tuổi thì theo mẹ đến đảo Hawaii, vì có người anh di cư lập nghiệp tại đó. Tại Hawaii, Tôn Dật Tiên theo học trường trung học Iolani, một trường nội trú dành cho con trai được sự bảo trợ của Hội truyền giáo Anh quốc. Sau ba năm, gia đình nghe biết Tôn Dật Tiên đã theo đạo Thiên Chúa, nên không cho học nữa và bắt Tôn Dật Tiên phải xuống tàu về nước. Khi về đến Trung hoa, Tôn Dật Tiên biểu thị tín ngưỡng mới của mình bằng cách đập phá các pho tượng trong một ngôi đền trong làng, và do đó Tôn Dật Tiên bị người làng tức giận, trục xuất ra khỏi làng.
Tôn Dật Tiên quen biết một bác sĩ người Mỹ, và ông ra Hương Cảng theo học ngành y khoa. Tôn Dật Tiên tốt nghiệp bác sĩ năm 1892. Ông hành nghề y sĩ tại Ma Cao một thời gian rất ngắn, khoảng hai năm. Tôn Dật Tiên không quan tâm nhiều đến nghề thày thuốc, và ông bỏ nghề thuốc khi Trung Hoa bị Nhật bản đánh bại năm 1895. Cuộc đời của ông sau đó là những ngày gian lao của một nhà cách mạng lúc nào cũng ở trong tình trạng trốn tránh lưu đày. Ông có hoài bão nâng Trung Hoa lên ngang hàng với các quốc gia khác. Tôn Dật Tiên quyết liệt chủ trương phải lật đổ nhà Mãn Thanh. Ông có tài diễn thuyết lôi cuốn quần chúng nên được nhiều thanh niên đi theo.
Năm 1894, Tống Giáo Nhân gặp Tôn Dật Tiên lần đầu tiên. Cả hai đều thuộc Tam Hòa Hội. Hai người có nhiều điểm tương đồng: cùng nói thổ ngữ miền nam Trung Hoa, cùng theo đạo Thiên Chúa, cùng được giáo dục tại Hoa Kỳ, và cùng có nhiều tham vọng. Do đó hai người trở thành bằng hữu chí thân một cách mau lẹ. Bất cứ khi nào đến Thượng Hải, Tôn Dật Tiên cũng tới cư ngụ tại nhà Tống Giáo Nhân. Con cái nhà họ Tống coi Tôn Dật Tiên như một người trong gia đình, một thứ cha chú. Đối với Tống Giáo Nhân thì Tôn Dật Tiên tượng trưng cho một ngọn lửa tinh khiết của những lý tưởng đã đem lại cho Tống Giáo Nhân một ý nghĩa cao đẹp cho cuộc đời, ngoài những lúc tính toán làm giàu.
Công cuộc Phản Thanh Phục Minh của Tôn Dật Tiên cần phải được quảng bá cho quần chúng, và phương tiện hữu hiệu nhất lúc đó là truyền đơn. Không một nhà in nào dám in truyền đơn cho Tôn Dật Tiên, vì triều đình nhà Thanh lúc nào cũng rình tìm và sẵn sàng dùng những biện pháp trừng phạt đẫm máu cho cái tội bị gọi là "phản nghịch" này. Chỉ có nhà in của Tống Giáo Nhân phải cáng đáng cái việc làm nguy hiểm ấy. Đó là một sự hy sinh lớn lao của Tống Giáo Nhân cho công cuộc cách mạng, vì bất cứ lúc nào gia đình Tống Giáo Nhân cũng có thể bị chính quyền nhà Thanh bắt và hành quyết.
Theo đúng truyền thống gia đình Trung hoa, bà Tống ít khi quan tâm tới hành động của Tôn Dật Tiên, người bạn thân của chồng bà. Bà cũng không thắc mắc khi thấy chồng và Tôn Dật Tiên thức rất khuya bàn luận trong phòng riêng. Bà không hề ngờ rằng cái đầu của Tôn Dật Tiên, một người có bề ngoài hiền lành phúc hậu như thế, đã bị triều đình Mãn Thanh treo một giá rất cao. Chồng bà may mắn thoát tên trong danh sách những tên "phản nghịch" đầu tiên. Tuy vậy khi được chồng cho biết lúc nào gia đình nhà họ Tống cũng phải sẵn sàng chạy trốn thì bà không hề phản đối hoạt động nguy hiểm của chồng, và hết mình ủng hộ và đi theo chính nghĩa của chồng.
Tôn Dật Tiên đòi hỏi những cải cách xã hội cho Trung hoa. Tam Hòa Hội cử Tôn Dật Tiên đi gặp thừa tướng Lý Hồng Chương để đạo đạt những yêu sách. Lúc đó Lý Hồng Chương đang mải lo đối phó với việc quân Nhật đánh chiếm Cao Ly, một thuộc quốc của Trung hoa, nên không tiếp Tôn Dật Tiên. Sau chuyến đi thất bại, Tôn Dật Tiên trở lại Honolulu đảo Hawaii và thành lập Hưng Trung Hội. Ông bôn ba nhiều nơi để tìm sự trợ giúp cho công cuộc Phản Thanh Phục Minh của ông. Mỗi khi ông trở về Thượng Hải, ông thường cư ngụ ngay tại nhà Tống Giáo Nhân. Tôn Dật Tiên được gia đình nhà họ Tống rất quý trọng, và coi ông như người cha đỡ đầu cho các con của Tống Giáo Nhân.
Các tổ chức Phản Thanh Phục Minh luôn luôn tìm cách gây khó khăn cho triều đình Mãn Thanh. Một lãnh tụ Cao Ly thân Nhật đến thăm Thượng Hải, và bị các tổ chức Phản Thanh ám sát chết. Một nhóm của Hồng Hội đem xác của nạn nhân chặt ra làm nhiều mảnh, và gửi trả về Cao Ly bằng một chiến thuyền của hải quân Trung hoa. Người Nhật vô cùng phẫn nộ, và chiến tranh giữa Nhật và triều đình Mãn Thanh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì thế triều đình Mãn Thanh phải dồn hết nỗ lực về miền bắc, và lơi là miền nam; nhờ thế các tổ chức Phản Thanh Phục Minh được tự do hoạt động hơn tại miền nam.
Ngày 1-8-1894, cuộc xung đột giữa Nhật và quân Mãn Thanh xảy ra, và quân nhà Thanh thảm bại nhục nhã. Sự kiện này càng làm dân chúng Trung Hoa căm phẫn sự bất lực của triều đình Mãn Thanh. Tôn Dật Tiên lập tức khởi sự một cuộc nổi dậy tại miền nam trong vùng Quảng Châu. Tống Giáo Nhân được ủy thác ở lại Thượng Hải lo về vấn đề tài chánh cho Tôn Dật Tiên, và làm tai mắt cho Tôn Dật Tiên tại lưu vực sông Dương Tử.
Tôn Dật Tiên chọn ngày Song Cửu (9-9-1895) làm ngày khởi nghĩa, vì ngày đó dân chúng Trung Hoa đi tảo mộ đông đảo, nên việc tập trung và vận chuyển nhân sự của Hồng Hội sẽ không bị quan quân nhà Thanh nghi ngờ. Tại Quảng Châu, Tôn Dật Tiên tuyển được 153 lính đánh thuệ Những người này được lệnh bố trí tại tư gia của viên tổng đốc và các sĩ quan, và sẽ ra tay bắt giữ những người này khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Sức mạnh chính của cuộc khởi nghĩa là ba ngàn tay anh chị của tổ chức Hồng Hội, và lực lượng này được trang bị bằng một ngàn khẩu súng lục.
Theo kế hoạch dự liệu, tất cả vũ khí và người sẽ tập trung tại Hương Cảng và di chuyển tới Quảng Châu bằng đường biển. Khi nào nhóm anh chị Hồng Hội tới Quảng Châu thì cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Một sự trục trặc xảy ra ngay tại bến tầu Hương Cảng. Trong khi vũ khí được chuyển xuống tàu thì các tay anh chị chia làm hai phe, phe nào cũng đòi hỏi phe mình phải được dùng súng, vì số người nhiều hơn súng. Trong khi hai phe còn mải tranh luận trên bờ thì con tàu nhổ neo theo đúng giờ đã ấn định trước. Vũ khí được chở đi Quảng Châu mà không có người đi theo.
Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan: có vũ khí mà không có quân xử dụng vũ khí. Nếu cứ tiếp tục cuộc khởi nghĩa thì nhất định sẽ thất bại, vì không đủ quân số cần thiết. Tôn Dật Tiên đành phải hoãn cuộc khởi nghĩa, và đánh điện cho Hương Cảng và Thượng Hải biết quyết định mới nhất của mình. Nhưng trước khi điện tín của Tôn Dật Tiên tới được Hương Cảng thì cuộc tranh luận của hai phe anh chị tại bến tầu chấm dứt, và tất cả kéo nhau xuống tầu đi Quảng Châu, trễ hơn một ngày theo kế hoạch dự liệu từ trước.
Đến lúc đó thì cảnh sát Anh tại Hương Cảng nghe biết được tin tức của cuộc khởi nghĩa, liền báo cho nhà chức trách Mãn Thanh tại Quảng Châu biết. Khi con tàu chở ba ngàn tay anh chị cặp bến Quảng Châu thì đã có quan quân nhà Thanh chờ họ trên bến. Các tay anh chị thấy thế nguy liền nhảy cả xuống biển, và hầu hết trốn thoát. Tuy nhiên nhà chức trách cũng bắt được một số cấp lãnh đạo và 50 đoàn viên khởi nghĩa. Ngay tại thành phố Quảng Châu, quan quân nhà Thanh mở cuộc ruồng bố, bắt thêm được nhiều người trong tổ chức, tịch thu được một số vũ khí, quân phục và lá cờ hiệu của quân khởi nghĩa. Tôn Dật Tiên kịp thời trốn sang Ma Cao, và dùng thuyền chạy sang Hương Cảng.
Số phận những người bị bắt thật là thê thảm. Họ bị trừng phạt theo luật lệ khắt khe của nhà Thanh. Nhiều người bị chém đầu; một số khác phải chịu những cái chết đau đớn hơn: bị đánh 600 roi cho đến chết hoặc bị xẻo từng mảnh thịt cho đến chết.
Tuy thế, cuộc khởi nghĩa thất bại cũng đem lại danh tiếng lớn lao cho Tôn Dật Tiên, một người được coi là tượng trưng cho công cuộc lật đổ nhà Mãn Thanh. Trong suốt 16 năm sau đó, Tôn Dật Tiên phải lẩn trốn từ nước này sang nước khác, tìm mọi cách trốn tránh sự truy nã của các tay ám sát bắt cóc cừ khôi của nhà Thanh. Tống Giáo Nhân đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên bằng cách cung cấp tiền bạc cho Tôn Dật Tiên và các tổ chức bí mật của Tôn Dật Tiên.
Trong thời gian này, Tôn Dật Tiên tổ chức thêm vài cuộc khởi nghĩa nữa, nhưng đều thất bại. Năm 1900 cuộc nổi loạn của Nghĩa Hòa Đoàn chống lại tây phương thất bại. Liên quân tây phương tiến vào Bắc Kinh, và Từ Hy thái hậu và vua Quang Tự phải bỏ chạy khỏi kinh thành. Sự nhục nhã của Trung hoa trước sức mạnh của tây phương đã đến chỗ cùng cực. Nhiều sinh viên trốn qua Nhật, tìm học thuật quân sự và khoa học của Nhật Bản để rửa nhục. Tất cả đều quy tụ quanh Tôn Dật Tiên, coi ông như một nhà cách mạng duy nhất có thể quang phục được nước Trung Hoa. Tôn Dật Tiên nắm lấy thời cơ, thuyết phục các phe nhóm chống lại nhà Thanh đoàn kết với ông, và lập thành một tổ chức duy nhất, gọi là Đồng Minh Hội do ông lãnh đạo.
Cuộc đại hội của Đồng Minh Hội tổ chức ngày 30-7-1905 tại Đông Kinh. Tống Giáo Nhân cũng từ Thượng Hải tới tham dự, và được đại hội cử giữ nhiệm vụ lo tài chánh cho hội, vì mọi người biết Tống Giáo Nhân có nhiều liên hệ với giới tài phiệt Hoa Kỳ. Tống Giáo Nhân có bổn phận tìm ra tiền cho hội có phương tiện hoạt động. Đồng Minh Hội đã chọn đúng người. Thành quả của cuộc cách mạng Trung Hoa phần lớn do công lao tài chánh của Tống Giáo Nhân.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 3 Ngày Song Thập Và Quốc Dân Đảng Trung Hoa
Trong khoảng mười lăm năm, kể từ khi từ chức khỏi giáo hội Methodist, Tống Giáo Nhân có thêm bốn người con nữa. Năm 1894, bà Nhiếp Quế Sương sinh con trai đầu lòng là Tống Tử Văn, và đến năm 1897 thì sinh cô con gái út Tống Mỹ Linh. Sau đó là hai người con trai cuối cùng là Tống Tử Lương và Tống Tử An. Tống Giáo Nhân gửi cả ba cô con gái và Tống Tử Văn sang du học tại Hoa Kỳ.
Tống Giáo Nhân có vẻ yêu thích Tống Ái Linh hơn cả, có lẽ vì Tống Ái Linh và ông bố rất giống nhau ở hai điểm là rất thực tế và yêu tiền. Ái Linh rất thông minh nhanh nhẹn, và đã trở thành người phụ tá đắc lực cho Tống Giáo Nhân. Các hoạt động tài phiệt của Tống Giáo Nhân bành trướng rất nhanh chóng, và cần phải có người thân tín tin cẩn được để giao phó cho một phần công việc. Tống Ái Linh chính là người Tống Giáo Nhân rất cần. Và cũng chính trong thời gian làm việc với bố mà Tống Ái Linh học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu để sau này trở thành một người đàn bà có ảnh hưởng rất lớn, lũng đoạn thị trường Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20.
Trong lúc tài sản nhà họ Tống ngày một thịnh vượng thì vương khí nhà Mãn Thanh ngày một tàn lụi. Người Trung Hoa tin rằng một triều đại tồn tại được là nhờ có Thiên Mệnh, hay Lòng Trời còn tựa. Khi Thiên Mệnh không còn nữa, tức là khi Lòng Trời đã bỏ, thì triều đại đó sẽ sụp đổ. Đến đầu thế kỷ 20 thì Thiên Mệnh của nhà Mãn Thanh đã mất, và triều đại này đang đi vào mạt vận. Thực ra thì các triều đại vua chúa của Trung Hoa chỉ kéo dài được vài trăm năm rồi lại có một triều đại mới thay thế. Đến đầu thế kỷ 20 thì nhà Mãn Thanh đã cai trị Trung Hoa được gần ba thế kỷ, một thời gian khá dài cho một triều đại quân chủ.
Tháng 11-1908 Từ Hy Thái Hậu từ trần sau một nửa thế kỷ thao túng chính trường Trung hoa. Từ Hy thay mặt con trai là vua Đồng Trị và cháu là vua Quang Tự cai trị nước Trung Hoa. Vua Quang Tự là một nhà vua sáng suốt, dự định cải tiến đất nước theo đường lối tây phương và loại bỏ Từ Hy Thái Hậu. Nhưng Viên Thế Khải được vua Quang Tự giao cho thi hành kế hoạch thì phản lại nhà vua, tố cáo tất cả âm mưu của vua Quang Tự cho Từ Hy Thái Hậu, do đó Từ Hy Thái Hậu kịp thời bắt vua Quang Tự giam vào một hòn đảo nhỏ bên trong Cung Điện Mùa Hạ, và chiếm quyền của vua Quang Tự. Trước khi chết, Từ Hy Thái Hậu vẫn còn đủ thời giờ sai người đầu độc vua Quang Tự trước. Từ Hy sợ rằng sau khi mình chết rồi, Quang Tự sẽ được trở lại vương quyền và làm những gì Từ Hy không ưa thích.
Quyền lực nhà Mãn Thanh bây giờ rơi vào tay một ấu chúa do Từ Hy Thái Hậu lựa chọn: đó là vua Phổ Nghi, một đứa trẻ mới lên ba tuổi. Phổ Nghi trở thành vị hoàng đế cuối cùng của nhà Mãn Thanh và Trung Hoa. Thân phụ Phổ Nghi là Thuần Thân Vương được bổ làm nhiếp chánh, thay mặt vua Phổ Nghi cai trị việc nước. Nhưng Thuần Thân Vương là một người hiền lành chất phác, không có khả năng lãnh đạo Trung Hoa trong một hoàn cảnh rất bất lợi: bên trong thì bị người dân Trung Hoa phản đối, bên ngoài thì bị liệt cường bắt nạt xâu xé đất nước Trung Hoa thành nhiều mảnh nhượng địa. Thuần Thân Vương cũng không thể là đối thủ của con cáo già Viên Thế Khải được. Trước khi chết, vua Quang Tự muốn em là Thuần Thân Vương phải giết Viên Thế Khải để báo thù cho nhà vua, nhưng Thuần Thân Vương không dám giết Viên Thế Khải, chỉ tước bỏ mọi quyền lực của họ Viên và bắt họ Viên phải về hưu.
Gặp lúc nhà Mãn Thanh đang bối rối và yếu thế, Tôn Dật Tiên tổ chức nhiều cuộc nổi dậy, và đi du thuyết nhiều nước tây phương tìm sự ủng hộ của quốc tế và sự đóng góp tài chánh cho công cuộc quang phục nước Trung Hoa của ông. Các nước tây phương có vẻ lạnh nhạt với Tôn Dật Tiên vì họ chỉ muốn nước Trung Hoa cứ tiếp tục ở vào thế yếu cho họ khai thác và làm chủ. Trong nước thì tuy Tôn Dật Tiên được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, kể cả một số người Trung Hoa đang phục vụ cho nhà Thanh, nhưng ông vẫn thất bại không tạo được một thành công nào trong công cuộc lật đổ nhà Thanh.
Nhưng cuối cùng công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên thành công nhờ một yếu tố bất ngờ, không phải do công lao của ông. Tại thành Vũ Hán, một nhóm sĩ quan trong quân đội Mãn Thanh bất mãn và âm mưu nổi dậy chống lại triều đình. Các sĩ quan dấu bom và vũ khí tại nhiều nơi khác nhau, nhưng ngày 9-10-1911, một trái bom dấu trong khu vực nhượng địa của người Nga bất ngờ nổ tung. Lập tức cảnh sát bao vây cả khu vực, lục soát và tìm được nhiều tài liệu và danh sách những người tham dự cuộc khởi loạn. Viên tổng đốc ra lệnh đóng chặt các cổng thành, và trại quân bị bao vây. Các sĩ quan phản loạn bây giờ chỉ còn hai lựa chọn: hoặc đầu hàng để bị bắt và bị hành hạ dã man, có thể là bị xử tử, hoặc liều lĩnh khởi sự cuộc phản loạn như kế hoạch từ trước, mặc dầu sớm hơn dự liệu. Đấy là con đường sống suy nhất của họ, và thế là bốn tiểu đoàn quân nhà Thanh bắt buộc phải quyết định liều chết thi hành cuộc nổi loạn. Vì ở thế cùng đường nên toán quân phản loạn chiến đấu liều mạng và kiểm soát được thành phố. Viên tổng đốc phải dùng thuyền chạy trốn ra sông Dương Tử. Cuộc nổi dậy hoàn toàn bất ngờ, và đã thành công trong ngày Song Thập, tức là ngày 10-10-1911. Kể từ đó, ngày 10-10 được người Trung Hoa quốc gia coi là ngày Quốc khánh.
Nhóm khởi loạn không có tổ chức. Họ không có liên lạc hoặc hậu thuẫn của các nhóm Hồng Hội hoặc Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên. Tuy nhiên họ đã hoàn thành được một điều mà trong nhiều năm trời các nhóm Phản Thanh Phục Minh, kể cả Tôn Dật Tiên, đã không thực hiện được. Họ đã chiếm được một thành phố lớn của nhà Mãn Thanh. Nhóm phản loạn không có thủ lãnh nên quyết định mời một đại tá trong quân đội Mãn Thanh là Lê Nguyên Hồng lên lãnh đạo họ, vì Lê Nguyên Hồng có cấp bậc cao nhất trong thành. Một phái đoàn phản loạn được cử đi đến nhà họ Lệ Lê Nguyên Hồng thấy quân phản loạn tới, lại tưởng họ tìm giết mình, nên bỏ chạy trốn, hết phòng này sang phòng khác. Quân phản loạn vẫn nhẫn nại đuổi theo. Cuối cùng Lê Nguyên Hồng chui vào trốn dưới gầm giường của vợ, nhưng vì cái giường của vợ nhỏ quá nên chân của Lê Nguyên Hồng thò ra ngoài. Toán quân phản loạn nắm chân Lê Nguyên Hồng kéo ra. Khi Lê Nguyên Hồng định năn nỉ xin tha mạng thì tên thủ lĩnh loạn quân lịch sự hỏi thăm sức khỏe của họ Lệ Hắn tâng bốc gọi Lê Nguyên Hồng là "Tướng quân", và yêu cầu Lê Nguyên Hồng gia nhập quân phản loạn. Lê Nguyên Hồng mừng rỡ và nhận lời. Ngày 12-10, nhóm phản loạn thành lập một chính phủ cộng hòa lâm thời và bầu Lê Nguyên Hồng lên điều khiển chính phủ.
Nhóm phản loạn tại Vũ Hán tạo được một hậu quả dây chuyền. Các tuần lễ kế tiếp đó, hết thành phố này đến thành phố khác đứng lên, noi gương thành phố Vũ Hán, tuyên bố độc lập với nhà Mãn Thanh. Các tỉnh Hồ Nam và Sơn Tây chống lại mệnh lệnh của triều đình. Tại Thiểm Tây, quần chúng vùng lên chiếm và giết viên tổng đốc và đốt dinh tổng đốc tại thủ phủ Thái Nguyên. Những đám đông gây hỗn loạn tại Thiên Tân và Tế Nam. Tại trường trung Học Trường Sa, Mao Trạch Đông quẳng sách vở đi và gia nhập quân cách mạng.
Trong một cố gắng vãn hồi tình thế, nhà Mãn Thanh phải phục hồi chức vị cho Viên Thế Khải lúc đó ở trong tình trạng phải về hưu. Nhà Mãn Thanh thấy không còn ai ngoài Viên Thế Khải có đủ khả năng cứu vãn tình thế. Viên Thế Khải là một viên tướng tài, có công cải tiến quân đội Trung Hoa theo kiểu mẫu tây phương. Viên Thế Khải cũng là người có tham vọng làm hoàng đế nên không bỏ lỡ cơ hội nắm lại quyền bính. Lập tức Viên Thế Khải tung ra những cuộc tấn công, đánh bại các thành phố phản loạn. Viên Thế Khải chiếm lại được thành phố Vũ Hán, nhưng được tin thành phố Nam Kinh đã lọt vào tay quân cách mạng. Tuy nhiên, Viên Thế Khải không quan tâm đến Nam Kinh, và chỉ đánh cầm chừng, không để cho nhà Mãn Thanh mạnh như trước nữa. Mục đích của Viên Thế Khải là chờ đợi cho cả hai phe Mãn Thanh và Phản Thanh mệt mỏi, và cùng phải cầu cứu sự trợ giúp của Viên Thế Khải. Như thế Viên Thế Khải sẽ ở vào địa vị thượng phong và sẽ thực hiện được giấc mộng làm hoàng đế của mình.
Trong lúc Viên Thế Khải nắm vững tình hình trong nước thì Tôn Dật Tiên lại xuất ngoại vận động sự ủng hộ của Âu Mỹ. Nhưng Tôn Dật Tiên vẫn chỉ gặp được thất bại như trước. Tuy Tôn Dật Tiên thất bại đối với quốc tế, nhưng quần chúng vẫn coi ông là người khai sáng ra công cuộc Phản Thanh Phục Minh, tuy chính bản thân ông chưa bao giờ thành công chiếm được một tấc đất của nhà Mãn Thanh, trong tất cả những cuộc nổi dậy khởi nghĩa của ông. Ngày 25-12-1911, Tôn Dật Tiên trở về Thượng Hải, và được dân chúng đón tiếp như một vị anh hùng. Tôn Dật Tiên đến cư ngụ tại nhà Tống Giáo Nhân, và thương nghị cùng các cộng sự.
Phe phản loạn chống nhà Thanh đang ở trong tình trạng chia rẽ, không lãnh tụ nào chịu lãnh tụ nào, mặc dù họ chiếm được miền nam Trung Hoa và đặt thủ đô tại Nam Kinh. Các phe phái muốn bầu một vị minh chủ làm tổng thống để lãnh đạo công cuộc Phản Thanh, nhưng các cuộc họp bầu của họ đều đưa đến thất bại. Cuối cùng họ đồng ý tìm một người có thể dung hòa được mọi phe phái khác nhau. Chính vì thế, mọi phe phái đều quay về Tôn Dật Tiên, và bầu ông vào chức tổng thống lâm thời của nước Cộng hòa Trung hoa.
Ngày 1-1-1912, Tôn Dật Tiên tuyên thệ nhậm chức tổng thống lâm thời đầu tiên của nước Cộng hòa Trung hoa tại Nam Kinh. Đó là một ngày trọng đại cho phe cách mạng Trung hoa. Tất cả gia đình Tống Giáo Nhân đều có mặt tại Nam Kinh trong ngày lịch sử ấy. Tống Giáo Nhân cực kỳ hoan hỷ; ông và cô con gái lớn Ái Linh có mặt thường xuyên tại Nam Kinh trong thời gian Tôn Dật Tiên giữ chức tổng thống lâm thời.
Tôn Dật Tiên thành lập nội các, nhưng chính phủ của ông không có ngân sách. Ông định vay tiền các nước tây phương, nhưng với cái danh nghĩa chính phủ "lâm thời" nên không nước nào chịu cho ông vay tiền. Cuối cùng ông phải vay một số tiền lớn của Nhật Bản, và dùng các mỏ sắt tại Hán Khẩu làm bảo đảm. Nhưng Tôn Dật Tiên không có kinh nghiệm về hành chánh, vì từ trước ông chưa hề giữ một chức vụ nào trong chánh quyền. Ông chỉ có kinh nghiệm thuyết giảng cho quần chúng về công cuộc cách mạng. Không những thế, ông gặp phải sự chống đối của những người thuộc tỉnh khác. Ông vốn là người Quảng Đông, và nhiều người than phiền ông bổ nhiệm quá nhiều người Quảng Đông vào chính phủ. Trong tình thế đó, nhiều người nghĩ rằng giải pháp hay nhất là ông từ chức, nhường chỗ cho một người có khả năng hơn điều khiển chính phủ.
Tuy Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống đầu tiên của Trung hoa, nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay Viên Thế Khải tại Bắc Kinh. Chính tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải được các quốc gia tây phương công nhận. Thực ra lúc đó Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên chưa sẵn sàng đối phó với thực tế của cuộc cách mạng. Phe cách mạng chia làm hai phe chống đối nhau: phe thứ nhất tại Vũ Hán ủng hộ Lê Nguyên Hồng và phe thứ hai tại Nam Kinh và Thượng Hải thì ủng hộ Tôn Dật Tiên. Trong một cố gắng đoàn kết, hai phe đồng ý lập một đảng quốc gia mới, được gọi là Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên Quốc dân đảng mới thành hình, chưa thành công nắm được tình thế khi mà các phe nhóm vẫn còn hăng say chống đối nhau.
Viên Thế Khải là một con cáo già, cả về chính trị và quân sự, nên đã lợi dụng được sự chia rẽ của hai phe Vũ Hán và Nam Kinh. Viên Thế Khải tìm cách thương thuyết ngầm với từng lãnh tụ Quốc dân đảng, và cố chứng minh rằng chỉ có mình mới có khả năng chấm dứt sự hỗn loạn tại Trung Hoa, và Tôn Dật Tiên chỉ là một người bất lực. Dần dần các lãnh tụ Quốc dân đảng có vẻ tin tưởng những điều Viên Thế Khải nói. Chính Tôn Dật Tiên cũng đã làm một quyết định bất ngờ: sau một tháng giữ chức tổng thống lâm thời, ông đã sẵn sàng từ chức, nhường chức vụ đó cho Viên Thế Khải, với điều kiện Viên Thế Khải phải áp lực ông vua cuối cùng nhà Mãn Thanh phải thoái vị để tránh đổ máu, và Viên Thế Khải phải thành lập chính thể cộng hòa. Viên Thế Khải đã thành công lật đổ nhà Mãn Thanh bằng cách bắt Phổ Nghi phải thoái vị, mặc dầu Viên Thế Khải nhượng bộ triều đình Mãn Thanh rất nhiều điều khoản ưu đãi.
Những điều khoản Viên Thế Khải phải nhượng bộ nhà Thanh gồm có: hoàng gia Mãn Thanh được làm chủ vĩnh viễn khu vực Cấm Thành và tất cả những đặc quyền đặc lợi đã được hưởng trong quá khứ, kể cả việc giữ lại bốn ngàn cung phi và thái giám, và hàng năm dược hưởng một ngân khoản bốn triệu quan. Sau đó hoàng gia đã công bố bằng lòng cho phép Viên Thế Khải thành lập một chính phủ cộng hòa.
Tuy được lên làm tổng thống thay Tôn Dật Tiên, nhưng Viên Thế Khải không chịu di chuyển xuống thủ đô Nam Kinh, mặc dù Quốc dân đảng quyết tâm duy trì thủ đô tại Nam Kinh. Viên Thế Khải thì không muốn rời bỏ Bắc Kinh vì sức mạnh và phe nhóm của Viên Thế Khải ở miền bắc. Hơn nữa Viên Thế Khải cần phải ở lại Bắc Kinh để thực hiện giấc mộng hoàng đế. Nhiều người biết rõ cái mộng muốn làm hoàng đế của Viên Thế Khải. Tại Bắc Kinh người ta vẫn thường kể cho nhau nghe một giai thoại sau đây để chế riễu cái mộng làm hoàng đế của Viên Thế Khải:


"Viên Thế Khải có một thói quen phải ngủ một lát sau bữa ăn trưa. Và ngay sau giấc ngủ trưa, một tên hầu phải dâng cho Viên một tách trà cho tỉnh ngủ. Một hôm tên người hầu bước vào phòng ngủ của Viên như mọi ngày, hai tay bưng một tách trà rất quý làm bằng ngọc; tên hầu không thấy Viên Thế Khải đâu, mà chỉ trông thấy một con cóc khổng lồ đang ngồi trên giường của Viên. Tên hầu giật mình hoảng sợ, đánh rơi cả chiếc tách quý. May tiếng động không đánh thức giấc ngủ của họ Viên. Tên hầu rón rén chạy đi tìm người quản gia, và mếu máo kể sự tình và xin tên quản gia tìm cách nào cho Viên Thế Khải không trừng phạt hắn vì tội đánh vỡ mất cái tách bằng ngọc quý. Người quản gia suy nghĩ một hồi rồi dặn tên hầu phải nói gì khi Viên Thế Khải hỏi đến cái tách quý."
"Một lát sau, khi Viên Thế Khải thức dậy, thấy trà của mình được đựng trong một chiếc tách tầm thường bằng sứ, liền hỏi cái tách bằng ngọc đâu thì tên hầu trả lời đã làm vỡ chiếc tách đó rồi. Viên Thế Khải bừng bừng nổi giận, nhưng tên hầu bình tĩnh giải thích tại sao chiếc tách bằng ngọc bị vỡ: "Thưa tướng công, khi con bước vào phòng này con trông thấy một vật rất lạ nằm trên giường của tướng công nên con hoảng hốt đánh rơi và làm vỡ chiếc tách bằng ngọc." Họ Viên nổi giận hơn và hỏi tên hầu trông thấy gì. Tên hầu vội thưa: "Con trông thấy một con rồng năm móng màu vàng nằm trên giường của tướng công." Lập tức họ Viên hết giận, và còn có vẻ rất mừng rỡ. Viên Thế Khải dị đoan tưởng đó là điềm lành, tướng tinh của mình là rồng thì mình sẽ trở thành hoàng đế, vì rồng tượng trưng cho vương quyền. Họ Viên liền mở tủ lấy mấy quan tiền thưởng cho tên hầu và căn dặn tên hầu không được kể cho ai nghe những gì hắn đã trông thấy."

Viên Thế Khải phong cho Tôn Dật Tiên chức Giám đốc hệ thống hỏa xa của Trung hoa, hy vọng cái chức vụ có số lương rất cao ấy sẽ làm hài lòng Tôn Dật Tiên. Nhưng Tôn Dật Tiên thực sự vui lòng với chức Giám dốc hỏa xa, và dự định sang Nhật vay thêm tiền để cải tiến hệ thống hỏa xa của Trung Hoa và không hỏi ý kiến Viên Thế Khải. Đó là mối bất hòa đầu tiên giữa Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên. Sau đó Tôn Dật Tiên quyết định làm một chuyến đi kinh lý bằng xe lửa khắp Trung Hoa, từ Mãn châu tới Quảng Đông. Tôn Dật Tiên phong cho Tống Giáo Nhân chức vụ Tổng Thủ Quỹ của ngành Hỏa xạ Lúc đó Tống Ái Linh là thư ký riêng của Tôn Dật Tiên. Trong chuyến đi kinh lý này, Tôn Dật Tiên đem theo cả Tống Ái Linh. Điều này chứng tỏ cho mọi người biết gia đình nhà họ Tống là người của Tôn Dật Tiên. Như vậy gia đình nhà họ Tống lâm vào tình trạng nguy hiểm, vì công khai liên kết với Tôn Dật Tiên, và Tôn Dật Tiên thì đang trở thành kẻ đối đầu của Viên Thế Khải.
Tôn Dật Tiên đã lấy vợ từ năm 19 tuổi và có ba người con, một trai và hai gái. Người con trai của Tôn Dật Tiên là Tôn Khoa, đã trưởng thành và đang du học tại Hoa Kỳ. Cuộc hôn nhân đầu tiên của Tôn Dật Tiên hoàn toàn do gia đình sắp đặt, như phần đông các cuộc hôn nhân khác tại Trung hoa. Hai người lấy nhau nhưng chưa bao giờ gặp mặt nhau trước khi cưới, và cũng không có quyền có ý kiến. Ba tháng sau khi lấy vợ, Tôn Dật Tiên trở lại Hương Cảng tiếp tục việc học, và rất ít khi về thăm vợ. Khi ông phải sống cuộc đời nguy hiểm của một người bị triều đình tầm nã, thì ông giao vợ con cho người anh ở Hawaii trông nom. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông hoàn toàn không có tình yêu, mà chỉ vì bổn phận. Bà vợ Ông là một người vợ và người mẹ tận tụy, an phận theo một nếp sống cổ truyền đã tồn tại hàng ngàn năm tại Trung hoa.
Bây giờ người vợ của Tôn Dật Tiên già rồi. Trong thời gian làm việc chung với Tống Ái Linh, nhà đại cách mạng của Trung hoa đem lòng yêu cô gái đáng tuổi con ông và là con gái bạn thân của ông. Có thể Tôn Dật Tiên so sánh ÁI Linh, một cô gái trẻ đẹp, tân tiến mạnh khoẻ với người vợ già và quê mùa cổ hủ của ông. Ông rất thích sự thông minh thực tế, tài ăn nói khéo léo và thân thể chắc nịch của Ái Linh. Một hôm đang ngồi nói chuyện với một người bạn, và ÁI Linh có việc bước vào phòng trong, Tôn Dật Tiên ngoái nhìn theo đôi mông nẩy nở của Ái Linh và nói với người bạn:
"Tôi muốn kết hôn với Ái Linh."
Người bạn ngạc nhiên hỏi, "Bác sĩ đã có vợ rồi mà?"
Tôn Dật Tiên thản nhiên trả lời, "Tôi sẽ ly dị vợ tôi trước rồi xin cưới ÁI Linh sau."
Người bạn phản đối, "Nhưng Ái Linh là con của Tống Giáo Nhân, một người bạn thân của Bác sĩ. Bác sĩ nên nhớ Tống Giáo Nhân có ơn lớn với Bác sĩ, và đã giúp đỡ Bác sĩ rất nhiều để Bác sĩ có được như ngày hôm naỵ Đối với Ái Linh và các người con khác của Tống Giáo Nhân, Bác sĩ vẫn được coi như một người chú. Họ có khác gì con của Bác sĩ đâu?"
Nhà đại cách mạng vẫn cương quyết, "Tuy vậy tôi vẫn muốn lấy Ái Linh."
Một buổi tối Tôn Dật Tiên đến thăm Tống Giáo Nhân và đề nghị xin cưới Ái Linh. Tống Giáo Nhân vô cùng kinh ngạc, mặt tái mét nhìn trừng trừng vào mặt Tôn Dật Tiên, một người bạn chí thân của ông trong suốt hai mươi năm vừa quạ Khi lấy lại được bình tĩnh, Tống Giáo Nhân buồn bã nói với Tôn Dật Tiên, "Tôn Dật Tiên, tôi là người Thiên chúa giáo. Từ trước tới nay, tôi vẫn tưởng ông cũng là một người Thiên chúa giáo như tôi. Tôi không bao giờ nuôi dưỡng con cái tôi một cách buông thả để chúng có thể chấp nhận một đề nghị quái gở như của ông. Chúng tôi là một gia đình Thiên chúa giáo, và mãi mãi sẽ như thế."
Tôn Dật Tiên rất ngỡ ngàng trước sự từ chối quyết liệt của Tống Giáo Nhân. Mặt ông bối rối và cực kỳ bẽn lẽn.
Tống Giáo Nhân nói tiếp, "Tôn Dật Tiên. Xin mời ông về đi. Tôi muốn ông đừng bao giờ trở lại nhà tôi nữa."
Tuy nhiên sau đó hai người vẫn tiếp tục cộng tác với nhau một thời gian nữa, tuy tình thân không còn được như trước. Tôn Dật Tiên và Tống ÁI Linh không thể là một cặp vợ chồng tướng xứng hòa hợp với nhau được, không những vì sự cách biệt về tuổi tác, mà còn vì bản chất rất khác nhau nữa. Tôn Dật Tiên là một người lý tưởng, mơ mộng xa thực tế trong khi Tống Ái Linh là một người rất thực tế và rất say mê tiền bạc.
Đầu năm 1913, Viên Thế Khải có vẻ thắng thế trong âm mưu đoạt quyền lãnh đạo Trung Hoa, và muốn tái lập chế độ quân chủ để trở thành một hoàng đế. Trong cuộc bầu cử năm đó, Quốc dân đảng thắng lớn, nhưng Viên Thế Khải đâu có dễ dàng chịu thua như vậy. Từ Cấm Thành tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải phái những tay thích khách đi khắp nơi ám sát các lãnh tụ Quốc dân đảng. Nạn nhân đầu tiên là Cung Châu Gia, một chính trị gia trẻ tuổi, có tài tổ chức, và tạo được một hậu thuẫn mạnh mẽ tại nông thôn. Danh tiếng Cung Châu Gia ngày một gia tăng, và có thể là một đe dọa cho Viên Thế Khải. Ngày 20-3-1913, trong lúc Cung Châu Gia đi xe lửa tại Thượng Hải, một thích khách nhắm vào bụng ông bắn hai phát súng. Hai phát đạn này có mục đích tạo sự đau đớn vô cùng trong lúc nạn nhân hấp hối. Cung Châu Gia lăn lộn đau đớn trong hai ngày mới chết được.
Sau đó là hàng loạt các vụ ám sát khác, phần lớn là đầu độc vì người Trung hoa hay ăn tiệc. Ngày 11-7-1913, tổng đốc Quảng Tây được sự khuyến khích của Tôn Dật Tiên nên tuyên bố ly khai với Bắc Kinh, và trở thành một tỉnh độc lập. Tôn Dật Tiên cũng công khai lên án âm mưu muốn làm hoàng đế của Viên Thế Khải. Lập tức Viên Thế Khải cách chức Giám đốc Hỏa xa của Tôn Dật Tiên và ra lệnh tróc nã. Tôn Dật Tiên phải vội vã trốn sang Đông Kinh.
Viên Thế Khải ra tuyên cáo Quốc dân đảng chỉ là một tổ chức nổi loạn và ra lệnh giải tán Quốc dân đảng. Sau đó họ Viên bổ nhiệm một Hội đồng Chính trị để làm cố vấn cho Viên, và thành lập một Hội Đồng Hiến Pháp với thành phần là những đại biểu được dân bầu lên. Họ Viên cố chứng minh những lợi điểm của một nền quân chủ so với chính thể cộng hòa. Một số ít người cũng đồng ý với họ Viên. Tại Nhật Bản, phe cách mạng nhìn thấy Viên Thế Khải đang phá hoại công trình của họ đã tạo được sau bao nhiêu năm cố gắng, và cảm thấy rằng họ sẽ phải bắt đầu lại từ đầu.
Khi Tôn Dật Tiên trốn sang Nhật thì Tống Giáo Nhân cũng lâm vào tình cảnh nguy hiểm, vì mọi người biết rõ Tống Giáo Nhân là đồng chí của Tôn Dật Tiên, và đã hoạt động sát cánh với Tôn Dật Tiên. Nếu Tống Giáo Nhân tiếp tục ở lại Thượng Hải thì chắc chắn sẽ không tránh thoát được bàn tay của những thích khách do Viên Thế Khải phái tới. Tống Giáo Nhân đành phải quyết định đem cả gia đình trốn sang Nhật, gồm có Ái Linh, Khánh Linh và hai cậu con trai nhỏ. Lúc đó Tống Tử Văn và Tống Mỹ Linh vẫn còn du học tại Hoa Kỳ.
Khi tới Nhật Bản, gia đình Tống Giáo Nhân được Quốc dân đảng tại Nhật đón tiếp nồng hậu. Tống Ái Linh vẫn trở lại công việc làm thư ký cho Tôn Dật Tiên như trước. Tôn Dật Tiên cũng đem theo cả vợ con sang lánh nạn tại Nhật. Vì bổn phận của một lãnh tụ cách mạng, Tôn Dật Tiên đã phải sống xa gia đình gần như suốt cả cuộc đời, vì thế hai vợ chồng bây giờ có vẻ xa cách nhau. Sự ràng buộc giữa Tôn Dật Tiên và vợ con dường như rất lỏng lẻo. Nhưng tại Nhật Bản, vợ của Tôn Dật Tiên tìm thấy sự an ủi ở một tình bạn thân cận với bà Tống Giáo Nhân. Hai bà trở thành hai người bạn thân thiết với nhau, và cùng nhau đi thăm nhiều thắng cảnh tại Nhật Bản.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 4 Cuộc Tình Duyên Của Tống Ái Linh Và Khổng Tường Hy
Tại Nhật Bản, Tống Giáo Nhân được giới thiệu với Khổng Tường Hy, một nhà tài phiệt Trung Hoa còn rất trẻ, mới 33 tuổi. Khổng Tường Hy người tỉnh Sơn Tây và là dòng dõi đức Khổng Tử. Gia đình Khổng Tường Hy cực kỳ giầu có. Dinh cơ nhà họ Khổng tại Sơn Tây có tới ba trăm phòng ốc, chiếm một diện tích trên tám mươi mẫu đất, và trong nhà có trên năm trăm nô bộc phục dịch. Những đồ đạc trong nhà cực kỳ sang trọng quý giá. Bàn ghế tủ giường được mua và chở từ Quảng Đông lên tận miền bắc. Tài sản nhà họ Khổng là do một hệ thống các tiệm cầm đồ, các dịch vụ buôn bán bất động sản và ngân hàng. Thân phụ Khổng Tường Hy hiện đang điều khiển việc làm ăn của gia đình tại Bắc Kinh. Khổng Tường Hy mồ côi mẹ rất sớm, và được thân phụ gửi theo học tại một trường truyền giáo, tại đây Khổng Tường Hy bí mật theo đạo Thiên Chúa.
Khi loạn Quyền Phỉ của Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ năm 1900, các nhà truyền giáo ngoại quốc tại Trung hoa, và ngay cả những người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa, đã bị loạn quân và triều đình tàn sát rất dã man. Việc lợi dụng Nghĩa Hòa Đoàn để chống lại người tây phương là một sai lầm nghiêm trọng của Từ Hy Thái Hậu, khiến cho nhiều thành phố lớn của Trung hoa bị liên quân tây phương tàn phá để trả thù, và số thường dân vô tội bị chết oan cũng rất nhiều.
Trong những năm cuối thế kỷ 19, miền bắc Trung hoa hay bị hạn hán, mất mùa khiến các nông dân nghèo phải phiêu bạt kiếm miếng ăn, và rất công phẫn bất mãn triều đình. Lúc bấy giờ có hai người là Trương Đạt Thanh và Cao Phúc Điền đứng ra chiêu mộ thanh thiếu niên từ 15 tuổi trở lên để dạy quyền thuật. Hai người này còn đưa ra những nghi lễ cúng bái cho thêm phần kỳ bí, và ban phát những bùa chú có thể chống được gươm dáo, và khiến đối phương phải hoảng loạn tinh thần khi giao chiến. Hai người tổ chức môn đệ như tuần đinh trong làng, và đo đó được gọi là Nghĩa Hòa Đoàn, và môn võ của họ được gọi là Nghĩa Hòa Quyền. Về mặt tôn giáo, Nghĩa Hòa Đoàn rất giống với Bạch Liên Giáo.
Mục tiêu của Nghĩa Hòa Đoàn là tấn công các cơ sở truyền giáo của người tây phương, vì họ cho đó là nguyên nhân của mọi tai họa mà người dân Trung Hoa đang phải chịu đựng. Trong năm 1899, các nhà thờ Thiên Chúa giáo tại vùng Sơn Đông bị Nghĩa Hòa Đoàn tấn công phá hủy, giáo sĩ bị giết hoặc phải bỏ trốn về những thành phố an toàn. Bị các quốc gia tây phương phản đối và hăm dọa, triều đình nhà Thanh phải sai Viên Thế Khải ra trấn thủ Sơn Đông để diệt Nghĩa Hòa Đoàn. Nhưng một số quan nhà Thanh thấy Nghĩa Hòa Đoàn có thể dùng được để áp lực lại tây phương, nên liên kết với Nghĩa Hòa Đoàn. Do vậy, Nghĩa Hòa Đoàn đưa ra khẩu hiệu "Phù Thanh Diệt Dương". Vì lẽ này, các bang hội "Phản Thanh Phục Minh" chống lại Nghĩa Hòa Đoàn, và đã có những sự xung đột giữa Nghĩa Hòa Đoàn và các bang hội khác.
Năm 1900, Từ Hy Thái Hậu tin tưởng pháp thuật của Nghĩa Hòa Đoàn có thể chống lại được sức mạnh của tây phương, nên cho Nghĩa Hòa Đoàn vào Bắc Kinh. Khu vực của người tây phương tại Bắc Kinh bị quân Nghĩa Hòa Đoàn bao vây, và gây nhiều thiệt hại cho người tây phương. Nhiều giáo sĩ tây phương và người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa bị tàn sát. Khi liên quân các nước tây phương tiến vào tấn công, quân của Nghĩa Hòa Đoàn tay không xông vào quân địch, bất kể súng đạn, vì họ tin rằng bùa chú của họ sẽ thắng. Nhưng Nghĩa Hòa Quyền và bùa chú của họ không chống lại được súng đạn của tây phương. Do đó, Nghĩa Hòa Đoàn bị đánh tan tành, thây chất thành đống, và Từ Hy Thái Hậu cùng vua Quang Tự phải bỏ kinh thành chạy trốn về Tây An, để mặc Lý Hồng Chương ở lại thương thuyết cầu hòa.
Khi Nghĩa Hòa Đoàn tàn sát giáo sĩ tây phương và người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa thì Khổng Tường Hy may mắn thoát được cuộc tàn sát là nhờ về thăm nhà. Khổng Tường Hy thú thật với thân phụ đã theo đạo Thiên Chúa, và được thân phụ và người chú dấu thật kỹ trong nhà. Mãi tới khi loạn Quyền Phỉ bị dẹp rồi Khổng Tường Hy mới được tự do ra ngoài.
Ngay chính tại Sơn Tây, sinh quán của Khổng Tường Hy, một cuộc hành quyết các giáo sĩ ngoại quốc đã xảy ra. Cuộc hành quyết bắt đầu với các mục sư giòng Baptist. Mục sự Farthing bị lính dẫn lên trước. Bà vợ nắm chặt lấy tay mục sư, nhưng Farthing nhẹ nhàng đẩy tay vợ ra, đi thẳng tới trước người đao phủ và quỳ xuống. Một nhát dao vung lên, và đầu mục sư Farthing rụng xuống. Kế đó là các vị mục sư khác, tất cả đều bị chặt đầu.
Viên tổng đốc thấy cuộc hành quyết quá chậm chạp mà số nạn nhân thì còn nhiều, nên ra lệnh cho các binh sĩ khác dùng kiếm tiếp tay với các đao phủ, để giải quyết cho xong số nạn nhân còn đông đảo. Bà mục sư Farthing hai tay nắm chặt hai đứa con, nhưng binh sĩ giằng hai đứa bé ra, và đao phủ vung đao. Chỉ một nhát, đầu bà Farthing đã văng đi. Sau người lớn, các đao phủ tiếp tục hạ sát đến trẻ con. Nghệ thuật chém đầu của họ thật điêu luyện, vì đã có nhiều kinh nghiệm. Chỉ một nhát dao vung lên là xong đời một nạn nhân. Tuy nhiên cũng có vài đao phủ hơi vụng về, chưa quen với công việc chặt đầu người, nên đôi khi phải chém tới vài nhát mới làm xong nhiệm vụ, khiến nạn nhân phải vô cùng đau đớn.
Bà mục sư Lovitt đeo kính, nắm chặt tay con và nói với viên tổng đốc, "Chúng tôi tới Trung Hoa để đem tin lành cho các ông về Chúa Cứu Thế. Chúng tôi không làm điều gì hại, mà chỉ làm điều tốt. Tại sao các ông đối xử với chúng tôi như vậy?" Một tên lính bước tới lột kính của bà Lovitt ra, và hắn phải chém hai nhát mới chặt đứt được cổ bà Lovitt. Lúc chết rồi, tay bà Lovitt vẫn nắm chặt tay đứa con bà.
Khi các mục sư Tin Lành tử đạo xong thì đến lượt các linh mục công giáo người Pháp. Vị giám mục được dẫn ra trước. Vị giám mục đã già quá rồi, râu tóc bạc phợ Ông hỏi viên tổng đốc tại sao ông ta hành động tàn ác như thế. Viên tổng đốc trả lời vị giám mục già bằng một nhát kiếm tréo ngang mặt. Máu phun ra nhuộm đỏ bộ râu bạc của vị giám mục già, và ông gục xuống chết ngaỵ Sau đó là các linh mục và các vị nữ tu, tất cả đều chịu chung một hình phạt chặt đầu.
Ngày hôm đó tất cả 45 giáo sĩ tây phương và gia đình bị hành quyết, cùng với một số đông người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa. Xác của các nạn nhân để mặc nằm tại bãi hành quyết suốt đêm hôm đó, vì mãi đến chiều tối cuộc hành quyết mới chấm dứt. Trong đêm hôm đó, tất cả các xác đều bị lột hết quần áo và những gì có giá trị đeo trên mình. Ngày hôm sau, tất cả xác đều được chôn tập thể, trừ một vài cái đầu được đem đóng đinh ngay vào cổng thành, để làm gương cho công chúng.
Quan quân nhà Thanh cũng như loạn quân Quyền Phỉ không khỏi kinh ngạc cảm phục và e sợ trước sự can đảm của gia đình các nhà truyền giáo tây phương. Trừ một vài sự run rẩy ở phía các bà, và các bàn tay trẻ con nắm chặt váy mẹ ra, không một ai khóc lóc, kêu than hoặc van xin tha chết. Tất cả các nạn nhân bình thản chấp nhận cái chết thảm khốc dưới đao kiếm của quan quân nhà Thanh.
Sự hành quyết dã man các giáo sĩ truyền giáo và gia đình họ đã gây phẫn nộ tại tây phương. Sáu quốc gia phái quân đội đến trả thù, một cuộc trả thù vô cùng đắt giá cho người Trung hoa. Nếu chờ quân đội từ chính quốc tới thì lâu quá, người Anh phải tung vào cuộc trả thù ba ngàn lính Ấn Độ, trong khi người Pháp đem một số lính thuộc địa người Việt nam sang tham chiến. Huân tước Alfred von Waldersee, chỉ huy quân đội Đức, ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền:


"Khi các ngươi gặp quân Trung Hoa, các ngươi phải đánh bại chúng. Không được tha một tên nào, không được bắt chúng làm tù binh, mà phải giết hết. Tất cả những kẻ nào rơi vào tay các ngươi, các ngươi mặc sức chém giết. Cũng như người Mông Cổ cách đây gần một ngàn năm dưới quyền của Hốt Tất Liệt đã tạo được danh tiếng khủng khiếp còn lưu truyền đến ngày nay, thì bây giờ các ngươi có nhiệm vụ làm cho Đức quốc cũng được kinh sợ như vậy tại Trung Hoa, và từ nay người Trung Hoa sẽ không dám nhìn thẳng vào mặt người Đức."

Sau đó là một cuộc tàn sát trả thù vô cùng khủng khiếp của liên quân tây phương. Các thành phố và cung điện bị tàn phá thành những đống gạch vụn vĩ đại. Quân Nga chặt đầu tất cả đàn ông đàn bà và trẻ con trong suốt cả một vùng rộng lớn, rồi liệng xác nạn nhân xuống dòng sông Hắc Long Giang. Trong lúc đó thì Khổng Tường Hy có mặt tại Bắc Kinh. Khi được tin tỉnh Sơn Tây sẽ bị liên quân tây phương chiếu cố đặc biệt, vì chính tại Sơn Tây số giáo sĩ bị chặt đầu nhiều hơn hết. Khổng Tường Hy liền đứng ra thương thuyết, và dùng rất nhiều vàng bạc đút lót cho tây phương, gọi là tiền bồi thường. Gia đình nhà họ Khổng còn nhường lại rất nhiều quyền lợi kinh tế cho tây phương tại Sơn Tây, và nhờ đó cuộc trả thù của tây phương tại Sơn Tây đã tránh được.
Triều đình nhà Thanh rất cảm kích công lao của Khổng Tường Hy, và cấp thông hành đặc biệt cho Khổng Tường Hy được sang du học tại Hoa Kỳ. Khổng Tường Hy học tại đại học Yale, và đậu bằng tiến sĩ về môn kinh tế tài chánh. Khi trở về Trung Hoa, Khổng Tường Hy làm cố vấn cho sứ quân Diêm Tích Sơn một thời gian. Về sau Khổng Tường Hy mở trường giáo dục quần chúng, quảng bá lý tưởng dân chủ. Khi cuộc cách mạng xảy ra tại những tỉnh khác thì dân chúng Sơn Tây yêu cầu Khổng Tường Hy đứng ra chỉ huy quân đội tình nguyện của Sơn Tây, bao gồm những cảnh sát và vệ sĩ của các nhà giàu. Dân chúng muốn Khổng Tường Hy làm tổng đốc Sơn Tây, nhưng họ Khổng từ chối, và chỉ quan tâm tới vấn đề giáo dục.
Theo Khổng Tường Hy thì việc giáo dục rất quan trọng cho công cuộc cách mạng, cải tiến đất nước. Họ Khổng tuyên bố, "Chúng ta không thể hoàn thành cuộc cách mạng một sớm một chiều được. Người ta có thể tiến hành thành công một cuộc đảo chánh, thay đổi thể chế chính trị trong một đêm. Nhưng sau đó làm sao chúng ta có người để điều hành chính phủ? Chúng ta cần phải học tập cách cai trị đất nước, và giáo dục là bước đầu và quan trọng nhất trong một cuộc cách mạng."
Năm 1910, Khổng Tường Hy kết duyên với một thiếu nữ mồ côi nhưng rất đẹp, và được học tại một trường truyền giáo. Cả hai người sống rất hạnh phúc bên nhau được mấy năm tại Sơn Tây. Đến năm 1913, năm mà Viên Thế Khải trở thành một nhà độc tài tại Bắc Kinh, thì vợ Khổng Tường Hy mắc bệnh chết. Khổng Tường Hy rất đau lòng và nản chí trước cái chết của người vợ yêu quý, nên bỏ nước sang Nhật Bản một năm để tìm quên. Chính tại đây Khổng Tường Hy gặp được Tống Giáo Nhân và Tống Ái Linh.
Trong thời gian còn du học tại Hoa Kỳ, Khổng Tường Hy và Tống Ái Linh đã gặp nhau một lần trong một buổi tiệc liên hoan năm 1906. Bây giờ gặp lại nhau, Khổng Tường Hy bỗng say mê Ái Linh. Đối với Tống Ái Linh thì Khổng Tường Hy chính là một người chồng lý tưởng, một người không đẹp trai hấp dẫn, mặt mũi tròn như một trái bí, nhưng lại có rất nhiều tiền. Đối với Ái Linh thì chỉ có tiền là đẹp, càng nhiều tiền thì càng đẹp.
Khi Khổng Tường Hy ngỏ lời cầu hôn lấy Tống Ái Linh, thì ngay tối hôm ấy, Tống Giáo Nhân dùng hai đồng tiền gõ vào nhau để xem điềm tốt hay điềm xấu. Hai đồng tiền gõ vào nhau, vang lên những âm thanh rất trong trẻo ngọt ngào. Đó là những âm thanh của lợi lộc và phát tài. Tống Giáo Nhân vui vẻ chấp nhận lời cầu hôn của "cây tiền" Khổng Tường Hỵ Hôn lễ của Tống Ái Linh và Khổng Tường Hy được cử hành tại Nhật Bản vào mùa xuân năm đó.

Mối Tình Tống Khánh Linh Và Tôn Dật Tiên

Trong lúc còn du học tại Hoa Kỳ, Tống Khánh Linh vẫn theo dõi hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nàng vô cùng sung sướng khi Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống năm 1912. Trong dịp đó, Tống Khánh Linh viết một bài báo chào mừng ngày trọng đại của Trung Hoa, và coi Tôn Dật Tiên là một vị anh hùng và cứu tinh cho dân tộc Trung Hoa. Năm 1913 Tống Khánh Linh hồi hương và gặp người anh hùng của nàng. Nếu Tôn Dật Tiên thành công trong chức tổng thống thì có lẽ rồi Khánh Linh cũng quên dần Tôn Dật Tiên, và sẽ đi theo con đường riêng của nàng. Nhưng Tôn Dật Tiên là một mẫu anh hùng cách mạng thất bại. Hết thất bại này đến thất bại khác theo đuổi ông trong suốt cuộc đời hy sinh tận tuy tranh đấu cho đất nước của ông. Chính những thất bại của Tôn Dật Tiên đã khiến hai cuộc đời của ông và Tống Khánh Linh gặp nhau. Phải chăng đó là định mệnh?
Tống Khánh Linh trở về nước để thấy Tôn Dật Tiên đang thất thế, phải trốn tránh và đang ở trong một tình trạng cô đơn gần như tuyệt vọng. Viên Thế Khải đã trở thành người của thời cuộc, và đang ra lệnh tầm nã Tôn Dật Tiên. Chính cuộc đời lưu vong tại Nhật Bản của hai nhà họ Tôn và họ Tống đã tạo môi trường cho Khánh Linh và Tôn Dật Tiên lại gần nhau.
Tương lai chính trị của Tôn Dật Tiên trong thời gian lưu vong tại Nhật Bản không được sáng sủa lắm. Trong một cố gắng đạt được sự ủng hộ của Nhật Bản để có thể đương đầu với Viên Thế Khải, Tôn Dật Tiên đã hứa hẹn dành cho người Nhật rất nhiều đặc quyền đặc lợi tại Trung Hoa nếu người Nhật giúp ông đánh bại được Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên không biết được rằng người Nhật cũng đang đi đêm với cả Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên vẫn nhất quyết đạt được sự trợ giúp của người Nhật nên ông nhượng bộ thêm nữa, hứa cho người Nhật được hưởng những đặc quyền như người Anh tại Trung Hoa. Các đề nghị của Tôn Dật Tiên làm các giới chức Nhật rất thèm muốn, nhưng đúng lúc đó đệ nhất thế chiến bùng nổ tại Âu châu. Người Nhật muốn chờ đợi, vì họ biết quyền lợi của người Anh tại Á Châu sẽ thay đổi rất nhiều, tùy theo kết quả của cuộc đại chiến. Do đó mọi nỗ lực của Tôn Dật Tiên đều không đưa đến một kết quả nào.
Những thất bại liên tiếp làm Tôn Dật Tiên ngã lòng, và ảnh hưởng đến tinh thần ông. Lúc đó là giai đoạn đen tối nhất cho những người Trung Hoa đang hoài bão một tương lai tươi sáng cho xứ sở họ. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 là một hứa hẹn bình minh đầu tiên sau hàng ngàn năm tăm tối. Nhưng cuộc cách mạng này đã bị phản bội, và cuối cùng đưa Trung Hoa vào sự đen tối của chế độ độc tài Viên Thế Khải. Thật là một nghịch cảnh lớn lao đối với các nhà cách mạng Trung Hoa, vì đã có lúc họ tưởng như đã đạt được mục đích. Nhiều người Trung Hoa ái quốc đã phải tự tử vì không chịu đựng nổi sự thất vọng sâu xa này.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, Tôn Dật Tiên rất cần một người, một điểm tựa để bấu víu vào cho khỏi ngã quỵ, ít nhất là về mặt tinh thần. Tình bạn thân mật giữa Tôn Dật Tiên và Tống Giáo Nhân trước kia không còn nữa, sau vụ Ông đòi lấy Ái Linh làm vợ. Sau khi Ái Linh kết hôn với Khổng Tường Hy, và tìm thấy hạnh phúc của nàng thì nàng từ giã công việc làm thư ký buồn tẻ và không công cho Tôn Dật Tiên. Chưa bao giờ Tôn Dật Tiên cảm thấy cô đơn và chán đời như thế, vừa mất Ái Linh, vừa không nhìn thấy tia hy vọng của công cuộc quang phục nước Trung Hoa. Đúng giây phút tuyệt vọng ấy, Tống Khánh Linh đến với Tôn dật Tiên, như một nàng tiên đưa một ông già đang mang một tâm hồn cằn cỗi mệt mỏi, vào một vùng của hồi sinh và hạnh phúc. Tống Khánh Linh đang ở trong tình trạng rảnh rỗi nên tình nguyện thay thế chị, đến làm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên mỗi ngày.
Tống Ái Linh và Tống Khánh Linh là hai thái cực, khác nhau rất nhiều phương diện. Ái Linh buồn tẻ bao nhiêu thì Khánh Linh xinh đẹp bấy nhiêu. Ái Linh thực tế, tính toán và yêu tiền bạc bao nhiêu thì Khánh Linh hồn nhiên, lý tưởng, thiên về tinh thần và những giá trị cao quý bấy nhiêu. Khi đến với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh chỉ là một bông hoa mới chớm nở, một thiếu nữ xinh đẹp, trí thức, say mê lý tưởng và hết lòng yêu mến nước Trung Hoa.
Đối với Khánh Linh thì làm việc với Tôn Dật Tiên là một hạnh phúc. Niềm hạnh phúc sâu xa của nàng là do nàng cảm nhận rằng nàng đang thỏa mãn niềm khao khát của nàng ngay từ khi nàng còn nhỏ. Cuộc đời mới của nàng là phục vụ cho cách mạng. Nàng nghĩ những gì nàng làm cho Tôn Dật Tiên sẽ đem lại tự do và hạnh phúc cho hàng triệu công nhân và nông dân Trung Hoa. Những gì nàng ghi chép cho Tôn Dật Tiên đã giúp nàng hiểu rõ ý nghĩa đích thực của cách mạng. Nhiều lúc Khánh Linh cảm động vì những gì nàng viết đến nỗi phải ngừng lại để lấy lại bình tĩnh mới có thể viết tiếp được. Nàng giống như một dòng suối nhỏ uốn khúc quanh co để tìm lối ra đại dương, và bây giờ bất chợt cảm thấy mình trở thành một phần của một dòng thác lũ, cuồn cuồn xô tới một vùng nước mênh mông. Đây chính là điều nàng muốn thực hiện, cái nhu cầu của chính bản thân nàng, một nhu cầu mà nàng không kiềm chế nổi.
Khi làm việc với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh học hỏi được căn bản của cách mạng, từ khởi đầu cho tới hiện tại, những khó khăn cũng như những hứa hẹn của tương lai. Nàng nhận thấy cách mạng là một cái gì lớn lao cao cả, và nhận thức Tôn Dật Tiên đã quá lý tưởng không nhìn thấy được những thực tế khó khăn. Nàng hiểu Tôn Dật Tiên vì chính nàng cũng là một con người lý tưởng, và hiểu được những ước vọng tha thiết thầm kín của Tôn Dật Tiên. Nhưng vì còn trẻ, nên Khánh Linh không coi những khó khăn là quá to lớn, trái lại những khó khăn ấy còn như gây hứng khởi cho nàng. Sự công bình và chính đáng của các nguyên tắc cách mạng khích lệ nàng, và nàng tin tưởng rằng công cuộc cách mạng sẽ thắng và Trung Hoa sẽ trở thành một quốc gia trong đó người dân được làm chủ vận mạng của mình.
Khánh Linh chỉ là một cô gái trẻ bên cạnh một Tôn Dật Tiên đã già, tuy vậy những bản năng che chở bảo vệ của một người mẹ trong người nàng tuôn tràn ra để trợ giúp Tôn Dật Tiên. Đối với người khác, Khánh Linh có vẻ xa cách, dè dặt, tránh né, nhưng nàng hết sức cởi mở, bộc lộ hết tâm tư với Tôn Dất Tiên, vì nàng nghĩ ông hiểu nàng. Khánh Linh ít khi nào tâm sự với bất cứ ai trong gia đình nàng, trừ một đôi lần với thân phụ và Mỹ Linh. Từ trước tới nay, Khánh Linh dường như sống một cuộc đời cô đơn thầm kín. Mãi cho tới nay, khi gặp Tôn Dật Tiên, cuộc đời mới thực sự mở ra cho nàng, và rất sống động.
Khánh Linh thường làm việc rất khuya, đến quá nửa đêm, cùng với Tôn Dật Tiên. Nàng bàn luận với Tôn Dật Tiên những gì cần phải viết, và viết cách nào cho có hiệu quả. Ban đêm trên giường ngủ, nàng thường nằm nghĩ lại những đoạn văn nàng viết, về những gì nàng và Tôn Dật Tiên bàn thảo với nhau. Những lúc ấy, một ý nghĩ mới và mạnh mẽ bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nàng, nhưng nàng vẫn cố gắng kiềm chế để chờ biết rõ tâm hồn nàng hơn nữa.
Nhiều khi Khánh Linh thấy Tôn Dật Tiên lo lắng, tinh thần và thể xác mệt mỏi. Ông cần phải có một sức mạnh mới, vĩnh viễn bên cạnh trợ giúp ông. Khánh Linh tự nhủ, "Ta có thể giúp Trung Hoa và ta có thể giúp bác sĩ Tôn Dật Tiên. Bác sĩ cần tạ" Nàng chưa nói điều đó ra với ai, nhưng đó là một niềm tin không thể lay chuyển nổi của nàng. Tinh thần chính trực của nàng bảo cho nàng rằng nếu nàng dâng hiến đời nàng cho công cuộc cách mạng thì đây là hành động cuối cùng, không thể lùi được. Thân phụ nàng tin rằng Trung Hoa cần phải thay đổi, nhưng không phải là sự thay đổi mà nàng biết Tôn Dật Tiên đang toan tính. Quyết định của nàng có phản lại cái gia đình yêu quý của nàng không, nàng tự hỏi? Hằng đêm nàng nằm yên lặng, không ngủ, cố đi sâu vào nội tâm của mình.
Nhưng cái tinh thần tận tụy và khả năng hy sinh của Khánh Linh đã giúp nàng quyết định khi cái ý nghĩ đầu tiên đến với nàng. Tuy nhiều đêm nàng nằm suy nghĩ, tự hỏi lòng mình, và cố gắng chắc rằng sau này sẽ không có sự thay đổi nữa, nhưng lòng nàng đã thực sự quyết định rồi. Khánh Linh không còn là một người con gái như mọi người trong gia đình vẫn nghĩ về nàng: dè dặt ít nói, nhát sợ, hay mắc cở và khiêm tốn. Nàng biết rằng từ trước nàng vẫn che dấu nhân cách của nàng. Nhưng bây giờ nàng sống với tâm hồn thực của nàng, một con người đầy nghị lực, sẵn sàng và bạo dạn dâng hiến đời nàng cho cách mạng.
Hàng ngày Tôn Dật Tiên và Khánh Linh làm việc bên nhau, gần gũi nhau và càng lúc càng ý hợp tâm đầu, vì hai người có cá tính giống nhau. Khánh Linh thấy ở Tôn Dật Tiên một lý tưởng cao đẹp quang phục nước Trung Hoa, như nàng vẫn thường ấp ủ. Nàng nhìn thấy ở Tôn Dật Tiên không phải là một ông già ở tuổi ngũ tuần, mệt mỏi sau quá nhiều thất bại. Trái lại nàng chỉ thấy ở ông một sự vô cùng đẹp đẽ, những hào quang của một kiểu mẫu anh hùng mà nàng hằng mơ tưởng, một người đàn ông đẹp trọn vẹn với đầy đủ sức quyến rũ hùng tráng của một bậc trượng phụ Còn Tôn Dật Tiên càng ngày càng say đắm cái nhan sắc tuyệt trần của Khánh Linh, sự thông minh duyên dáng đáng mê của nàng, trong khi đó bà vợ già quê mùa mà cha mẹ Ông cưới cho ông trên ba mươi năm trước, bây giờ mỗi ngày một thấy vô duyên hơn.
Trước kia Tôn Dật Tiên muốn lấy Ái Linh làm vợ chỉ vì lòng ưa thích sự mới lạ trẻ trung bên ngoài của một cô gái tân tiến. Nếu ông và Ái Linh thành vợ chồng thì chắc chắn hai người đều không có hạnh phúc, vì bản chất khác hẳn nhau. Nhưng bây giờ ông say mê Khánh Linh không những Khánh Linh đẹp và trẻ hơn Ái Linh, mà ông còn cảm phục yêu mến cái tâm hồn cao thượng của nàng nữa. Thế là việc phải đến đã đến. Hai con tim hòa hợp nhau, yêu nhau say đắm. Đây là một sự kết hợp giữa mùa đông và mùa xuân, chàng đã 50 tuổi, có vợ và ba con đã trưởng thành, và nàng mới chỉ 20 tuổi, một bông hoa hãy còn phong nhụy. Tuy nhiên hai người vẫn cố gắng giữ kín mối tình lãng mạn của họ đến tối đa, không một ai biết được.
Một điều bất ngờ xảy đến là Tống Giáo Nhân tỏ ý muốn trở về Thượng Hải. Họ Tống đã mua một căn nhà lớn trong khu tô giới Pháp tại Thượng Hải. Dĩ nhiên Khánh Linh kịch liệt phản đối quyết định trở về Thượng Hải của thân phụ. Nàng đang ngụp lặn trong hạnh phúc đầu tiên và không muốn rời xa Tôn Dật Tiên. Gia đình họ Tống phải kèm giữ Khánh Linh và đưa nàng về Thượng Hải cấp tốc như một trường hợp bắt cóc. Hai vợ chồng Ái Linh và Khổng Tường Hy cũng về theo. Có thể Tống Giáo Nhân tinh ý nghi ngờ có sự lén lút giữa Tôn Dật Tiên và Khánh Linh, nên quyết định trở về Thượng Hải để kịp thời lôi con gái ra khỏi cơn mệ Tống Giáo Nhân cũng không còn tin tưởng ở ông bạn cách mạng già của mình nữa. Kể từ sau vụ từ chối không gả Ái Linh cho Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân không còn quý trọng thân mật với người bạn chí thân nữa. Tống Giáo Nhân cũng muốn tránh một trường hợp tương tự, phải từ chối lời cầu hôn của Tôn Dật Tiên một lần nữa.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 5 Cuộc Hôn Nhân Của Tống Khánh Linh Và Tôn Dật Tiên
Ngay khi về đến Thượng Hải, gia đình họ Tống loan báo lễ hứa hôn của Khánh Linh với một thanh niên con một gia đình danh giá quyền quý. Khánh Linh chống đối quyết định của gia đình một cách quyết liệt, và tuyên bố không bao giờ chấp nhận cuộc hôn nhân ấy. Tâm hồn nàng đã gửi cả cho Tôn Dật Tiên tại Đông Kinh rồi. Tống Giáo Nhân nhốt nàng trong một phòng ngủ trên lầu. Khánh Linh bí mật viết thư cho Tôn Dật Tiên, hỏi ý kiến ông nàng trốn sang Nhật với ông ta được không. Lá thư này Khánh Linh giao cho một đầy tớ gái thân tín đem ra bỏ tận nhà bưu điện, để không bị thân phụ nàng biết. Nhận được thư Khánh Linh, Tôn Dật Tiên vội vàng phúc đáp ngaỵ Nhà đại cách mạng thúc giục nàng phải trốn sang Nhật với ông ta ngay tức khắc, vì ông ta rất cần nàng.
Khánh Linh trình bày cho thân phụ biết tất cả sự thực về mối tình của nàng với Tôn Dật Tiên, và xin thân phụ chấp thuận cho nàng được toại nguyện, được kết hôn với Tôn Dật Tiên. Tống Giáo Nhân khăng khăng không chấp nhận một cuộc hôn nhân mà ông cho là tội lỗi đó. Đối với bà Tống Giáo Nhân thì không chuyện gì có thể gây kinh hoàng cho bà hơn thế. Bà biết vợ chồng Tôn Dật Tiên đều theo đạo Thiên Chúa, bà Tôn Dật Tiên cùng thế hệ với chồng và là một người vợ chính đáng, xét theo mọi tiêu chuẩn đạo đức của Trung Hoa. Bà không thể chấp nhận hành động của Tôn Dật Tiên bỏ người vợ cũ để chạy theo một người con gái đáng tuổi con mình. Điều tàn nhẫn nhất đối với bà là người con gái trẻ đó lại là con gái bà.
Nhưng Khánh Linh tỏ ra rất quyết tâm, không nhượng bộ sự ngăn cấm của cha mẹ. Không những Khánh Linh có hành động chống đối với chính mẹ nàng, mà còn đi ngược lại tất cả mọi tục lệ của xã hội Trung Hoa. Theo tục lệ cổ của Trung hoa thì một người con gái có thể làm một người vợ bé, nhưng phải do các bậc trưởng thượng của hai bên gia đình sắp đặt, và người con gái phải tỏ vẻ vâng chịu quyết định của những người trưởng thượng. Người con gái Trung Hoa, theo tục lệ cổ truyền, không thể tự ý đề nghị việc hôn nhân của mình, hoặc không được phép chống đối lại ý chí của gia đình.
Vợ chồng Tống Giáo Nhân cho rằng gia đình họ gặp một điều đại bất hạnh, và một hành động điếm nhục gia phong do chính đứa con gái cưng của ông bà gây ra. Tống Giáo Nhân ra lệnh cho Khánh Linh phải trở lên phòng trên lầu. Khánh Linh thành thực cho thân phụ biết nàng sẽ trốn sang Nhật với Tôn Dật Tiên. Vì thế Tống Giáo Nhân cẩn thận khóa trái cửa phòng ngủ của con gái lại. Nhưng ngay đêm đó, trong lúc người hầu gái đứng bên dưới giữ chân thang, Khánh Linh trèo qua cửa sổ đi theo tiếng gọi của tình yêu. Ngay đêm đó Khánh Linh xuống tầu thủy sang Kobe, Nhật Bản. Đó là một hành động vô cùng táo bạo đối với một người con gái Trung hoa vào thời đó. Không những nàng bị coi là bất hiếu với cha mẹ, mà còn phản lại nghĩa vụ gia đình nữa.
Khi Khánh Linh tới nơi, Tôn Dật Tiên cấp tốc tổ chức hôn lễ ngay, để tạo ra một sự viêc đã rồi, nếu gia đình nhà họ Tống đến tận nơi để phản đối. Ngoài ra Tôn Dật Tiên cũng không muốn Khánh Linh mang tiếng chỉ là một người vợ bé của ông, và cũng không muốn mối tình duyên này có thể gây tai hại cho công cuộc cách mạng. Đám cưới được cử hành một ngày sau khi Khánh Linh tới Kobẹ Tôn Dật Tiên chưa kịp ly dị người vợ cả già nua của ông, nhưng ông tự nhận ông ở vào tình trạng đã ly dị. Nếu Tôn Dật Tiên là một người theo đạo Khổng thì ông có thể lấy thêm vợ bé, miễn là được vợ cả và các người trưởng thượng trong gia tộc đồng ý. Nhưng ông là người theo đạo Thiên Chúa, và ông bị coi như mắc tội đa thê.
Khi Tống Giáo Nhân khám phá Khánh Linh đã trốn khỏi nhà, ông liền tra hỏi người hầu gái, và được biết Khánh Linh đã trốn sang Nhật Bản. Tống Giáo Nhân liền vội vã xuống tàu Pacific Mail để đuổi theo con gái. Khi tới Kobe ông dùng xe lửa đi Yokohama, nhưng quá trễ. Hôn lễ đã cử hành xong trước khi ông tới. Tống Giáo Nhân đã thua Tôn Dật Tiên một bước, và đây có lẽ là sự thành công duy nhất đáng kể trong cuộc đời cách mạng của Tôn Dật Tiên. Tống Giáo Nhân đến gặp cô dâu và chú rể. Trong một trận cãi nhau kịch liệt, Tống Giáo Nhân buộc tội Tôn Dật Tiên là người phản bạn, dụ dỗ con nít, và hành động một cách bệnh hoạn. Ông nhắc cho Tôn Dật Tiên biết trong hai chục năm vừa qua, hai người đã sát cánh chiến đấu bên nhau, và bây giờ chiến thắng đã gần kề thì Tôn Dật Tiên phản lại lòng tin của ông.
Tôn Dật Tiên hoàn toàn im lặng trước cơn thịnh nộ của Tống Giáo Nhân, vì ông là kẻ chiến thắng. Ông đã được Khánh Linh là đủ rồi; ông thản nhiên nhìn Tống Giáo Nhân mắt tóe lửa, nói sùi cả bọt mép. Khi thất bại không kêu gọi được lòng trung thành bằng hữu ở Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân thề sẽ phá cuộc hôn nhân này, vì Khánh Linh chưa đủ tuổi thành niên, không được kết hôn nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ. Càng nói Tống Giáo Nhân càng thêm giận dữ. Tôn Dật Tiên đã đi quá xa đối với ông. Ông tuyên bố từ nay sẽ cắt đứt mọi liên lạc với Tôn Dật Tiên, và công cuộc cách mạng. Rồi với bộ mặt tái mét vì giận, Tống Giáo Nhân quay lại, chỉ vào mặt Khánh Linh và nói ông từ nàng, không chấp nhận nàng là con nhà họ Tống nữa. Ngay sau đó Tống Giáo Nhân xuống tàu trở về Thượng Hải. Về sau này Tống Giáo Nhân tâm sự với một người bạn, "Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi đau đớn như thế. Con gái tôi và người bạn thân nhất của tôi."
Như vậy Tống Khánh Linh chính thức trở thành bà Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng của Trung hoa. Bà vợ già của Tôn Dật Tiên lẳng lặng lùi vào bóng tối. Hai người tạm thời ở lại Nhật Bản chờ thời cợ Thỉnh thoảng Tôn Dật Tiên cũng lén lút trở về Trung Hoa để gặp và bàn luận với Trần Kỳ Mỹ và Tưởng Giới Thạch.


Đế Chế Của Viên Thế Khải Thất Bại
Trong lúc Tôn Dật Tiên còn mải hưởng hạnh phúc mới với Khánh Linh thì tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải quyết tâm phục hồi nền đế chế. Vào cuối năm 1915, Viên Thế Khải bắt đầu sửa soạn cho việc lên ngôi hoàng đế. Lúc đó các nước tây phương còn mải mê với trận đại chiến thứ nhất, để mặc Nhật Bản một mình một chợ tại Á Châu. Nhật bản muốn nhân cơ hội này thay thế các nước tây phương để chiếm địa vị minh chủ ở Á Châu, và phá cuộc diện cơ hội đẳng quân của tây phương tại Trung Hoa. Nhật Bản biết Viên Thế Khải đang vận động để tái lập nền quân chủ, và Nhật có thể lợi dụng Viên Thế Khải cho mục tiêu của Nhật.
Trước hết Nhật Bản tuyên chiến với Đức, với tư cách là đồng minh của Anh quốc. Nhật yêu cầu quân hạm của Đức phải rút ra khỏi biển Nhật Bản và biển Trung Hoa, và phải giao nhượng địa Giao Áo của Đức cho Nhật. Đức không trả lời. Quân Nhật liền tấn công Giao Áo, nhưng lại cố ý đổ bộ lên Long Khẩu là đất của Trung Hoa, rồi tiến chiếm Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông. Viên Thế Khải phản đối Nhật Bản, thì người Nhật gửi cho họ Viên một bản 21 điều khoản yêu sách, đòi thừa kế tất cả chủ quyền của người Đức tại Sơn Đông và các đặc quyền tại vùng Mông Cổ, Mãn Châu và vùng Hoa Bắc. Sau hơn bốn tháng thương thuyết đàm phán, Viên Thế Khải phải thừa nhận cả 21 điều khoản yêu sách của Nhật. Từ đó Nhật thay thế Anh và Nga làm chủ tình hình Đông Á, và Trung Hoa trở thành một chư hầu của Nhật. Hoa Kỳ là nước duy nhất phản đối sự bành trướng của Nhật, nhưng không có kết quả gì. Sự nghiệp chính trị của Viên Thế Khải là một chuỗi những sự phản bội. Trước hết Viên phản bội vua Quang Tự, rồi phản bội nhà Mãn Thanh, phản bội chính thể cộng hòa, và bây giờ đi với Nhật để phản bội ngay chính nước Trung Hoa để mưu cầu quyền lợi riêng của mình.
Nhưng mộng đế chế của Viên Thế Khải gặp một sự chống đối mạnh mẽ từ mọi phía. Bây giờ không còn ai tin được Viên Thế Khải nữa, vì họ Viên phản bội mọi người. Ngay khi Viên Thế Khải làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế thì Thái Ngạc, nguyên là đô đốc Vân Nam, bỏ trốn về Vân Nam và cùng Đường Kế Nghiêu đánh điện xin Viên thủ tiêu đế chế, và tuyên bố Vân Nam độc lập. Thái Ngạc đem quân đánh lấy Tứ Xuyên, Lý Liệt Quân chiếm Quảng Đông. Viên Thế Khải sai Tào Côn và Ngô Bội Phu tiến quân đánh Thái Ngạc, và Long Tế Quang tấn công Lý Liệt Quân. Nhưng các tỉnh Quảng Tây, Chiết Giang, Hồ Nam, Thiểm Tây, Qúi Châu lần lượt theo nhau tuyên bố độc lập và chống lại Viên Thế Khải.
Đến đây các bộ hạ thân tín nhất của Viên Thế Khải là Đoàn Kỳ Thụy và Phùng Ngọc Tường thấy Viên Thế Khải bị cô thế, cũng theo các tỉnh miền nam phản đối đế chế. Sự chống đối Viên Thế Khải bây giờ cũng lan nhanh và rộng như cuộc cách mạng chống nhà Thanh năm 1911. Thực vậy, vào mùa xuân năm 1916, khắp Trung Hoa đều chống lại Viên, và Viên trở thành một lãnh tụ cô đơn tại Bắc Kinh. Khi bị ngay quân đội miền bắc chống lại thì Viên biết rằng giấc mộng làm vua không thể thành tựu được. Viên liền ra sắc lệnh hủy bỏ ý định làm hoàng đế, và chỉ giữ chức tổng thống thôi. Nhưng các tỉnh chống đối không chịu, đòi Viên phải từ bỏ mọi quyền hành chính trị.
Đang uy quyền nhất nước, chỉ một bước nữa là lên ngôi vị hoàng đế, nay bỗng nhiên mất tất cả. Viên Thế Khải vô cùng uất hận. Trong một cơn giận không kiềm chế được, Viên cầm kiếm đạp cửa phòng của một người hầu thiếp yêu quý nhất trong số hai mươi người vợ của Viên, đặc biệt là người hầu thiếp xinh đẹp này mới sinh hạ được một đứa con trai cho Viên. Khi bước vào phòng, Viên trông thấy người hầu thiếp đang nằm ôm đứa con trai vừa mới sinh. Trong một cơn giận mất trí, Viên vung kiếm đâm chết cả hai mẹ con. Một tuần sau đó, Viên quá ưu uất một sớm một chiều mất hết quyền lực, và cũng đau lòng hối tiếc đã giết vợ và con trai, nên Viên bị đứt gân máu và từ trần ngày 6-6-1916.
Cái Chết Của Tống Giáo Nhân
Người con gái út của Tống Giáo Nhân là Tống Mỹ Linh được du học tại Welleshley College thuộc tiểu bang Massachusett từ 1913 đến 1917, trong khi đó Tống Tử Văn học về kinh tế tại đại học Harvard. Thời gian du học tại Hoa Kỳ đã biến đổi Tống Mỹ Linh từ một cô gái mập tròn thành một thiếu nữ đẹp duyên dáng và khoẻ mạnh. Rất đông sinh viên Trung hoa tại đại học Harvard tấp tểnh muốn được lọt vào mắt xanh của nàng. Khi Mỹ Linh nghe tin về mối tình của chị Khánh Linh với Tôn Dật Tiên, nàng lo sợ khi trở về Trung hoa, nàng có thể sẽ phải chấp nhận một cuộc hôn nhân đã sắp đặt trước theo tục lệ cổ truyền của người Trung hoa. Chính vì thế, nàng công bố việc hứa hôn của nàng với một sinh viên họ Lý. Nhưng cuộc hứa hôn này cũng chỉ kéo dài được vài tuần, cho đến khi sự lo sợ viển vông của nàng tan dần.
Vào lúc Mỹ Linh trở về Thượng Hải năm 1917 thì vụ ái tình tai tiếng của Khánh Linh cũng đã nguôi rồi, và ít ai nhắc nhở đến nữa. Mỹ Linh trở thành một người đẹp nổi tiếng, một cái đinh trong các buổi tiếp tân. Ai cũng bàn tán về cô con gái út của nhà triệu phú họ Tống, vừa học cao vừa đẹp sắc xảo. Mỹ Linh không hài lòng căn nhà của ông bố mua tại đường Joffrẹ Nàng cằn nhằn đòi thân phụ phải mua một căn nhà thật lớn, có nhiều tiện nghi tân tiến hơn. Tống Giáo Nhân có vẻ hối tiếc đã gửi các con gái du học ngoại quốc để trở thành những người mà ông không còn kiềm chế nổi nữa, nhất là sau vụ Khánh Linh cưỡng lại ông để kết hôn với Tôn Dật Tiên. Có lần Tống Giáo Nhân nói với bạn bè, "Đừng bao giờ cho con cái du học. Chúng chẳng đem về cái gì tốt đẹp cả. Chúng chỉ muốn đảo ngược tất cả mọi việc theo ý chúng."
Mặc dù Tống Giáo Nhân thề từ bỏ mọi liên lạc với công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên, nhưng trong dịp một nhà tài phiệt Hoa Kỳ có công giúp cách mạng Trung Hoa đến thăm Thượng Hải, Tống Giáo Nhân cũng cố quên sự thù nghịch với Tôn Dật Tiên, và cả hai người đều tiếp đón nhà tài phiệt Hoa Kỳ một cách thật long trọng chu đáo. Nhà tài phiệt viết thư về nước cho bạn bè biết ông ta được đón tiếp tại Thượng Hải như một vị hoàng đế.
Việc Tống Giáo Nhân lựa chọn về sống tại Thượng Hải trong tô giới Pháp cũng là vì lý do an ninh. Phần lớn các nhà cách mạng Trung hoa đều sống trong tô giới Pháp để hưởng sự bảo vệ của người Pháp. Một điều quan trọng hơn đối với Tống Giáo Nhân là người chỉ huy ngành an ninh của Pháp tại Thượng Hải là Hoàng Mặt Rỗ, chúa trùm nhóm anh chị Hồng Hội, một tổ chức tội ác có ảnh hưởng bao trùm tất cả một khu vực rộng hàng ngàn dậm dọc theo sông Dương Tử. Trước kia Tống Giáo Nhân đã giúp đỡ tổ chức của Hoàng Mặt Rỗ rất nhiều, nay ông nhận thấy gia đình ông gặp nguy hiểm, và cần đến sự bảo vệ của Hoàng Mặt Rỗ.
Sau khi về Thượng Hải được ba năm thì Tống Giáo Nhân bất thần chết vì bệnh ung thư bao tử, một cơn hấp hối đau đớn kéo dài trong vài ngày. Có nhiều dấu hiệu mờ ám trong cái chết của Tống Giáo Nhân. Gia đình và bạn bè thân của Tống Giáo Nhân không một ai nhận thấy một dấu hiệu suy yếu đau ốm nào ở họ Tống. Rồi bỗng nhiên ông đau đớn kịch liệt vài ngày rồi chết, và được ghi nhận là chết vì ung thư bao tử năm 1918, lúc đó Tống Giáo Nhân mới được 52 tuổi. Người ta nghi rằng Tống Giáo Nhân chết vì bị đầu độc. Nếu ông không bị đầu độc bởi kẻ thù thì cũng bị đầu độc bởi chính phe bạn. Ông là người có công rất nhiều với công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên, nhưng ngay khi ông phản đối cuộc hôn nhân của Khánh Linh và Tôn Dật Tiên thì lập tức ông trở thành một cái bóng mờ trong tổ chức. Các đệ tử của Tôn Dật Tiên phải cố gắng bảo vệ danh tiếng của Tôn Dật Tiên trước sự chống đối khinh bỉ của Tống Giáo Nhân. Không những thế, họ còn cho rằng cần phải xóa bỏ Tống Giáo Nhân vì đại cuộc của Tôn Dật Tiên. Tôn Dật Tiên phải là một thần tượng hoàn toàn. Chính vì thế Tống Giáo Nhân đau và chết một cách âm thầm. Ngay cả đám tang của họ Tống cũng được cử hành một cách lặng lẽ mau lẹ, không được báo chí nhắc nhở, không được truy điệu đúng mức với công lao đóng góp của Tống Giáo Nhân vào công cuộc cách mạng.
Các con của Tống Giáo Nhân đều có mặt bên giường chết của ông, kể cả Tống Khánh Linh. Nhưng sau đám tang, khi các chị trở về nhà chồng hết, thì chỉ còn lại một mình Mỹ Linh sống với bà mẹ. Mỹ Linh bây giờ được tự do hành động theo đúng ý thích. Nàng mua một căn nhà lớn sang trọng hơn, và trở thành một nhân vật nổi tiếng tại Thượng Hải.

Phong Trào Ngũ Tứ
Sau Đệ nhất thế chiến, Thượng Hải trở thành một thành phố cực kỳ phồn thịnh. Giới mại bản Trung hoa ngày một giầu có thêm và mở rộng ảnh hưởng sang các lãnh vực khác. Nhưng bên cạnh sự phồn thịnh của giai cấp tư bản thượng lưu, thì đại đa số người dân Thượng Hải sống rất cực khổ vì bị giới chủ nhân bóc lột đến tối đạ Trong những xưởng thợ, nhiều trẻ em khoảng mười tuổi phải làm việc 13 giờ một ngày, và khi mệt quá thì nằm gục xuống ngủ bên cạnh máy móc. Những đứa trẻ này đã bị cha mẹ bán cho xưởng máy và chúng không có cách nào trốn khỏi những nhà máy được canh gác cẩn mật cả ngày lẫn đêm. Ngoài đường phố tại khu vực nhà nghèo, ngày nào cũng có xác người chết đói nằm ngoài đường. Trong khoảng từ 1920 đến 1940, sở hốt rác nhặt được ít nhất ba chục ngàn xác chết đói ngoài đường phố Thượng Hải.
Đối với người Trung Hoa, việc lật đổ nhà Mãn Thanh cũng không làm cho đời sống họ khá hơn, mà trái lại tình trạng sinh sống của họ còn tồi tệ hơn trước. Thay vì có một chánh quyền mạnh ở trung ương, thì quyền lực chính trị vỡ thành nhiều mảnh nhỏ. Mỗi sứ quân xưng hùng tại một khu vực, tha hồ đánh thuế, vơ vét của cải và sang đoạt tài sản. Có sứ quân bắt dân chúng dưới quyền phải nộp thuế trước 32 năm. Các sứ quân lại thường hay giao chiến với nhau để tranh dành ảnh hưởng, nên miền quê bị tàn phá, ruộng đất hoa màu không trồng trọt được. Gạo phải nhập cảng, và nông dân phải bồng bế nhau bỏ ruộng vườn ra thành phố để rồi cũng chẳng khá gì hơn. Cuối cùng những nông dân này phải đem bán con cái và chính họ cũng chết dần vì đói. Thời đó người ta tin rằng thịt người được bán đầy ngoài chợ. Trẻ con được đem bán từng đàn: con trai thì vào làm nô lệ trong xưởng máy, con gái thì theo một con đường duy nhất là vào các động mãi dâm, làm đồ chơi cho giới thương gia có nhiều tiền.
Ngay trong Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên cũng có sự phân hóa. Nòng cốt của Đồng Minh Hội là thương gia và sinh viên. Sau đệ nhất thế chiến, hai giới này coi nhau như thù địch. Sinh viên thì muốn một cuộc cách mạng toàn diện: đuổi người ngoại quốc ra khỏi Trung Hoa, phân chia ruộng đất cho nông dân và bãi bỏ các đặc quyền kinh tế. Trong khi đó quyền lợi của giới thương gia lại gắn liền với người ngoại quốc. Đến khi Nhật Bản can thiệp vào Trung Hoa thì hai phe sinh viên và thương gia tách hẳn nhau thành tả phái và hữu phái.
Sau đệ nhất thế chiến, Đức bại trận và mất tất cả các lãnh thổ hải ngoại. Tại Trung Hoa, Nhật Bản nhảy vào thay thế Đức, và được Anh Pháp hứa hẹn cho chiếm giữ ảnh hưởng lâu dài tại tỉnh Sơn Đông. Nhật Bản đưa ra 21 điều khoản yêu sách cho Viên Thế Khải, đòi hỏi quyền kiểm soát Sơn Đông vĩnh viễn và các nhượng bộ lớn tại Mãn Châu và nhiều nơi khác. Lúc đó Viên Thế Khải phải chấp nhận các yêu sách quá đáng này vì Nhật hăm dọa sẽ ủng hộ đối thủ của Viên. Họ Viên yêu cầu người Nhật giữ kín những nhượng bộ này. Tại hội nghị Ba Lê, đại biểu Trung Hoa yêu cầu bãi bỏ phạm vi thế lực của ngoại quốc, thu hồi các tô giới và Hoa Kỳ hết sức hỗ trợ cho đại biểu Trung Hoa. Nhưng khi phái đoàn Nhật Bản đưa ra hiệp định Sơn Đông, cho phép người Nhật được thừa kế quyền lợi của người Đức tại Trung Hoa, do chính Công sứ Trung Hoa tại Nhật Bản là Chương Tông Tường ký thì Hoa Kỳ không thể bênh vực Trung Hoa được nữa. Như vậy phái đoàn Trung Hoa tại hội nghị Versailles thất bại, ra về tay không.
Đại biểu Trung Hoa đánh điện về cho chính phủ biết nguyên nhân sự thất bại là mật ước đã ký từ trước, có sự đồng ý của đại diện Trung Hoa. Khi bức điện tín ấy được truyền ra thì quần chúng vô cùng phẫn nộ. Viên Thế Khải đã chết rồi, nên mọi tội đều quy về Chương Tông Tường và bộ trưởng ngoại giao Tào Nhữ Lâm và Lục Tông Dư, người tự ý vay tiền của Nhật Bản. Quần chúng gọi ba người này là giặc bán nước.
Ngày 4-5-1919, mấy ngàn học sinh các trường học tại Bắc Kinh họp nhau rồi diễn hành qua các đường phố, yêu cầu chính phủ phải trừng trị ba tên bán nước. Khi bị cảnh sát cản đường, đoàn học sinh quay trở lại nhà Tào Nhữ Lâm, lúc bấy giờ Chương Tông Tường cũng mới về nước, và đang trú ngụ tại nhà Tào Nhữ Lâm. Tào Nhữ Lâm kịp thời bỏ trốn. Chương Tông Tường không trốn kịp, bị học sinh bắt được và bị đánh gần chết. Chính quyền ra lệnh bắt một số học sinh. Học sinh liền tổ chức thành những đoàn "giảng diễn", kêu gọi người Trung Hoa tẩy chay hàng hóa Nhật. Rồi cuộc xuống đường của học sinh sinh viên lan tràn khắp nước và được giới trí thức và công nhân hậu thuẫn. Nhật Bản vội phái quân đội tới giữ an ninh tại các lãnh địa của Nhật, kể cả Thượng Hải. Một số sinh viên bị bắt tại Bắc Kinh. Lập tức 64 ngàn công nhân đình công tại Thượng Hải, bắt chính phủ Bắc Kinh phải trả tự do cho học sinh và cách chức các viên chức thân Nhật. Phong trào sinh viên không chỉ nhắm vào người ngoại quốc, mà còn chống đối cả những người Trung Hoa cộng tác và phục vụ người ngoại quốc. Điều này làm cho giới mại bản và những bang hội bí mật lo ngại. Chính phủ phải bãi chức Tào Nhữ Lâm, Chương Tông Tường và Lục Tòng Du, nhờ đó sự phẫn nộ của quần chúng mới dịu xuống.
Cuộc vận động ái quốc này xảy ra ngày 4 tháng 5, nên được người ta gọi là Phong trào Ngũ Tứ. Cuộc biểu tình của học sinh trong Phong Trào Ngũ Tứ năm 1919 chấm dứt ngay khi đạt được mục tiêu. Nhưng cuộc đứng dậy vì lòng ái quốc của học sinh và sinh viên trong Phong Trào Ngũ Tứ đã như một chất men say, gây nguồn cảm hứng, khuấy tạo ra một làn sóng hưởng ứng rộng rãi, ảnh hưởng tới toàn thể quần chúng, và mở đường cho những làn sóng cách mạng Trung hoa sau này.

Đảng Cộng Sản Thành Hình
Tháng 5-1921, Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu đến Thượng Hải dự một cuộc họp quan trọng. Chính trong cuộc họp này Đảng Cộng sản Trung hoa được đề nghị thành lập. Các người cộng sản thấy cần phải có một tổ chức trung ương của đảng, và Thượng Hải được coi là địa điểm hợp lý nhất để đặt tổ chức. Đảng cộng sản Trung hoa được chính thức thành lập ngày 21-7-1921. Ngày hôm đó có mười hai đại biểu, đại diện cho bảy chi bộ, và hai đại diện cho tổ chức cộng sản quốc tế tham dự Đại hội lần thứ nhất của đảng.
Mười hai đảng viên Trung hoa và hai đại diện quốc tế gặp nhau trong một trường nữ trung học bên trong khu tô giới Pháp. Lúc đó là mùa hè và trường nữ trung học đóng cửa. Tuy nhiên một số đông đàn ông ra vào một trường nữ trung học đã khiến cảnh sát phải nghi ngờ, và chặn một vài người lại để xét hỏi. Chính vì thế, tất cả đại biểu đồng ý di chuyển địa điểm hội họp. Tất cả tập họp lại trên bờ một cái hồ thuộc tỉnh Chiết Giang gần Thượng Hải, làm như là một nhóm người đi cắm trại. Các buổi họp lênh đênh, vừa câu cá, vừa ăn nhậu, vừa thảo luận đã đưa đến nền móng thành lập đảng cộng sản Trung hoa, và sau này, ngày 21-7 mỗi năm được coi là ngày kỷ niệm thành lập đảng.
Trong các buổi họp kéo dài liên tục này, các cố vấn Nga Sô trở nên bực bội trước những lý luận mơ hồ và lưỡng lự của các lãnh tụ Trung Hoa. Đây là giai đoạn chập chững của cộng đảng Trung Hoa, và Mạc tư khoa coi các lãnh tụ Trung Hoa chỉ là những tay mơ, những người đang tập sự trò chơi chính trị. Tuy nhiên các buổi họp của cộng đảng Trung Hoa cũng là một báo động, đe dọa quyền lợi của giới thương gia và dân anh chị băng đảng tại Thượng Hải. Lịch sử Thượng Hải sau đó là một cuộc chiến ác liệt, một bên là đám anh chị làm ăn trong bóng tối dựa vào giới thương gia, và một bên là phe cộng sản.
Trương Quốc Đào, đại diện phân bộ Bắc Kinh và là học trò của Trần Độc Tú tại đại học Bắc Kinh, là người chủ tọa các buổi họp đầu tiên này. Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu không có mặt trong ngày thành lập đảng. Mãi gần nửa năm sau, Trần Độc Tú rút lui khỏi chức bộ trưởng giáo dục cho Tôn Dật Tiên tại Quảng Đông, và trở về Thượng Hải đảm nhận chức Bí thư đảng, một chức vụ quan trọng nhất. Mao Trạch Đông lúc đó chỉ là một trong hai đại diện của tỉnh Hồ Nam, và chưa phải là một nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản.
Thua kém hầu hết các đại biểu khác cả về học thức lẫn kinh nghiệm, Mao Trạch Đông không được cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa thứ nhất, gồm ba ủy viên chính thức và ba ủy viên dự khuyết. Năm 1922, đảng cộng sản Trung Hoa họp lại một lần nữa, và Mao Trạch Đông cũng không có mặt trong kỳ họp này. Trong thời kỳ đầu của đảng cộng sản Trung Hoa, Mao Trạch Đông không được giữ một chức vụ nào cao hơn chức bí thư đảng bộ Hồ Nam. Tuy nhiên phạm vi hoạt động của Mao Trạch Đông không chỉ giới hạn trong tỉnh Hồ Nam. Mao Trạch Đông và hai người em ruột là Mao Trạch Đàm và Mao Trạch Dân đã hoạt động đắc lực tại Giang Tây. Tháng 4-1923, Mao Trạch Đông bị viên tỉnh trưởng Hồ Nam ra lệnh truy nã, Mao liền bỏ trốn tới Thượng Hải. Mao đến Thượng Hải đúng lúc đảng cộng sản sắp sửa liên kết với tổ chức Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 6 Thế Giới Anh Chị Tại Thượng Hải
Các nhà lãnh đạo cộng sản đầu tiên của Trung hoa bắt chước kiểu mẫu cách mạng của cộng sản Nga sô, lấy công nhân thành thị làm thành phần căn bản. Họ chọn Thượng Hải, một thành phố kỹ nghệ nhiều công nhân nhất của Trung hoa, làm địa điểm đầu tiên thành lập đảng cộng sản. Hoạt động của cộng đảng Trung hoa tuy rất kín đáo, nhưng cũng lọt vào tai mắt của giới anh chị chuyên kiếm sống trên đầu dao mũi súng, bằng cách đòi tiền bảo vệ của giới thương gia giầu có, hoặc bằng cách buôn thuốc phiện lậu độc quyền. Chủ nghĩa cộng sản rất bất lợi cho giới thương gia, và quyền lợi của giới thương gia gắn liền với quyền lợi của các tay anh chị sống ngoài vòng pháp luật. Chính vì thế giới giang hồ chuyên đâm thuê chém mướn tại Thượng Hải rất thù ghét cộng sản, và chính họ đã đánh bại cộng sản ngay tại Thượng Hải, một thành trì của giới thợ thuyền.
Người đứng đầu các tổ chức tội ác tại Thượng Hải là Bố già Hoàng Ứng Vĩnh, có biệt danh là Hoàng Mặt Rỗ. Hoàng Mặt Rỗ thuộc tổ chức Hồng Hội, và hoạt động trong khu tô giới Pháp. Vào thời kỳ đảng cộng sản Trung hoa thành lập tại Thượng Hải thì Bố già Hoàng Mặt Rỗ cũng đã già rồi, và một nhân vật khác, một thứ Bố già hàng nhì bắt đầu nổi bật, đó là Đỗ Nguyệt Thăng, có biệt hiệu là Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ nắm trong tay một tổ chức chống cộng mãnh liệt nhất Lục Hội. Lục Hội dùng màu xanh lá cây làm biểu tượng, và vì thế được gọi là Lục Hội.
Đỗ Đại Nhĩ là một nhân vật rất đặc biệt, một người của tội ác, sinh ra để tác yêu tác quái. Đỗ Đại Nhĩ sinh năm 1888 tại Thượng Hải trong một gia đình bần cùng nhất của thành phố, và có một tuổi thơ ấu vô cùng khốn nạn. Thân phụ Đỗ Đại Nhĩ là một cu li trong một tiệm gạo. Khi hắn được vài tuổi thì cha mẹ chết, và hắn thuộc về người cậu ruột. Người cậu của Đỗ Đại Nhĩ rất thính đánh đập hắn, và coi đó là một thú tiêu khiển. Vì bị đánh đấm khá nhiều ngay từ lúc còn nhỏ, nên Đỗ Đại Nhĩ có một khuôn mặt méo mó, và thân hình gầy gò.
Khi Đỗ Đại Nhĩ được 15, 16 tuổi thì đã tỏ ra một thiếu niên rất quen thuộc với việc giết người, và không từ một tội ác nào mà không làm. Điểm đặc biệt nhất của Đỗ Đại Nhĩ là hai cái tai rất to, như hai cây nấm vươn lên từ một cái đầu lúc nào cũng cạo trọc. Chính cái nét đặc biệt có hai tai to mà Đỗ Nguyệt Thăng có biệt danh là Đỗ Đại Nhĩ. Hai cánh tay của Đỗ Đại Nhĩ rất dài, như tay của loài vượn, một hàm răng rất dài, lúc nào cũng vàng khè và cặp mắt nhỏ nhưng sắc như mắt chuột. Đỗ Đại Nhĩ gia nhập Lục Hội từ lúc chưa đầy 15 tuổi, và tỏ ra một tay anh chị đáng sợ.
Đỗ Đại Nhĩ tìm cách ra mắt với Bố già Hoàng Mặt Rỗ, chúa trùm giới giang hồ lúc đó. Hắn lân la chầu chực trong bếp của nhà Hoàng Mặt Rỗ, và dần dà làm quen được với người tình nhân cưng nhất của Hoàng Mặt Rỗ. Hoàng Mặt Rỗ nhận thức được khả năng đặc biệt của Đỗ Đại Nhĩ và thu nhận hắn làm đàn em. Đỗ ĐạI Nhĩ thi hành mệnh lệnh của Bố già rất ngon lành sắc gọn. Đỗ Đại Nhĩ có tài làm quen với mọi người một cách dễ dàng vì bản chất của hắn rất rộng rãi về tiền bạc, và lúc nào cũng sẵn sàng "giúp đỡ người anh em một tay" khi cần. Đỗ ĐạI Nhĩ rất thích bầy tỏ quyền lực bằng cách bênh vực các người bán hàng rong bị chủ nợ là các tiệm cầm đồ làm khó dễ. Đỗ Đại Nhĩ đã từng gây kinh hoàng cho giới cầm đồ tại Thượng Hải.
Nhưng khả năng xuất sắc nhất của Đỗ Đại Nhĩ là giải quyết việc buôn bán thuốc phiện. Hắn muốn các nhóm buôn thuốc phiện đối lập nhau nên tập hợp thành một tổ chức chung, và do đó có thể bảo nhau tăng giá thuốc phiện và thu lợi được nhiều hơn. Hoàng Mặt Rỗ giao cho Đỗ Đại Nhĩ thi hành kế hoạch này -- có nghĩa là hắn sẽ thương thuyết với một vài thủ lãnh bang hội này, và ám sát một số lãnh tụ bang hội khác. Thủ lãnh của Lục Hội không đồng ý liền bị hắn giết chết và hắn trở thành Bố già của Lục Hội. Người thủ lãnh của Thanh Hội là Trương Hiếu Liêm khôn ngoan cộng tác với Đỗ Đại Nhĩ, và từ đó ba người, Hoàng Mặt Rỗ, Đỗ Đại Nhĩ và Trương Hiếu Liêm ngự trị thế giới anh chị của Thượng Hải và Chiết Giang, và toàn cõi lưu vực sông Dương Tử.
Trong các tô giới ngoại quốc, việc buôn bán thuốc phiện vẫn thuộc Tam Hòa Hội của người Triều Châu do Vương Sung lãnh đạo. Đỗ Đại Nhĩ thành công "nói phải quấy" với họ Vương, bắt họ Vương phải gia nhập tổ chức buôn thuốc phiện chung của hắn. Cuối cùng Đỗ Đại Nhĩ thâu tóm luôn Tam Hòa Hội. Tài sản của Đỗ Đại Nhĩ lúc đó lên tới 40 triệu mỹ kim. Đỗ Đại Nhĩ là người rất hào phóng về tiền bạc, sẵn sàng chia xẻ cho bạn bè. Nếu ai có lý do chính đáng cần tiền, hắn không ngần ngại ra tay giúp đỡ ngaỵ Nhiều lần hắn đã ra tay giúp đỡ các cô nhi và quả phụ nghèo khó, nhưng lúc nào hắn cũng có khả năng làm cho người khác phải khiếp sợ. Một khi hắn ra lệnh thì ai cũng phải thi hành cho đến nơi đến chốn.
Đỗ Đại Nhĩ không muốn thay thế Bố già Hoàng Mặt Rỗ, mặc dù hắn đủ sức hạ Bố già họ Hoàng dễ dàng. Hoàng Mặt Rỗ vẫn là thủ lãnh của nhóm ba người, nhưng Đỗ Đại Nhĩ là người trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động của tổ chức. Mỗi khi Đỗ Đại Nhĩ ra lệnh thì cả thành phố phải nhảy theo lệnh của hắn. Dưới quyền của hắn là một số đông đảo thợ thuyền, từ những phu khuân vác bến tàu đến những cu li ngoài đường, nhân viên phát thư của bưu điện và nhân viên các ngân hàng. Các nhân viên phát thư cho phép người của Đỗ Đại Nhĩ đọc thư từ của người khác để nắm được mọi bí mật của giới chính trị và thương gia. Khi cần, Đỗ Đại Nhĩ có thể dùng những bí mật này để gây áp lực cho giới chủ nhân, bắt họ phải thần phục và nộp tiền bảo vệ. Người của Đỗ Đại Nhĩ cũng ra lệnh cho thợ thuyền của các hãng xưởng phải gia nhập một nghiệp đoàn riêng do người của Đỗ Đại Nhĩ lãnh đạo. Bề ngoài thì các nghiệp đoàn này có vẻ độc lập, nhưng khi cần Đỗ ĐạI Nhĩ giật dây là tất cả phải hành động theo đúng mệnh lệnh của hắn, như khi nào thì phải đình công chẳng hạn. Đỗ Đại Nhĩ cũng cần sự hợp tác làm ăn chung với giới tài phiệt. Người hợp tác đắc lực nhất với Đỗ Đại Nhĩ là Tống Ái Linh, mà nhiều người thường gọi là Bà Khổng.
Đỗ Đại Nhĩ thường đến tư gia của Tống Ái Linh vào sáng chủ nhật, sau khi Ái Linh đi lễ nhà thờ về, để bàn luận công việc làm ăn. Trong khoảng từ 1916 đến 1940, Đỗ Đại Nhĩ và Tống Ái Linh đã thành công đầu tư và đoạt được khá nhiều cơ sở thương mại kỹ nghệ tại Thượng Hải. Hai bên hợp tác với nhau đều có lợi. Ái Linh có tiền và thế lực trong khi Đỗ Đại Nhĩ có khả năng thi hành được mọi kế hoạch, dù khó khăn mờ ám thế nào cũng thành công. Đôi khi Đỗ Đại Nhĩ cũng gặp phải những người cứng đầu không sợ sự hăm doạ. Khi thấy sự hăm dọa ngầm của mình không được đối phương hiểu rõ, Đỗ Đại Nhĩ chỉ cần làm một cảnh cáo rất nhẹ nhàng: sai đàn em khiêng đến tận nhà đối thủ một cỗ quan tài chạm trổ rất đẹp đẽ. Lập tức mọi điều kiện của Đỗ Đại Nhĩ được chấp thuận ngay.
Một thú tiêu khiển của Đỗ Đại Nhĩ là hay lai vãng các xóm yên hoa. Chính tại các khu vực thanh lâu này mà Đỗ Đại Nhĩ gặp gỡ và kết thân với một thanh niên sống rất buông thả, tính tình hay cáu kỉnh. Người thanh niên đó là Tưởng Giới Thạch.


Tưởng Giới Thạch
Tưởng Giới Thạch lớn hơn Đỗ Đại Nhĩ một tuổi. Họ Tưởng sinh ngày 31-10-1887 tại Khê Khẩu, một thị trấn nhỏ về phía tây Thượng Hải, nằm dưới chân núi Vũ Lĩnh thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm đó thân mẫu Tưởng 23 tuổi, và là vợ thứ ba của một thương gia buôn muối, và già gấp đôi tuổi bà. Năm 1895, khi Tưởng lên tám tuổi thì thân phụ qua đời. Tưởng rất quyến luyến và thương mẹ, một người đàn bà buồn nhiều hơn vui. Có lần Tưởng nhận xét bà mẹ là người "phải nuốt rất nhiều tủi nhục chua chát".
Hồi nhỏ Tưởng rất hay đau yếu và khó nuôi, do đó tính tình của Tưởng rất khó chịu. Chú bé họ Tưởng trở thành mục tiêu chế riễu trong làng, vì cái đầu của Tưởng méo mó giống như một hạt đậu phọng. Một thầy tướng số trông thấy Tưởng cũng rất kinh ngạc khi thấy cái đầu bất thường của Tưởng. Ông thầy tướng nói cái đầu rất lạ lùng của Tưởng là một quý tướng, làm nên nhưng tàn ác. Tưởng lớn lên mang trong người những chứng bệnh rất lạ lùng, khi thì khóc sướt mướt, khi thì giận dữ điên cuồng.
Trong nhà không có đàn ông nên gia đình nhà họ Tưởng thường bị nhà chức trách của triều đình nhà Thanh bắt nạt. Một hôm có người trong làng họ Vương, hàng xóm của nhà họ Tưởng, bỏ làng trốn vì không đủ tiền đóng thuế nông nghiệp. Nhà chức trách đến nhà họ Tưởng, lôi cổ Tưởng Giới Thạch lên cửa quan, và bắt Tưởng Giới Thạch phải bỏ tiền đóng thuế cho người họ Vương bỏ trốn. Mặc dầu nhà họ Tưởng đã đóng đủ thuế rồi, nhưng nhà chức trách cho biết cả làng phải chịu trách nhiệm về món tiền thuế thất thu của họ Vương. Mẹ của Tưởng đành phải lo tiền nộp thuế để Tưởng khỏi bị phạt tù. Nhưng Tưởng rất căm giận sự bất công phi lý của triều đình. Về sau Tưởng gọi đó là động lực đầu tiên thúc đẩy Tưởng đi vào con đường cách mạng.
Sau khi học hết trường tiểu học Khê Khẩu, Tưởng được mẹ gửi đến học trường trung học Long Giang tại Phụng Hóa. Khi Tưởng được 14 tuổi thì gia đình bắt Tưởng về nhà lấy vợ. Người vợ đầu tiên của Tưởng là Mao Phúc Mai, người cùng làng và lớn hơn Tưởng 4 tuổi. Tuy nhiên cuộc hôn nhân này không giữ Tưởng ở lại quê nhà. Tưởng không mấy quan tâm đến người vợ, và bằng lòng lấy vợ là để làm vừa lòng mẹ. Sau đó Tưởng trở lại trường học tại Phụng Hóa, trau giồi kiến thức để tìm cách tiến thân. Tưởng không có ý định ở lại Khê Khẩu suốt đời làm một thương gia bán muối.
Chính tại trường trung học Long Giang, Tưởng tìm đọc cuốn Binh Thư của Tôn Tử. Tôn Tử là một chiến lược gia danh tiếng sống thời Chiến Quốc. Đối với Tôn Tử, nghệ thuật cao nhất của chiến tranh là thắng được kể địch mà không cần phải giao chiến. Chiến tranh phải dựa trên mưu thuật. Xử dụng gián điệp là thượng sách. Xử dụng quân đội phải được coi như là biện pháp cuối cùng. Chiến tranh mà phải dùng đến quân đội để giao tranh là một sự phí phạm về kinh tế và nhân sự. Tuy nhiên Tôn Tử cũng cảnh cáo việc xử dụng gián điệp không phải là việc dễ dàng. Chỉ có những tướng tài, khôn ngoan, công bằng và nhân đạo mới dùng được gián điệp.
Tưởng rất say mê tư tưởng của Tôn Tử, và tư tưởng của Tôn Tử ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai của Tưởng. Ngoài Tôn Tử, Tưởng còn tôn thờ danh tướng Nhạc Phi của nhà Tống, và Vương Dương Minh, một nho gia làm tới chức tể tướng đời nhà Minh. Sau này khi phải chạy ra Đài Loan, Tưởng đã đổi tên ngọn núi Thảo Sơn thành núi Dương Minh Sơn để tỏ lòng ngưỡng mộ Vương Dương Minh. Vị sư phụ của Tưởng cố gắng huấn luyện cho Tưởng tinh thần vị tha, tự kỷ và lúc nào cũng phải cố gắng về tinh thần. Từ trước, cuộc đời của Tưởng chỉ là một cố gắng để thoát ra khỏi cảnh nghèo và sự chế nhạo của người đời về cái đầu kỳ khôi của mình. Tại học viện này, Tưởng đặt cho mình một mục tiêu xa hơn nữa. Tưởng tập được một thói quen tốt, buổi sáng dậy thật sớm, đứng trước hàng hiên để trầm tư mặc tưởng mỗi sáng nửa giờ. Trong nửa giờ đó, Tưởng đứng thật nghiêm, thật thẳng, miệng mím chặt và khoanh hai tay trước ngực.
Nhờ đọc sách của Tôn Tử và Nhạc Phi, Tưởng nhất quyết trở thành một chiến sĩ, lập sự nghiệp trên lưng ngựa. Đến năm 1906, Tưởng ngưỡng mộ quân đội Nhật Bản đã chiến thắng hải quân Nga sô tại eo biển Đối Mã, nên bỏ sang Nhật để nghiên cứu học thuật quân sự của Nhật. Tưởng viết thư xin mẹ tiền làm lộ phí cho cuộc xuất ngoại. Khi bà mẹ phản đối không chịu cho Tưởng xuất ngoại, Tưởng lập tức cắt cái mớ tóc đuôi sam trên đầu và gửi về cho mẹ. Cả làng bất mãn hành động của Tưởng, nhưng bà mẹ đành phải đổ hết tiền dành dụm được cho cậu quý tử ra đi. Hành động cắt đuôi sam của Tưởng vừa bày tỏ lòng cương quyết ra đi tìm học, vừa bày bỏ sự chống đối nhà Mãn Thanh, vì nhà Mãn Thanh bắt buộc đàn ông Trung hoa phải để tóc, kết thành đuôi sam. Cái đuôi sam là dấu hiệu phục tùng nhà Mãn Thanh.
Khi sang tới Nhật, Tưởng vỡ mộng vì lúc đó Nhật chỉ chấp nhận những sinh viên nào do triều đình nhà Mãn Thanh gửi sang. Tưởng không có sự bảo trợ của triều đình, vừa không có tóc đuôi sam nên không được nhận vào học viện quân sự của Nhật. Tưởng ở lại Nhật thêm sáu tháng nữa, sống lẫn lộn với giới cách mạng chống nhà Mãn Thanh, và rất ưa thích cuộc đời phóng túng, và bắt đầu tập tành làm chính trị. Lúc đó Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên đã thành lập. Tôn Dật Tiên có một người phụ tá rất tài giỏi, và ăn nói rất lôi cuốn quần chúng là Trần Kỳ Mỹ. Tưởng được Trần Kỳ Mỹ nhận làm đàn em. Trần Kỳ Mỹ đã từng hoạt động tại Thượng Hải với Bố già Hoàng Mặt Rỗ. Chính Hoàng Mặt Rỗ đã khuyên Trần Kỳ Mỹ sang Nhật để học hỏi thêm về quân sự. Tại Nhật, Trần Kỳ Mỹ được vào học tại Học viên Cảnh sát của Nhật.
Đến mùa đông 1906-1907, Tưởng trở về quê nhà để dự hôn lễ của người em gái. Trước khi Tưởng trở về, Trần Kỳ Mỹ đã lập kế hoạch để cho Tưởng được thi đậu vào trường quân sự Bảo Định tại Hồ Bắc. Năm 1907, Tưởng được nhận vào trường quân sự Bảo Định, và đến năm sau thì chính thức được gửi qua học các lớp quân sự cao cấp tại Nhật Bản. Tưởng đã vượt qua được mọi khó khăn để được thâu nhận vào trường quân sự danh tiếng Shimbu Gakko, và tốt nghiệp ba năm sau đó.
Trước khi Tưởng rời Khê Khẩu xuất dương sang Nhật thì người vợ quê mùa của Tưởng sinh được đứa con trai đầu tiên. Tưởng đặt tên con là Tưởng Kinh Quốc. Cuộc đời của người vợ đầu tiên của Tưởng thật là khổ nhục, phải sống với một người chồng khó tính khắt khe và một bà mẹ chồng rất lạnh lùng. Tưởng thường hay đánh đập vợ, vì thế người vợ hằng cầu mong Tưởng đi xa càng lâu càng tốt. Tưởng giao du thân mật với nhóm anh chị của Hoàng Mặt Rỗ và Đỗ Đại Nhĩ, và bí mật gia nhập Lục Hội.
Năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường quân sự Shimbu Gakko, Tưởng trở về Thượng Hải, và nhúng tay vào một vụ giết người đầu tiên. Hồ sơ của Tưởng tại sở cảnh sát trong tô giới Anh gồm nhiều vụ ám sát giết người, những vụ cướp vũ trang và tống tiền, cũng như nhiều thứ tội ác khác nữa. Tưởng bị buộc tội trong tất cả mọi trường hợp, nhưng Tưởng không bao giờ bị bắt đem xử trước toà hoặc bị bắt giam. Mùa hè năm 1911, Tưởng tổ chức một cuộc ám sát nữa tại Thượng Hải, và sắp sửa trở lại Nhật để được xung vào Trung đoàn Pháo binh 19 thì cuộc nổi dậy Song Thập ngày 10 tháng 10 tại Vũ Hán thành công. Tưởng lập tức quay trở về Thượng Hải và được Trần Kỳ Mỹ giao cho chức vụ chỉ huy trưởng "Lữ đoàn 83", gồm một nhóm ba ngàn tay anh chị của Lục Hội do Hoàng Mặt Rỗ viện trợ cho phe cách mạng. Lúc đó Thượng Hải vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Mãn Thanh, nhưng Trần Kỳ Mỹ nhất quyết dùng võ lực chiếm thành phố này.
Đầu tháng 11-1911, Trần Kỳ Mỹ dẫn lữ đoàn tấn công các vị trí của quân Mãn Thanh, và kiểm soát được thành phố. Trần Kỳ Mỹ trở thành vị thống đốc đầu tiên cai trị thành phố Thượng Hải được giải phòng. Trần Kỳ Mỹ cử Tưởng làm tham mưu trưởng cho quân cách mạng tại Thượng Hải. Ngay sau đó Trần Kỳ Mỹ phái Tưởng chỉ huy một nhóm 100 cảm tử quân tiến về Hàng Châu để giúp các nhà cách mạng địa phương giải phóng Hàng Châu, thủ phủ của tỉnh Chiết Giang. Tưởng hoàn thành nhiệm vụ, và trở thành một anh hùng cách mạng. Tưởng được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Trung đoàn 5 tại Hàng Châu.
Lúc đó Trần Kỳ Mỹ gặp sự chống đối của một lãnh tụ cách mạng tại Thượng Hải là Đào Chính Cương. Họ Đào muốn loại Trần Kỳ Mỹ để nắm quyền chỉ huy quân sự tại Thượng Hải. Để trả ơn Trần Kỳ Mỹ, Tưởng từ Hàng Châu trở về Thượng Hải, đến thẳng bệnh viện nơi Đào Chính Cương đang chữa bệnh. Tưởng cãi nhau kịch liệt với Đào Chính Cương, và cuối cùng rút súng bắn chết họ Đào ngay trên giường bệnh. Khi giết Đào Chính Cương xong, Tưởng vội trốn sang Nhật để tránh bị bắt. Tưởng lẩn tránh tại Nhật cho mãi tới cuối năm 1912, và xuất bản một tập san quân sự. Tưởng say mê viết những bài tham luận về quân sự và chính trị trên tờ tập san này.
Đến mùa đông năm 1912, khi Tưởng trở lại Thượng Hải thì Tưởng lại quay về những thói quen xấu trước kia. Nhiều khi Tưởng bỏ nhiệm sở cả tháng trời để sống với những ca kỹ. Tưởng rất hợp tính với Đỗ Đại Nhĩ. Hai người đều lấy thanh lâu ca kỹ làm nguồn vui, và thích thú những hành động tội ác. Mỗi khi Bố già Đỗ Đại Nhĩ đến chơi một chốn yên hoa nào, thì một toán vệ sĩ tiền phương phải tới trước và lục soát từ nhà bếp tới các phòng ngủ xem có những nguy hiểm nào không. Toán vệ sĩ tiền phương sau đó lập thành đội phòng vệ, tỏa ra bao vây nhà hàng để chờ Bố già Đỗ Đại Nhĩ đến. Đỗ Đại Nhĩ bao giờ cũng dùng một xe hơi bốn cửa được bọc thép chống đạn. Trước và sau đều có xe chở đầy vệ sĩ đi theo hộ vệ. Đỗ Đại Nhĩ chỉ xuống xe bước vào nhà hàng khi có đông đủ vệ sĩ vây quanh. Rồi hai bên hai vệ sĩ, Đỗ Đại Nhĩ tiến vào nhà hàng, trong đó mỗi cánh cửa, mỗi góc phòng đều có một vệ sĩ của Đỗ Đại Nhĩ đứng canh gác. Khi Đỗ ĐạI Nhĩ ngồi vào bàn đầu thì một toán vệ sĩ bao vây bàn sau, và các bàn bên trái bên phải, súng lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn khi cần.
Đây là thời cực thịnh của nghề mãi dâm tại Thượng Hải. Vào thời đó, cứ 12 căn nhà tại Thượng Hải thì có một nhà điếm. Riêng tại khu tô giới ngoại quốc có tới 668 nhà điếm. Cứ 130 người dân trong thành phố Thượng Hải thì có một người là gái điếm, trong số này thì một nửa là gái mãi dâm của Lục Hội. Riêng nhà Thanh Lâu, nơi Đỗ Đại Nhĩ và Tưởng thường hay lui tới giải trí, có tới 121 kỹ nữ. Sự kiểm soát ngành mãi dâm của Lục Hội thật là hoàn toàn chặt chẽ. Đây chính là nguồn lợi tức lớn của Lục Hội, ngoài nha phiến. Dù đẹp hay xấu, dù tài nghệ điêu luyện thập thành hay không thì tất cả những gái mãi dâm tại Thượng Hải đều bị bắt buộc phải tận lực dùng đủ mọi mánh khóe để mê hoặc, quyến rũ khách làng chơi, vì sự cạnh tranh nghề nghiệp tại đây thực là vô cùng gay go, khi mà số lượng gái điếm và nhà thanh lâu nhiều đến như thế.
Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 7 Bàn Chân Nhỏ Của Người Đàn Bà Trung Hoa
Gái điếm tại Thượng Hải phải là những người có bàn chân đã được bó nhỏ, và chỉ những gái điếm có bàn chân nhỏ mới có khách. Bàn chân nhỏ lý tưởng nhất phải dài dưới tám phân. Những bàn chân nhỏ này được coi là sự kích thích dục tình đặc biệt, và là trung tâm điểm của những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm. Sự đam mê bàn chân nhỏ không phải chỉ có ở Trung hoa mà thôi. Chẳng hạn người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ hoặc người đàn bà Mông Cổ tại Tây Bá Lợi Á có thể cởi trần để hở ngực đi ra đường vào những ngày nóng nực, không hề e lệ khi người lạ trông thấy vú của mình. Nhưng họ tuyệt đối giữ kín hai bàn chân, không cho ai được nhìn thấy bàn chân của họ. Bàn chân của họ là một bộ phận thiêng liêng kín đáo riêng tư mà chỉ người chồng mới có diễm phúc được nhìn thấy, được cầm lấy mà mân mê ve vuốt. Nhưng ở Trung hoa thì lòng say mê bàn chân người đàn bà đã lên đến tuyệt đỉnh, và việc bó chân đã trở thành định chế xã hội. Một nhà học giả người Pháp đã nhận định về sự say mê đôi bàn chân nhỏ của người Trung hoa như sau:

"Tôi đã bị lôi cuốn đặc biệt bởi một số rất nhiều những bức họa những hình điêu khắc khích dâm mà người Trung hoa rất ưa thích. Trong tất cả những tác phẩm khiêu dâm đó, cảnh tượng đáng chú ý nhất là hình ảnh một người nam đờ đẫn mê man mơn trớn bàn chân nhỏ của người nữ. Khi người đàn ông Trung hoa được mân mê bàn chân của người nữ, nhất là bàn chân đã được bó nhỏ lại, thì tác dụng cũng tương tự như một người đàn ông tây phương được rờ rẫm bộ ngực căng tròn của một thiếu nữ. Tất cả những người Trung hoa mà tôi phỏng vấn đều trả lời trăm người như một: "Ôi bàn chân nhỏ! Các ông là người tây phương không thể nào hiểu được cái tuyệt diệu, cái ngọt ngào và khích động của những bàn chân nhỏ ấy đâu!" Sự cọ sát bộ phận sinh dục của người nam vào bàn chân nhỏ của người nữ gây cho người đàn ông Trung hoa một xúc cảm tình dục vô ngần. Một người đàn bà Trung hoa có kinh nghiệm về tình dục biết rằng cách làm cho người đàn ông đê mê sung sướng nhất là lấy hai bàn chân nhỏ cặp chặt lấy dương vật của người đàn ông. Nhiều người Trung hoa theo đạo công giáo đã hơn một lần xưng tội họ đã có những ý nghĩ tà dâm mỗi khi trông thấy bàn chân nhỏ của người đàn bà."
Tục lệ bó chân tại Trung hoa bắt đầu từ đời nhà Đường (618-908). Các vũ nữ trong cung cấm phải buộc chặt bàn chân để có thể nhảy những vũ điệu rất nhẹ nhàng, giống như một cành sen lả lơi trên mặt hồ, đặc biệt là vũ điệu nổi tiếng "Kim Liên Vũ Khúc". Cho đến đời nhà Tống (960-1279) thì tục lệ bó chân đàn bà đã lan từ cung điện tới dân gian. Không những chỉ có giới thượng lưu, mà nhiều gia đình nông dân cũng theo tục lệ này. Thực ra một người bị bó chân thì không thể nào nhảy những vũ điệu được, mà chỉ có thể đi rón rén mà thôi. Một mục đích nữa của tục lệ bó chân là người đàn ông muốn kìm hãm người đàn bà, bắt người đàn bà hoàn toàn lệ thuộc vào người đàn ông trong cuộc sống. Người đàn bà bị bó chân không thể chạy trốn khỏi những ông chồng vũ phu ưa đánh đập vợ. Những người Trung hoa theo đạo Khổng không bao dung đàn bà, không muốn đàn bà ngang hàng với mình. Trên mười thế kỷ, người đàn bà Trung hoa đã phải chịu cực hình, từ một người bình thường trở thành một người tàn tật cho mục đích vị kỷ của người đàn ông.
Việc bó chân thường bắt đầu khi đứa trẻ được 5 tuổi. Người mẹ dùng một mảnh khăn bằng vải dầy, dài độ ba thước, và rộng độ năm phân, quấn chặt quanh những ngón chân, trừ ngón cái, rồi bẻ quặt những ngón chân đó xuống lòng bàn chân. Mỗi ngày mảnh khăn vải được thắt chặt thêm, cho đến khi nào bàn chân gập hẳn lại và chỉ còn một ngón cái vươn lên như một bông sen bị vặt hết cánh hoa, chỉ còn lại cái cuống. Thịt của những ngón chân nhỏ hư thối và rụng đi, và bàn chân hoàn toàn thay đổi hình thể, từ lành lặn trở thành tàn tật kỳ dị. Công việc bó chân phải mất hai năm mới hoàn tất. Những bàn chân nhỏ như thế thường dùng những giầy bằng lụa và dấu không cho người khác được nhìn thấy. Chính vì thế mà một số thanh niên vô lại, khi không lấy được con gái nhà xứng đáng thì cố công ăn cắp những chiếc giầy nhỏ bé của họ, rồi thủ dâm vào giầy; sau đó đem trả lại để thỏa mãn sự ham muốn và lòng trả thù, làm nhục những cô gái này.
Khi bị bó chân, các cô gái Trung hoa lớn lên và phải đi những bước ngắn. Các bước đi như thế làm cho chân của người con gái không phát triển nhiều và trở nên dài và thẳng, trong khi đó mông và hạ bộ phát triển lớn hơn. Người Trung hoa tin rằng đàn bà mông lớn dễ sinh đẻ. Ngay một nhà trí thức danh tiếng Trung hoa là Cố Hồng Minh cũng đã viết: "Bàn chân người đàn bà càng nhỏ bao nhiêu thì các thớ thịt của âm đạo sẽ tuyệt diệu bấy nhiêu." Người đàn ông Trung hoa không quan tâm mấy đến ngực người đàn bà, mà chỉ ao ước ngắm nhìn và hôn liếm bàn chân đã biến thể. Một trong những màn hấp dẫn nhất trong các thanh lâu tại Thượng Hải là biểu diễn bàn chân nhỏ.
Thường các gái điếm tại Thượng Hải rất trẻ, chỉ vào khoảng từ 12 đến 14 tuổi. Phần lớn bị bắt cóc, hoặc do chính cha mẹ vì quá nghèo đói mà phải đem bán. Các cô gái bắt buộc phải hành nghề buôn hương bán phấn này thường mặc quần lụa rất rộng và một áo chẽn cổ cao. Một trong những trò chơi thịnh hành nhất là trò chơi "Uống Rượu Trong Giầy". Một cô gái điếm tháo đôi giầy nhỏ tặng cho khách làng chơi. Chiếc giầy sẽ được chuyển vòng quanh bàn tiệc để khách làng chơi mân mê sờ mó. Một ly rượu được đặt vào trong chiếc giầy, và tất cả giầy và rượu được đặt trong một chiếc tô lớn. Rồi cô gái điếm đi chân không, lẫm chẫm đi quanh bàn tiệc, tay cầm tô rượu đưa cách xa khách làng chơi một sải taỵ Khách làng chơi lượm những hạt sen và liệng vào chiếc giầy. Sau khi mỗi khách làng chơi liệng năm lần như thế, thì cô gái điếm chủ chiếc giầy sẽ quyết định hình phạt: mỗi khách làng chơi phải uống từ một tới năm ly rượu, tùy theo số lần ném hụt vào chiếc giầy. Rượu được uống từ chiếc ly đặt bên trong chiếc giầy, để khách được dịp ngửi mùi hương hấp dẫn của bàn chân nhỏ đã được tẩm nước hoa.
Bất cứ lúc nào trong cuộc mua vui, khách làng chơi cũng có thể dẫn một cô gái điếm lên phòng riêng. Thường người đàn ông bao giờ cũng dành rất nhiều thời giờ đầu tiên cho cái thú sờ mó, hôn hít và liếm bàn chân nhỏ của cô gái điếm. Đôi khi có người còn nhúng bàn chân nhỏ của các cô gái vào một tách trà trước khi uống. Một thú nữa là cắn hạt dưa kẹp giữa hai ngón chân cái của bàn chân nhỏ. Khi sự ham muốn lên đến mức cực điểm thì khách bắt đầu tiến tới thú "mây mưa", và kéo hai bàn chân cô gái gác lên vai, đưa cả ngón chân cái vào miệng và mút chùn chụt. Chính tại những thanh lâu hấp dẫn này, nhà cách mạng Tưởng Giới Thạch và Bố già Đỗ Đại Nhĩ đã sống một phần lớn cuộc đời của họ.
Tưởng Giới Thạch có lần đã viết cho một người bạn để bào chữa sự sa ngã của mình: "Mọi người bảo rằng tôi yếu đuối trước những ham muốn nhục dục, nhưng họ không biết được rằng thú thanh lâu là phương tiện cuối cùng, khi người ta ở trong tình trạng chán nản cực độ."
Tại một trong những thanh lâu nổi tiếng nhất của Thượng Hải, Tưởng say mê Diêu Di Thành, một ca kỹ rất đẹp, đến nỗi cuối cùng Tưởng lấy nàng làm vợ bé và đưa về sống với thân mẫu tại Khê Khẩu. Gia đình Tưởng lúc đó là một gia đình lớn và hạnh phúc, gồm có một bà mẹ độc tài, một người vợ cả đau khổ, một đứa con trai rất cứng đầu cứng cổ là Tưởng Kinh Quốc, và người hầu thiếp rất điệu nghệ trong việc chăn gối. Năm đó Tưởng mới có 25 tuổi.
Người hầu thiếp Diêu Di Thành tỏ ra rất chăm sóc con riêng của Tưởng. Ñt lâu sau Tưởng đem về một đứa con trai nữa và gọi tên là Vĩ Quốc. Thoạt đầu Tưởng cho biết Vĩ Quốc là con một người bạn sinh tại Nhật Bản, nay người bạn không thể nuôi được nên đem gửi Tưởng. Về sau Tưởng lại nói Vĩ Quốc sinh tại Thượng Hải. Nhưng thực ra đó là đứa con riêng của Tưởng sinh tại Nhật bản trong thời gian Tưởng du học về quân sự. Tưởng và thân mẫu của Vĩ Quốc không kết hôn với nhau. Tuy vậy Diêu Di Thành rất yêu thương Vĩ Quốc, săn sóc đứa bé như là con riêng của mình, và ai cũng coi Tưởng Vĩ Quốc là con trai thứ hai của Tưởng.
Năm 1913, khi cuộc cách mạng thứ hai nhằm lật đổ Viên Thế Khải bắt đầu, Tưởng được lệnh xâm nhập vào quân đội của triều đình, xúi giục các sĩ quan đồng khóa cũ đứng dậy chống lại tư lệnh của họ. Nhưng Tưởng hành động không được khôn khéo nên bị lộ, và xuýt bị bắt. Tưởng trốn về gặp Bố già Đỗ Đại Nhĩ và được Bố già cho mượn một số đàn em của Lục Hội để tấn công quân đội của Viên Thế Khải. Toán quân vô tổ chức của Tưởng bị thiệt hại nặng nề, và phải rút lui vào tô giới Anh. Tại đây nhóm tàn quân của Tưởng bị quân Anh tước khí giới, nhưng Tưởng may mắn không bị quân Anh bắt giữ.
Mặc dù thất bại, Tưởng cũng tạo được một tiếng vang dẫn tới quyền bính sau này. Tưởng và Trần Kỳ Mỹ cùng với Hoàng Phục, tham mưu trưởng của Trần Kỳ Mỹ, cắt máu ăn thề kết nghĩa anh em, long trọng hứa sẽ chăm sóc con của nhau như người ruột thịt của chính mình. Tưởng cũng liên kết chặt chẽ với những người trong nhóm anh chị của Đỗ Đại Nhĩ, đặc biệt là nhà tài phiệt quốc tế Curio Trương.
Đến năm 1915, vì bị cảnh sát và các tay thích khách của Viên Thế Khải săn đuổi ráo riết nên Tưởng và Trần Kỳ Mỹ phải bỏ trốn sang Nhật Bản một lần nữa. Tuy nhiên hai người vẫn bí mật lén về Thượng Hải để tổ chức những cuộc nổi dậy, cướp phá và ám sát. Trần Kỳ Mỹ đã leo lên tới địa vị Chủ tịch Ủy ban Trung ương trong tổ chức Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên, và trở nên nhân vật số hai của phong trào cách mạng chống lại đế chế của Viên Thế Khải. Tất cả mọi âm mưu ám sát Trần Kỳ Mỹ của Viên Thế Khải đều thất bại, cho đến ngày 18-5-1916 thì các chuyên viên ám sát của Viên Thế Khải thành công lẻn được vào tư thất bí mật của Trần Kỳ Mỹ tại trụ sở cách mạng trong tô giới Pháp, và bắn chết Trần Kỳ Mỹ tại chỗ. Cái chết của Trần Kỳ Mỹ là một đòn cực mạnh đối với Tưởng Giới Thạch, vì Trần Kỳ Mỹ vốn là người đỡ đầu cần thiết cho Tưởng. Năm đó Tưởng mới có 30 tuổi và bỗng chốc mất đi người anh kết nghĩa, một người đồng chí thân cận nhất, và một nhà cách mạng kiểu mẫu cho Tưởng.
Trong bài diễn văn đọc trước linh cữu Trần Kỳ Mỹ, Tưởng đã kêu thống thiết: "Than ôi! Từ nay tôi biết tìm đâu được một người hiểu tôi và yêu thương tôi sâu xa như đại ca!" Và dường như ám chỉ những lời chỉ trích mình về những thói hư tật xấu hay nóng giận, rượu chè, và sa ngã chốn thanh lâu, Tưởng kể lể: "Tôi không bao giờ quan tâm đại ca có tin những lời bịa đặt người ta nói về tôi lúc đại ca còn sống hay không. Điều quan hệ nhất của tôi là bây giờ tôi có một lương tâm thanh thản khi đại ca đã chết." Sau đó Tưởng đem người cháu ruột của Trần Kỳ Mỹ là Trần Quả Phu làm người tâm phúc cho mình. Tưởng đã che chở cho hai anh em Trần Quả Phu và Trần Lập Phu trở thành những nhân vật quyền thế của mình. Hai anh em nhà họ Trần cũng tạo được những sản nghiệp chính trị và tài chánh chỉ thua gia đình nhà họ Tống thôi. Cả hai người đều trung thành với Tưởng cho tới lúc chết. Điều làm Tưởng đau tiếc nhất là chỉ vài tuần lễ sau khi Trần Kỳ Mỹ bị người của Viên Thế Khải ám sát chết, thì chính Viên Thế Khải cũng chết vì quá uất ức khi tham vọng làm hoàng đề không thành tựu, và bị truất hết quyền lực chính trị. Sau cái chết của Trần Kỳ Mỹ, Quốc dân đảng điều chỉnh lại nhân sự, và Tưởng Giới Thạch nổi bật, trở thành nhân vật thứ nhì trong Quốc dân đảng, chỉ đứng sau Tôn Dật Tiên.
Kể từ ngày kết hôn với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh bao giờ cũng xuất hiện trước công chúng cùng với Tôn Dật Tiên, và những người đi theo Tôn Dật Tiên cũng chấp nhận sự hiện diện của Khánh Linh. Tuy nhiên người Trung hoa chia làm hai phe trước cuộc hôn nhân của Tôn Dật Tiên và Khánh Linh. Những người thuộc lớp già coi cuộc hôn nhân là một điều ô nhục cho đại cuộc, trong khi giới trẻ thì hoàn toàn tán đồng cuộc hôn nhân. Tin tức về Khánh Linh lan tới tận Tứ Xuyên, và giới sinh viên tại đó nghe nói về một sinh viên xinh đẹp du học Hoa Kỳ, con nhà họ Tống, một gia đình bạn thân nhất của Tôn Dật Tiên. Họ hoan hô lãnh tụ của họ đã kết duyên với người nữ sinh viên họ Tống. Họ tin rằng Tống Khánh Linh sẽ giúp Tôn Dật Tiên rất nhiều trong những chương trình cải cách của ông. Hơn nữa sự coi thường những quan niệm cổ truyền của Tôn Dật Tiên rất phù hợp với tinh thần trẻ trung cởi mở của họ. Trong mấy năm đầu sau khi Viên Thế Khải chết rồi, trong khi Lê Nguyên Hồng trở thành tổng thống, và các tỉnh của Trung hoa nằm trong tay các sứ quân, thì Tôn Dật Tiên vẫn lận đận, không hoàn thành được điều gì, và phải về sống tại Thượng Hải chờ thời cơ.
Vào mùa thu năm 1917, Tôn Dật Tiên và Khánh Linh quyết định cuộc cách mạng phải có một căn cứ mạnh tại miền nam. Quảng Đông lúc đó nằm trong tay sứ quân Trần Quýnh Minh, độc lập với Bắc Kinh và là bạn của Tôn Dật Tiên. Tôn Dật Tiên và Khánh Linh xuống Quảng Đông và thiết lập một chính phủ cách mạng tại đó. Trước kia chính Tôn Dật Tiên bổ nhiệm Trần Quýnh Minh làm tổng đốc Quảng Đông và gần đây Trần Quýnh Minh thành công đánh bại được sứ quân Quảng Tây, và chiếm được Quảng Tây. Tháng 11, Tôn Dật Tiên cử Tưởng Giới Thạch làm cố vấn quân sự. Nhiệm vụ thực sự của Tưởng là chỉ huy về an ninh và liên lạc cho Tôn Dật Tiên. Trong chức vụ này, Tưởng đi khắp nơi với những nhiệm vụ bí mật, và mặc thường phục.
Quân đội Quảng Đông do sứ quân Trần Quýnh Minh chỉ huỵ Các sĩ quan dưới quyền của Trần Quýnh Minh đều là người miền nam và nói tiếng Quảng Đông. Họ bất mãn trước những mệnh lệnh của Tưởng Giới Thạch, một người họ cho là kỳ khôi với cái đầu như hạt đậu phọng và chỉ nói được thổ âm Chiết Giang mà họ không thể hiểu được. Nhiệm vụ của Tưởng đối với quân đội Quảng Đông quả thực hết sức khó khăn. Chỉ có một khu vực gần thành phố Quảng Châu là phe Tôn Dật Tiên mới thực sự kiểm soát được. Hơn nữa Quảng Đông vẫn còn bị bao vây bởi những sứ quân còn trung thành với Bắc Kinh. Tôn Dật Tiên biết rằng cần phải củng cố được sức mạnh quân sự trước khi có thể làm được việc lớn. Tôn Dật Tiên mướn lính đánh thuê của các sứ quân khác, của các bang hội, của các đảng cướp và ngay cả binh sĩ của chính phủ. Những binh sĩ này chỉ trung thành với ai trả tiền cho họ. Tôn Dật Tiên cần phải có quân đội riêng, chứ không thể dựa vào những quân đội đánh thuê mãi được. Muốn có quân đội riêng thì cần phải có tiền nhiều để trả lương và tổ chức huấn luyện.
Vì quan tâm tới vấn đề tài chánh nên Tôn Dật Tiên giao phó công việc hàng ngày cho một số thuộc hạ. Thuộc hạ của Tôn Dật Tiên thì những người giỏi đã bị ám sát hết, chỉ còn lại rặt những hạng bất tài mà cứ tưởng mình là thần thánh. Trong hoàn cảnh đó, Tôn Dật Tiên càng ngày càng phải nhờ cậy đến Tưởng Giới Thạch nhiều hơn, và thường mời Tưởng từ Thượng Hải xuống để giải quyết giúp ông nhiều vấn đề quan trọng. Tưởng không thích những công việc dọn dẹp lặt vặt này, nên mỗi lần chỉ ở lại Quảng Châu vài ngày rồi lại vội vàng trở về Thượng Hải. Tưởng rất thân thiện với nhà triệu phú Curio Trương và Đỗ Đại Nhĩ. Cả ba người tổ chức thị trường chứng khoán tại Thượng Hải, và tạo ra được rất nhiều tiền trợ giúp Tôn Dật Tiên. Những số tiền gửi tới Tôn Dật Tiên đều do Đỗ Đại Nhĩ và Curio Trương ký tên, nên từ đó vai trò của hai người này càng thêm uy thế trong Quốc dân đảng.
Năm 1921, Tưởng Giới Thạch bị tiếng sét ái tình đầu tiên khi gặp Trần Khiết Như, một người đàn bà vô cùng khéo léo, không bó chân và rất khôn ngoan bặt thiệp. Tưởng ly dị người vợ cả, đuổi người ca kỹ Diêu Di Thành để kết hôn với Trần Khiết Nhự Thực ra Trần Khiết Như trước kia thuộc quyền của Đỗ Đại Nhĩ. Tháng 11 năm 1921, hôn lễ của Tưởng và Trần Khiết Như được cử hành theo nghi lễ Phật giáo, và Trần cô nương trở thành đệ nhị phu nhân Tưởng Giới Thạch. Nhưng chỉ một ít lâu sau đó, trong một đêm dạ vũ do Tống Tử Văn tổ chức ăn mừng Giáng Sinh, Tưởng Giới Thạch gặp một thiếu nữ trẻ đẹp, trí thức, linh động và có nhiều liên hệ với các phe nhóm chính trị và kinh tài quan trọng: người đó là Tống Mỹ Linh, em gái Tôn Dật Tiên phu nhân. Mỹ Linh cũng còn là em gái Ái Linh, người đang hợp tác kinh tài rất chặt chẽ với Đỗ Đại Nhĩ. Tưởng vô cùng hối tiếc đã kết hôn với Trần Khiết Như quá vội vàng, và tiếc không gặp Tống Mỹ Linh sớm hơn. Tuy nhiên, Tưởng không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để mất một người có thể đem về cho mình rất nhiều điều lợi, cả về chính trị và tài chánh như Tống Mỹ Linh. Tưởng lập tức đặt ra một kế hoạch lâu dài để chinh phục Tống Mỹ Linh.
Cuối tháng 12 năm đó, khi đi Quảng Đông theo lời mời của Tôn Dật Tiên, Tưởng không quên đưa vấn đề được giới thiệu với Tống Mỹ Linh ra nói với Tôn Dật Tiên. Tưởng cho biết đã ly dị vợ cả, và đuổi Diêu Di Thành rồi, nhưng Tưởng cố tình không cho Tôn Dật Tiên biết cuộc hôn nhân mới của mình với Trần Khiết Nhự Tưởng kể cho Tôn Dật Tiên biết như thế để chứng tỏ mình đã quyết tâm chỉnh đốn lại đời sống, mở một trang đời mới, và dành hết tâm huyết cho công cuộc cách mạng, và sẵn sàng nhận lãnh những trách nhiệm lớn hơn. Cuối cùng Tưởng hỏi Tôn Dật Tiên, "Thưa sư phụ, bây giờ tôi không có vợ, sư phụ có nghĩ rằng Tống Mỹ Linh sẽ chấp nhận lời cầu hôn của tôi không?"
Tôn Dật Tiên suy nghĩ một lúc rồi thành thực trả lời Tưởng rằng ông không nghĩ Tống Mỹ Linh sẽ chấp nhận lời cầu hôn của Tưởng. Nhưng Tôn Dật Tiên hứa sẽ bàn lại với vợ. Khi Tôn Dật Tiên bàn với vợ về vấn đề Tưởng muốn cầu hôn với Tống Mỹ Linh thì bà Khánh Linh bừng bừng nổi giận. Bà rít lên thà bà thấy em gái bà chết đi còn hơn là lấy một người mà bà cho là vô tư cách đến như Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên một người như Tưởng Giới Thạch không dễ gì đầu hàng mọi khó khăn mà chưa phấn đấu, nhất là con mồi Tống Mỹ Linh hứa hẹn rất nhiều lợi lộc to lớn mà Tưởng đang thèm muốn.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 8 Sứ Quân Quảng Đông Phản Tôn Dật Tiên
Cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên là một chuỗi dài những thất bại. Nhiều lúc Tôn Dật Tiên tưởng đã đạt được thành quả thì lại phải bỏ chạy tháo thân. Sau nhiều cố gắng, Tôn Dật Tiên đã tạo được một căn cứ địa tại Quảng Đông làm địa bàn cho mộng thống nhất đất nước đang bị phân tán vào tay rất nhiều sứ quân. Mộng làm chủ nước Trung hoa của Tôn Dật Tiên vào mùa xuân năm 1922 lại một lần nữa bị chính các sĩ quan của ông phá hoại, và công bố những bí mật tai hại của ông.
Tư dinh của Tôn Dật Tiên nằm trên một ngọn đồi, và được nối liền với phủ tổng thống bằng một cây cầu gỗ có mái che và tường gỗ hai bên. Trong thời kỳ loạn lạc đó, các sứ quân, các viên chức cao cấp của triều đình và các thương gia giầu có phải biến chỗ ở của mình thành những pháo đài kiên cố, để chống lại mọi mưu toan tấn công hoặc ám sát. Riêng tư dinh của Tôn Dật Tiên nằm trơ vơ trên một ngọn đồi và do đó việc phòng thủ rất là khó khăn. Kẻ thù có thể tấn công vào tư dinh từ bất cứ mặt nào, và lối thoát duy nhất là cây cầu gỗ thông qua dinh tổng thống.
Sứ quân Quảng Đông là Trần Quýnh Minh. Tổ tiên họ Trần vốn từ miền bắc lưu lạc đến lập nghiệp tại Quảng Đông từ nhiều thế kỷ trước. Họ là những người không theo tục lệ bó chân cho con gái, và thành công tổ chức những bang hội Triều Châu. Hồi còn trẻ, Trần Quýnh Minh đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chiếm Quảng Đông và biến Quảng Đông thành một tỉnh độc lập với nhà Mãn Thanh năm 1911. Năm 1922, Trần Quýnh Minh mới có 40 tuổi, và được coi là một trong những sứ quân tiến bộ nhất của Trung hoa.
Sau khi Viên Thế Khải chết, Tôn Dật Tiên cùng Trần Quýnh Minh thiết lập một nước cộng hòa tại Quảng Đông, đối lập với chính quyền tại Bắc Kinh, lúc đó do Lê Nguyên Hồng đứng đầu. Trần Quýnh Minh đưa ra những chương trình tiến bộ, như gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, kể cả sinh viên cộng sản. Với những thành công đầu tiên, Trần Quýnh Minh hết sức quan tâm đến việc bảo vệ và phát triển nước cộng hòa Quảng Đông, và không thiết tha gì đến công việc giải phóng toàn thể Trung hoa khỏi tay các sứ quân khác. Chính Trần Quýnh Minh cũng chỉ ước mong trở thành một sứ quân.
Tôn Dật Tiên, trái lại, lúc nào cũng ôm giấc mộng lớn được dẫn quân đội Bắc phạt, để thống nhất Trung hoa và trở thành vị tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa Trung hoa. Tôn Dật Tiên giao phó tất cả công việc chính phủ tại Quảng Đông cho thuộc hạ, và chỉ say mê với những giấc mơ huy hoàng trong trí tưởng tượng của ông. Tay chân của Tôn Dật Tiên phần lớn là những người thiếu khả năng, vì thế Quảng Đông trở nên rối loạn: thành phố Quảng Châu không có cảnh sát, ngoài đường đầy rẫy những toán lính vô kỷ luật và các tay anh chị. Trần Quýnh Minh chỉ mơ ước làm chủ một tỉnh là mãn nguyện rồi. Họ Trần nhận thấy rằng nước cộng hòa nhỏ bé của miền nam chưa được ổn định, và có thể bị các sứ quân khác xâu xé, nếu quân đội Quảng Đông phải làm một cuộc viễn chinh Bắc phạt. Trần Quýnh Minh thiên về một thể chế liên bang, và các tỉnh được hưởng quyền rộng rãi hơn. Các sĩ quan của quân đội Quảng Đông hết sức ủng hộ Trần Quýnh Minh, vì họ là những người rất tham nhũng, sống bám vào các thương gia giầu có của Quảng Đông.
Tôn Dật Tiên nhiều lần yêu cầu Trần Quýnh Minh khởi quân Bắc phạt, nhưng họ Trần tìm cách tránh né, trì hoãn, không muốn rời xa căn cứ của mình. Cuối cùng hai người đi đến một quyết định: Tôn Dật Tiên sẽ chỉ huy quân đội Bắc phạt, còn Trần Quýnh Minh ở lại giữ Quảng Đông. Ngày 6-5-1922, Tôn Dật Tiên và Khánh Linh bắt đầu rời Quảng Châu, và tiến tới thị trấn Thảo Quận để nắm quyền chỉ huy toán quân đánh thuê trong chiến dịch Bắc phạt. Tôn Dật Tiên có 500 vệ sĩ là quân nòng cốt của Quốc dân đảng. Sau khi Tôn Dật Tiên ra đi thì Trần Quýnh Minh trở thành chủ nhân ông toàn quyền của Quảng Đông, đúng như điều họ Trần hằng mong ước. Tổ chức Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên bị họ Trần loại ra khỏi chính quyền. Chính quyền tại Quảng Đông nay là của Trần Quýnh Minh. Họ Trần đã thành công làm một cuộc đảo chánh chớp nhoáng.
Tại Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch nghe tin Trần Quýnh Minh trở mặt và làm đảo chánh tại Quảng Đông. Tưởng vội đánh điện yêu cầu Tôn Dật Tiên phải lo củng cố hậu phương trước khi tiến quân viễn chinh. Ngày 25-5, Tôn Dật Tiên vội dẫn Khánh Linh và 50 vệ sĩ quay trở về Quảng Châu. Từ tư dinh trên đồi, Tôn Dật Tiên trông thấy quân đội của Trần Quýnh Minh từ từ tiến tới, chiếm những vị trí bao vây quanh đồi, có vẻ muốn tấn công vào tư dinh của ông. Tôn Dật Tiên vội đánh điện cho Tưởng Giới Thạch, lúc đó đang ở Chiết Giang, và yêu cầu Tưởng phải tới cứu nguy ngay tức khắc.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 16-6, Khánh Linh đang ngủ ngon thì bị Tôn Dật Tiên đánh thức dậy, và dục Khánh Linh phải thay quần áo mau lẹ để chạy trốn, vì tình thế rất khẩn trương. Tôn Dật Tiên vừa nhận được một điện thoại cho biết quân của Trần Quýnh Minh đang sửa soạn tấn công vào dinh. Tôn Dật Tiên dự định cùng vợ trốn ra một pháo thuyền ngoài sông, và từ đó ông sẽ chỉ huy quân đội trung thành với ông chống lại cuộc phản loạn của Trần Quýnh Minh.
Khánh Linh nhận thấy mình có thể là gánh nặng cho chồng trong lúc khẩn cấp, nên khuyên Tôn Dật Tiên nên trốn đi trước một mình. Khánh Linh lý luận rằng mang một người đàn bà đi theo cuộc hành quân là điều bất tiện, và bà ở lại cũng không có gì nguy hiểm. Tôn Dật Tiên vốn là người hay nghe lời vợ nên vội vàng đồng ý, và để lại tất cả vệ sĩ để bảo vệ cho vợ. Rồi ông hấp tấp ra đi với một người vệ sĩ duy nhất.
Chừng nửa giờ sau khi Tôn Dật Tiên đã ra đi rồi thì súng bắt đầu nổ chung quanh tư dinh. Quân của Trần Quýnh Minh từ bốn phía xông vào tư dinh, và đồng loạt hô to khẩu hiệu: "Giết Tôn Dật Tiên! Giết Tôn Dật Tiên!" Toán vệ sĩ của Tôn Dật Tiên nằm im lặng chờ đợi, và đèn bên trong tư dinh tắt hết. Cho đến gần sáng thì quân của Trần Quýnh Minh bắt đầu dùng súng đại bác bắn vào tư dinh. Vệ sĩ của Tôn Dật Tiên chỉ có súng trường và một ít súng máy. Sự chênh lệch về sức mạnh của hai bên rất rõ ràng, và toán vệ sĩ trong tư dinh chắc chắn không thể cầm cự lâu dài được.
Thoạt tiên một trái đại bác bắn sập phòng tắm của Khánh Linh, và một phần ba số vệ sĩ bị loại ra khỏi vòng chiến. Tuy nhiên đám vệ sĩ còn lại vẫn kiên quyết chiến đấu tới cùng, vì họ là những phần tử trung kiên của Quốc dân đảng. Một vệ sĩ trèo lên lầu và bắn hạ được khá nhiều quân tấn công. Đến 8 giờ sáng thì binh sĩ bên trong tư dinh gần hết đạn, và phải bắn cầm chừng để tiết kiệm số đạn dược ít ỏi còn lại. Viên đại úy chỉ huy toán vệ sĩ thấy tình thế mỗi lúc một tuyệt vọng hơn, nên khuyên Khánh Linh rời khỏi tư dinh ngay, và tất cả số vệ sĩ còn lại sẽ chặn hậu, bảo vệ đường thoát hiểm cho Khánh Linh.
Khánh Linh cùng một đại tá cố vấn ngoại vụ của Tôn Dật Tiên và hai binh sĩ trốn khỏi tư dinh bằng cách bò trên cây cầu gỗ nối liền với dinh tổng thống. Quân phản loạn lập tức hướng hỏa lực vào cây cầu này. Hai lần đạn sướt qua màng tang Khánh Linh, nhưng toán người rút lui được các thành cầu bằng sắt cản đạn nên thoát chết nhiều lần. Nhưng khoảng giữa cầu có một đoạn đã bị đại bác bắn trúng và phá tung. Nhóm Khánh Linh bắt buộc phải chạy qua một khoảng trống không có song sắt che chở. Chính tại đây viên đại tá cố vấn ngoại vụ bị trúng đạn vào đùi và máu tuôn sối xả. Hai tên lính phải dìu ông ta đi tiếp. Tất cả phải mất vài giờ mới vượt qua được cây cầu ngắn để lẩn vào vườn sau của dinh tổng thống.
Ngay khi họ vừa qua được cây cầu thì một trái đạn đại bác đánh gục hẳn cây cầu gỗ, và kể từ đó hỏa lực của loạn quân dồn hết vào tư dinh, phá sập tư dinh và tất cả vệ sĩ còn lại trong tư dinh đều tử trận. Sau đó quân phản loạn quay súng sang tấn công phủ tổng thống. Khánh Linh tìm cách băng bó cho viên đạI tá. Viên đại tá vừa rên rỉ vừa trấn an Khánh Linh, "Thưa phu nhân, chiến thắng cuối cùng sẽ là của chúng ta!"
Từ sáng cho tới 4 giờ chiều, Khánh Linh nằm chết dí trong phủ tổng thống để nghe đạn bay tứ phía. Có khi Khánh Linh và vệ sĩ vừa đi qua thì cả trần nhà sụp xuống vì trúng đạn đại bác. Vào lúc 4 giờ chiều thì viên tư lệnh quân phản loạn phái một sĩ quan tiến vào dinh để đề nghị điều kiện cho bên trong đầu hàng. Yêu sách đầu tiên của Khánh Linh là phe phản loạn phải bảo đảm sự an toàn cho Khánh Linh, nhưng yêu sách này bị phe phản loạn bác bỏ ngaỵ Sở dĩ quân phản loạn không thể bảo đảm an ninh cho Khánh Linh được là vì chính các sĩ quan cũng không chỉ huy được quân sĩ của mình. Họ là những binh sĩ vô kỷ luật. Cuộc thương thuyết bất thành, và đợt tấn công cuối cùng bắt đầu.
Cổng phủ tổng thống bị phá sập; từng toán quân phản loạn chĩa súng cắm lưỡi lê tiến vào ào ào như thác lũ. Khánh Linh tưởng giờ phút cuối cùng đã điểm, nhưng những toán lính phản loạn dường như không thèm để ý đến những người ở bên trong phủ. Cái mà chúng chú tâm nhất là tranh nhau vơ vét đồ đạc bên trong phủ, và nhét đầy những bao tải chúng mang theo. Lợi dụng tình trạng hỗn loạn giữa những loạn quân mải mê hôi đồ, Khánh Linh và hai người vệ sĩ lẻn trốn ra khỏi phủ tổng thống. Ngoài đường phố đông đầy lính phản loạn, xô nhau đi cướp đồ trong các bộ phủ quanh đó, và không một ai để ý đến Khánh Linh.
Nhóm Khánh Linh chạy thoát vào một đường hẻm, nhưng Khánh Linh kiệt sức, không đủ sức tiếp tục chạy nữa. Bà yêu cầu hai người vệ sĩ bỏ mặc bà ngồi lại một mình, và ra lệnh cho họ cứ tiếp tục chạy cho thoát, nhưng hai vệ sĩ xốc nách Khánh Linh, dìu bà đi qua những xác chết rải rác ngoài đường. Nhiều xác bị đâm thủng ngực hoặc cụt chân cụt taỵ Nhóm Khánh Linh đụng độ từng toán chuyên đi hôi đồ, và Khánh Linh phải nằm thẳng cẳng xuống đường, giả vờ chết, nếu không sẽ bị quân vô lại cướp bóc, hoặc lợi dụng sờ mó hoặc hãm hiếp. Hai vệ sĩ khuyên Khánh Linh không nên nhìn những xác người chết, e rằng Khánh Linh sợ quá có thể ngất xỉu. Một nửa giờ sau nhóm Khánh Linh lần mò tới nhà của một nông dân. Người nông dân sợ hãi xua đuổi không dám chứa chấp Khánh Linh, sợ bị quân của sứ quân Trần Quýnh Minh trừng phạt, nhưng hai người vệ sĩ cứ dìu Khánh Linh vào trong nhà.
Khánh Linh mệt quá, nằm gục xuống thiếp đi, không còn biết gì nữa. Hai vệ sĩ dùng nước lạnh để cứu Khánh Linh hồi tỉnh. Một người bước ra ngoài để nghe ngóng tình hình. Chợt một tiếng súng chát chúa vang lên. Người vệ sĩ còn lại vội chạy ra đóng cửa lại, và quay vào báo cho Khánh Linh biết người vệ sĩ kia đã bị bắn chết ngay ngoài cửa rồi. Khánh Linh vội vã cải trang làm một người đàn bà nhà quê, bưng một rổ đựng một ít rau cải, tiếp tục chạy trốn cùng với người vệ sĩ bây giờ giả làm một người bán hàng rong. Hai người lần mò tới nhà một người bạn của Khánh Linh. Căn nhà này đã bị loạn quân ruồng xét buổi sáng nên Khánh Linh có thể ở lại một đêm. Súng nổ liên hồi suốt đêm đó. Bỗng Khánh Linh nghe thấy tiếng súng phản công từ pháo thuyền ngoài sông, và bà thở phào nhẹ nhõm: thế là Tôn Dật Tiên đã được an toàn và bà cũng có hy vọng thoát hiểm.
Sáng sớm hôm sau, Khánh Linh được một người bạn khác tìm cách sắp đặt một chiếc thuyền máy đưa bà ra pháo thuyền của Tôn Dật Tiên. Trên sông, Khánh Linh gặp rất nhiều thuyền bè của nhà giầu chở đầy con gái và hàng hóa đi tránh nạn. Cuối cùng đêm đó Khánh Linh ra được pháo thuyền với Tôn Dật Tiên. Sau cơn chạy giặc nguy hiểm vất vả, Khánh Linh bị xảy thai, và bà không bao giờ có thai nữa.

*
Về phần Tôn Dật Tiên, khi ông để vợ Ở lại và trốn khỏi tư dinh, ông đã phải liều lĩnh đi qua một toán quân phản loạn để ra bờ sông. Nhưng nhờ đêm tối nên quân phản loạn không nhận ra ông. Ông và người vệ sĩ tiến tới chỗ đậu bí mật của chiếc pháo thuyền. Từ lúc đó thì kể như Tôn Dật Tiên được an toàn. Ông đánh điện cầu cứu Tưởng Giới Thạch. Ngày 18-6, ông nóng nảy đánh thêm một điện văn thứ hai cho Tưởng, thúc giục Tưởng phải đến ngay vì tình thế rất khẩn trương.
Được điện văn thứ hai, Tưởng vội vàng từ Thượng Hải xuống giúp Tôn Dật Tiên với hy vọng chiếm lại được Quảng Châu khỏi tay Trần Quýnh Minh. Tưởng và Tôn Dật Tiên dùng chiếc pháo thuyền làm bản doanh chống lại quân phản loạn trong suốt 56 ngày. Trần Quýnh Minh hoảng sợ tái mặt khi nghe tin Tưởng Giới Thạch tới giúp Tôn Dật Tiên. Họ Trần biết Tưởng là một người quỷ quyệt, có thể làm bất cứ điều tàn ác nào. Khi nhận được điện văn đầu tiên của Tôn Dật Tiên, Tưởng hoàn toàn im lặng. Nhưng khi điện văn thứ hai của Tôn Dật Tiên tới nơi thì phe của Tưởng khuyên Tưởng phải lên đường ngay, vì thời gian đã chín mùi để Tưởng tạo được uy thế trong hàng ngũ cách mạng của Tôn Dật Tiên, vì đây là giờ phút nguy hiểm nhất của Tôn Dật Tiên, và cần sự trợ giúp của Tưởng nhất. Trong thời gian sống bên Tôn Dật Tiên dưới chiếc pháo thuyền, Tưởng tỏ ra rất cần mẫn, có khi cởi áo lau sàn tàu như một người lính thường. Điều này làm Tôn Dật Tiên rất cảm động, và quyết định giao phó cho Tưởng chức vụ quan trọng trong tổ chức cách mạng của ông.
Vận may của Tôn Dật Tiên vẫn chưa đến. Một lần nữa nhà cách mạng này lại ghi thêm một thất bại chua chát. Sau 56 ngày trên pháo thuyền mà không loại trừ được quân đội phản loạn của Trần Quýnh Minh, Tôn Dật Tiên trở nên mệt mỏi nên cùng vợ và Tưởng cải trang tìm đường trốn về Hương Cảng, rồi đi luôn Thượng Hải để chờ một cơ hội khác. Kể từ đó vai trò của Tưởng Giới Thạch nổi bật trong Quốc dân đảng. Phe cực hữu của Thượng Hải đã thành công xâm nhập vào tổ chức cách mạng của Tôn Dật Tiên.
Tại Quảng Đông, Trần Quýnh Minh đốt tư dinh của Tôn Dật Tiên thành bình địa. Họ Trần còn hỏa thiêu tất cả các tài liệu và các bản thảo của Tôn Dật Tiên bỏ lại, trừ một số tài liệu bí mật viết tay của Tôn Dật Tiên, liên quan tới việc bí mật bắt tay với cộng sản Nga sộ Tôn Dật Tiên đã từng nhẫn nại gõ cửa các quốc gia tây phương nhờ giúp đỡ cho công cuộc thống nhất và canh tân nước Trung hoa của ông, nhưng mọi cánh cửa đều đóng chặt, không đáp lại sự nài nỉ của ông. Cuối cùng Tôn Dật Tiên đành phải quay sang cầu cứu cộng sản Nga sô giúp đỡ.
Các tài liệu mật liên lạc với Nga sô bắt được trong tư dinh của ông được đăng tải trên tờ Hong Kong Telegraph, gây chấn động trên thế giới, đặc biệt là giới tài phiệt Trung hoa. Người ta chưa được biết nhiều về những người bôn-sê-vích Nga sô, nhưng những điều ít ỏi người ta được biết về cộng sản Nga sô đều đáng kinh sợ. Tờ báo L Avenir du Tonkin của người Pháp tại Hà nội ngày 24-7-1922 đã tóm lược các bằng chứng về sự móc nối giữa Tôn Dật Tiên và Nga sô như sau: "Chính phủ của Trần Quýnh Minh đã công bố những tài liệu vạch trần việc thiết lập một khối đồng minh Tầu-Nga- Đức do Tôn Dật Tiên soạn thảo, với sự hợp tác của M. von Hintze, đại sứ Đức tại Mạc tư khoa, và trước kia là đại sứ Đức tại Bắc Kinh." Việc công bố này có ảnh hưởng tai hại cho công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên. Hậu quả đầu tiên là tổ chức bí mật của Tôn Dật Tiên tại San Francisco lập tức khai trừ Tôn Dật Tiên ra khỏi tổ chức, vì tội đã bí mật liên kết với cộng sản Nga sộ Tại Trung hoa nhiều người e dè không dám cộng tác với Tôn Dật Tiên như trước nữa.
Thực ra cộng sản Nga đã tìm đến Tôn Dật Tiên trước. Mặc dầu cuộc cách mạng mùa thu của cộng sản thành công tại Nga sô, nhưng người Bôn-sê-vích không tạo được cuộc cách mạng trên toàn thế giới như họ mong muốn. Vì lý do này, các nhà lãnh đạo Nga sô cố gắng bày tỏ thiện cảm giúp đỡ các nước nhược tiểu trong nỗ lực tìm cơ hội tại hải ngoại. Nga sô đã kêu gọi người Trung hoa phải vùng dậy, lật đổ nền quân chủ và đòi lại các nhượng địa trước kia triều đình Mãn Thanh đã phải nhượng cho các quốc gia tây phương. Lời kêu gọi của Nga sô đã được giới trí thức Trung hoa rất đỗi cảm kích, nhất là sau khi người Trung hoa thất vọng trước kết quả của hội nghị Versailles. (Hội nghị này cho phép người Nhật được làm chủ các lãnh thổ Trung hoa trước kia do người Đức cai quản.)
Nhiều cán bộ cao cấp của cộng đảng Nga được phái sang Bắc Kinh để kiểm điểm tình thế để xem Nga sô nên cầm đầu nhóm cách mạng nào của Trung hoa. Năm 1922, một phái bộ ngoại giao Nga do Adolf Joffe hướng dẫn sang Bắc Kinh để tìm sự giao hảo và hợp tác với chính quyền Bắc Kinh. Các sứ quân của Trung hoa lúc đó còn đang mải lo tìm sự trợ giúp của Anh quốc nên bác bỏ mọi đề nghị của Joffẹ Bị thất bại tại Bắc Kinh, Joffe tìm đường xuống Thượng Hải gặp Tôn Dật Tiên, và coi Tôn Dật Tiên như một con bài thay thế.
Người cộng sản Nga không có ảo tưởng về Tôn Dật Tiên. Chính Lênin đã có lần mô tả Tôn Dật Tiên là một người ngây thơ, và những tư tưởng của Tôn Dật Tiên là không tưởng, thiếu thực tế. Tuy nhiên người Nga nhận thấy có thể lợi dụng được Tôn Dật Tiên và tổ chức Quốc dân đảng của ông. Nga sô tin tưởng có thể biến Tôn Dật Tiên thành một lãnh tụ chỉ đóng vai trò tượng trưng.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 9 Vai Trò Của Borodin Tại Trung Hoa
Sau khi bị sứ quân Quảng Đông lật đổ, Tôn Dật Tiên trở về Thượng Hải nằm liếm vết thương chờ thời. Đang cơn túng quẫn bị nhiều người xa lánh vì việc sứ quân Quảng Đông công bố tài liệu hợp tác với cộng sản Nga, và không biết xoay trở cách nào thì phái bộ Nga sô do Joffe cầm đầu tìm đến. Tôn Dật Tiên và phái bộ Nga sô thảo luận nhiều ngày liên tiếp, tìm phương thức hợp tác. Joffe cố thuyết phục Tôn Dật Tiên rằng Nga sô không có tham vọng đất đai tại Trung hoa. Joffe chứng minh một xã hội phong kiến như Trung hoa không thể là một vùng đất tốt cho chủ nghĩa cộng sản. Những điều Joffe nói có lẽ phản ảnh đúng ý kiến của Lênin và Trotsky đang cầm quyền lúc đó, chứ không phải chủ trương của Stalin sau này. Joffe nhấn mạnh trong công cuộc chống lại ngoại bang, Trung hoa có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của Nga sô.
Tôn Dật Tiên cẩn thận yêu cầu Joffe viết giấy xác nhận những nguyên tắc mà chính quyền cộng sản Nga sô đã công bố khi mới thành lập chế độ cộng sản, như từ bỏ các nhượng địa Trung hoa, và xóa bỏ những hòa ước giữa Nga hoàng và triều đình Mãn Thanh. Các điều này đã được công bố trong bản thông cáo chung bằng Anh ngữ khi "đồng chí" Joffe rời Thượng Hải đi Tokyo ngày 26-1-1923. Bản thông cáo không tiết lộ những hứa hẹn của Nga sô giúp đỡ Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng về tài chánh trong mưu đồ tranh quyền làm chủ Trung hoa. Về phần Tôn Dật Tiên, trước hết ông phải chứng tỏ khí thế của mình bằng cách kiểm soát được miền nam Trung hoa, và cũng để tỏ thiện chí, Tôn Dật Tiên phải cho đảng cộng sản gia nhập Quốc dân đảng.
Rồi vận may của Tôn Dật Tiên cũng trở lại. Tôn Dật Tiên tìm cách liên kết được với hai sứ quân Vân Nam và Quảng Tây vốn là kẻ thù của sứ quân Quảng Đông. Quân đội của hai sứ quân này cùng với số binh sĩ trung thành với Tôn Dật Tiên đủ mạnh để bao vây và áp lực sứ quân Quảng Đông. Trần Quýnh Minh cảm thấy ở thế yếu, nên quyết định rời bỏ chính trị, ôm tài sản trở về hưởng phú quý tại Hương Cảng. Tất cả xảy ra đúng hai ngày trước khi Joffe đến gặp Tôn Dật Tiên. Chiến thắng bất ngờ gia tăng uy tín của Tôn Dật Tiên rất nhiều. Bây giờ Tôn Dật Tiên đường hoàng trở về Quảng Đông với tư cách là Tổng Thống Đặc Biệt, và đó cũng là điều kiện đầu tiên để được viện trợ của Nga sô.
Lần này, Tôn Dật Tiên và Khánh Linh cẩn thận hơn, không dám ở trong dinh tổng thống cũ nữa. Tôn Dật Tiên cho sửa chữa lại một nhà máy trên một hòn đảo ngoài sông, và dùng nơi đó làm dinh tổng thống. Tại đây việc phòng thủ dễ dàng hơn, vì có sông bao quanh và toà nhà rất kiên cố có thể chống đỡ được những đợt pháo kích. Tôn Dật Tiên không tìm vệ sĩ là người Trung hoa. Ông mướn Morris Cohen, một cựu võ sĩ quyền Anh người Gia nã đại, làm vệ sĩ cho ông.
Cuộc thảo luận sơ khởi với Joffe đã mở đường cho một nhân vật Nga sô đặc biệt tới Trung hoa. Đó là Borodin, tên thật là Mikhail Markovich Grusenberg. Borodin được Lênin phái tới Trung hoa làm cố vấn cho Tôn Dật Tiên với tư cách là đại diện tổ chức cộng sản thế giới tại Trung hoa. Borodin có quyền hạn rất lớn, nhưng nhiệm vụ thật vô cùng nặng nề khó khăn. Việc khó khăn nhất của Borodin là phải tổ chức lại Quốc dân đảng thành một đảng chính trị thống nhất có kỷ luật. Từ trước Quốc dân đảng là một tổ chức rất lỏng lẻo, ai cũng muốn làm lãnh tụ chứ không chịu thừa hành lệnh của người khác. Việc khó khăn thứ hai là tài trợ, huấn luyện và trang bị quân đội Quốc dân đảng thành một quân đội có thể đảm nhiệm được vai trò chiến đấu. Quân đội Quốc dân đảng lúc đó vô kỷ luật, thiếu khả năng, thiếu trang bị về vũ khí, nhưng lại rất thiện nghệ hôi đồ cướp của, và rất khôn ngoan bỏ trốn khi gặp nguy hiểm.
Borodin là một đảng viên cộng sản cao cấp có tài, đã từng hoạt động thành công trong những nhiệm vụ rất khó khăn tại nhiều quốc gia Mỹ châu và Âu châu. Borodin có lần suýt được bổ nhiệm làm đại sứ tại Anh quốc. Borodin rất thân cận Lênin, và được Lênin tin dùng trong những nhiệm vụ trọng yếu. Trước khi tới Trung hoa, Borodin hoạt động tại Tô Cách Lan, trợ giúp các thợ hầm mỏ của Anh đình công, và bị tù nửa năm tại khám đường Barlinniẹ Khi mãn hạn tù Borodin bị trục xuất khỏi Anh quốc. Nhưng khi trở về đến Mạc tư khoa, Borodin được Lênin phái ngay sang Trung hoa đảm nhiệm trách vụ quan trọng, đặt nền móng để đưa Trung hoa vào quỹ đạo cộng sản.
Khi tới Trung hoa, Borodin được Tôn Dật Tiên rất quý mến tin cẩn. Ngày đầu tiên, Tôn Dật Tiên nắm tay Borodin, bắt ngồi xuống bên cạnh mình, và mỉm cười nhìn rất lâu vào mắt Borodin, như nhìn vị cứu tinh của mình. Borodin trông thấy ngay vị thế nguy hiểm của Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng. Thành phố Quảng Châu đầy binh lính của các sứ quân khác nhau. Các binh sĩ này hưởng lương của Quốc dân đảng, nhưng không thể tin cậy được. Tôn Dật Tiên chỉ có khoảng 200 tay súng trung thành làm vệ sĩ.
Sứ quân Trần Quýnh Minh quay trở lại, tìm cách chiếm lại thành phố. Quân của Trần Quýnh Minh đóng ngay bên ngoài thành phố, lúc nào cũng sẵn sàng mở cuộc tấn công. Các lính đánh thuê của Tôn Dật Tiên thì chỉ mải du hí, không quan tâm đến sự phòng thủ thành phố. Borodin lập tức tuyển lựa được 450 tay súng trong đảng cộng sản để huấn luyện và thành lập đoàn quân xung kích đầu tiên. Năm tuần lễ sau khi tới Quảng Đông, ngày 15-11, Borodin đem toán quân này đến trình diện Tôn Dật Tiên thì thấy Tôn Dật Tiên đang chuẩn bị thu dọn hành lý để đào tẩu, vì Tôn Dật Tiên mới nghe tin Trần Quýnh Minh sắp sửa tấn công vào Quảng Châu. Tôn Dật Tiên không chịu bàn luận với Borodin về kế hoạch đương cự lại Trần Quýnh Minh, mà chỉ muốn bàn luận kế hoạch bỏ chạy của ông được bảo đảm an toàn.
Borodin vô cùng thất vọng chán nản, và đành phải tự mình đứng ra bảo vệ Quảng Châu bằng nhóm xung kích ít ỏi mới được thành lập. Borodin dạy cho toán xung kích phương pháp đánh giết tàn bạo nhất, theo kiểu mẫu hung bạo của thời cách mạng Nga sô tại St. Petersburg, Nga sộ Lối tấn công hung bạo của Borodin khác hẳn lối đánh nhau thông thường của các sứ quân Trung hoa. Trong các cuộc đụng độ giữa những sứ quân cũng có những tổn thất lớn lao, nhưng phần lớn là do sự hỗn loạn và tàn sát dân lành vô tội. Trong một trận đánh, quân của các sứ quân Trung hoa vừa chiến đấu vừa quan sát xem có thể vơ vét được của cải gì sau trận đánh. Các trận đánh chỉ có mục đích làm cho bên địch rút lui để mình tới vơ vét, chứ không cố tình tàn sát, và cũng không bao giờ có vấn đề liều chết cố thủ. Nếu chỉ bị núng thế thì họ lập tức rút lui ngay.
Chính vì tinh thần chiến đấu thiếu hăng say của binh lính các sứ quân như thế, nên khi Borodin tung ra cuộc tấn công tàn sát thì năm trăm tay súng của ông đã đánh bại hàng ngàn quân của sứ quân Trần Quýnh Minh. Từ đường phố, đến các nhà chứa và sòng bạc, các tay súng của Borodin mặc sức bắn giết, không chậm trễ, không thương xót, phải bắn hạ tất cả, kể cả những kẻ đang chạy trốn. Sứ quân Trần Quýnh Minh vô cùng kinh hoàng trước sức tấn công vũ bão của bên địch, nên vội vàng bỏ chạy thục mạng, cùng với những quân lính chạy nhanh nhất của mình.
Nhờ Borodin, lần này Tôn Dật Tiên không phải đào tẩu nữa. Nhưng chính quyền Quảng Đông của Tôn Dật Tiên thì thực là hỗn độn, bất trị. Người tây phương xa lánh Tôn Dật Tiên vì thấy Tôn Dật Tiên tin dùng Borodin. Nhiều người khuyên Tôn Dật Tiên nên loại bỏ Borodin. Một người bạn Hoa Kỳ đến thăm Tôn Dật Tiên với mục đích trình bày sự nguy hiểm khi dùng Borodin. Người bạn này hỏi Tôn Dật Tiên:
"Bác sĩ có biết tên thực của Borodin là gì không?"
Tôn Dật Tiên nháy mắt mỉm cười trả lời, "Có chứ. Tên thực của ông ta là Lafayettẹ" (Lafayette là một người Pháp đã đến giúp người Mỹ chiến đấu chống người Anh để dành độc lập.) Câu trả lời này chứng tỏ Tôn Dật Tiên nhất quyết chọn con đường đi với Nga sộ Thực ra đó cũng là con đường duy nhất ông chọn được. Các nước tây phương khác đều từ chối không trợ giúp ông.
Fanya, vợ của Borodin, và hai con trai cũng từ Nga sang sống tại Quảng Đông. Borodin còn có một thanh niên cộng sản Trung hoa rất thông minh khôn ngoan làm thư ký và đảm nhiệm công việc văn phòng. Người đó là Chu Ân Lai. Tôn Dật Tiên rất thán phục Borodin, nhất là sau lần thành công bảo vệ thành phố Quảng Châu. Borodin khuyên Tôn Dật Tiên phải nắm được một khu vực trung ương, như Hán Khẩu chẳng hạn, và một căn cứ tại Mông cổ có Nga sô đứng sau thì Tôn Dật Tiên mới có thể đương đầu được với các quốc gia tây phương thù nghịch. Trong những lần bàn luận với Tôn Dật Tiên, Borodin càng nhận thấy nhận xét của Lênin về Tôn Dật Tiên là đúng. Tôn Dật Tiên quả thực là một người ngây thơ, trong khi đó vẫn tưởng chỉ có mình mới là "anh hùng", còn mọi người khác chỉ là một đám đông tầm thường.
Tuy nhiên sự kiêu hãnh của Tôn Dật Tiên không phải là nguyên do sự nhức đầu của Borodin. Chính Tưởng Giới Thạch mới là người gây khó khăn cho Borodin. Ngay từ năm 1920, Tưởng Giới Thạch đã tỏ ra chú ý đến Nga sộ Tưởng đã học tiếng Nga và đã viết thư cho Tôn Dật Tiên biết chính sách của Nga sô thật là đúng khi tập trung hết nỗ lực vào an ninh nội bộ trước khi giải quyết những sự chống đối từ bên ngoài. Điều Tưởng thán phục nhất ở người Nga là kỷ luật. Không có kỷ luật thì không thể nào đạt được kết quả. Tưởng đã có quá nhiều kinh nghiệm bản thân với các đồng chí và quân lính Trung hoa. Nhiều lần Tưởng đã phải từ chức vì các thuộc hạ không áp dụng kỷ luật để có thể thi hành mệnh lệnh một cách chính xác và thành công. Tưởng đã từ chối tham gia chính phủ Quảng Đông cho đến khi được bảo đảm có được sự tuân lệnh của thuộc cấp và quân lính dưới quyền.
Kỷ luật của Nga sô là trách nhiệm của tổ chức công an quốc gia, lúc đó được gọi là Cheka, đã xâm nhập cả vào quân đội, và làm câm họng mọi tiếng nói chống đối. Trong thời gian Cheka hoành hành nhất, các nhân viên Cheka đã bắn chết, đâm chết, dìm nước cho chết và đánh chết khoảng 500 ngàn người Ngạ Hoạt động khủng bố của Cheka được các lãnh tụ cộng sản ca ngợi và bênh vực, vì Cheka phục vụ cho quyền lợi của chính họ. Lênin từng tuyên bố, "Việc khủng bố quảng đại quần chúng cần phải được khuyến khích."
Tưởng Giới Thạch cũng nghe biết về những sự tàn bạo của công an Nga, vì rất nhiều người Nga bỏ trốn sự khủng bố của cộng sản đã tới Thượng Hải, tìm một nơi trú ẩn an toàn. Năm 1923, Tôn Dật Tiên cử Tưởng sang Nga sô nghiên cứu. Tưởng tuyên bố sẽ ở Nga ít nhất từ 5 đến 10 năm. Nhưng Tưởng vỡ mộng ngay khi tới Nga sộ Những huy hoàng của giới vô sản không hề có như trong những tài liệu tuyên truyền của Nga sộ Tưởng chỉ thấy một sự sợ hãi cùng sự đói rách của giới vô sản, cộng với một đời sống vô cùng buồn tẻ. Nga sô không phải là nơi Tưởng có thể tìm thấy sự thoải mái, nhất là một người đã từng sống buông thả như Tưởng. Tưởng cũng nhận thấy người dân Mạc tư khoa vừa sợ vừa ghét người Á Đông.
Nhưng về phương diện chính trị thì cuộc viếng thăm Mạc tư khoa của Tưởng là một thắng lợi lớn cho Quốc dân đảng. Ngay khi tới Mạc tư khoa ngày 2-9-1923, Tưởng đọc diễn văn trước đại hội của tổ chức cộng sản quốc tế, bày tỏ niềm tin tưởng rằng cuộc cách mạng tại Trung hoa sẽ thành công trong hai hoặc ba năm. Khi nghe thấy các đảng viên cộng sản người Trung hoa chê bai Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng, Tưởng liền nhấn mạnh đại hội cộng đảng không hiểu phong trào cách mạng tại Trung hoa, và yêu cầu Nga sô cử thêm nhiều quan sát viên sang Trung hoa để nghiên cứu tình hình tại chỗ.
Tưởng được đi thanh tra hồng quân Nga, viếng thăm các trường quân sự và các tổ chức đảng, thăm căn cứ hải quân Petrograd. Đúng ra Tưởng dùng rất nhiều thời giờ với các nhân viên mật vụ Cheka, và học hỏi phương thức của họ. Điều không may cho Tưởng là trong lúc ở Mạc tư khoa thì Lênin bắt đầu lâm trọng bệnh, hôn mê trước khi chết. Tưởng đàm đạo rất nhiều với Trotskỵ Trotsky bảo đảm vai trò của Nga sô sẽ cung cấp tối đa tinh thần và viện trợ vật chất cho phong trào cách mạng tại Trung hoa, nhưng Nga sô sẽ không phái quân đội sang Trung hoa giúp Quốc dân đảng.
Chỉ ba tháng sau Tưởng đã muốn trở về Trung hoa. Trong một cuốn hồi ký viết sau này, Tưởng nhận xét: "Từ sự quan sát và các cuộc tiếp xúc của tôi, tôi nhận thấy những cuộc xung đột dữ dằn nhất không những đang tiếp diễn tại nước Nga, mà còn cả giữa các đảng viên cộng sản với nhau." Trước khi ra đi, Tưởng hy vọng sẽ được chứng kiến một bộ mặt kỷ luật của Nga và một đảng cộng sản kiểm soát tuyệt đối được đảng và quốc gia Ngạ Trái lại Tưởng chỉ chứng kiến những cuộc ám sát lẫn nhau, và sự yếu kém ngay trong đảng. Ngày 29-11, Tưởng bất thình lình chấm dứt cuộc viếng thăm và vội vàng hồi hương.
Khi trở về Trung hoa, Tưởng Giới Thạch khuyên Quốc dân đảng không nên tin người Ngạ Tưởng thận trọng nhắc nhở các đồng chí trong Quốc dân đảng: "Trong cuộc trợ giúp Trung hoa, đảng cộng sản Nga chỉ có một mục đích biến đảng cộng sản Trung hoa thành một sức mạnh duy nhất. Nga sô muốn biến những đất đai tại Mãn châu, Mông cổ, Hồi giáo và Tây tạng trở thành lãnh thổ của Ngạ Nga sô có những tham vọng lớn tại Trung hoạ"
Tưởng biết rằng kinh nghiệm của ông về Nga sô đã giúp ông trở thành một nhân vật duy nhất trong Quốc dân đảng có thể đương đầu với vấn đề Nga sộ Nếu người Nga định thành lập một trường võ bị tại Quảng Châu để đào tạo một quân đội thực sự với trang bị của Nga sô, thì Tưởng phải là người kiểm soát trường võ bị đó, và từ đó Tưởng sẽ có thể nắm được quân đội tương lai. Nhờ kinh nghiệm Nga sô của Tưởng, không ai có thể tranh được chức chỉ huy trưởng trường võ bị Hoàng Phố với Tưởng.
Sau khi ở Nga sô về, Tưởng trở về quê nhà tại Khê Khẩu trong khi phe bảo thủ vận động ráo riết chức chỉ huy trường võ bị Hoàng Phố cho Tưởng. Đến ngày 26-12-1923, Tưởng nhận được điện văn hứa cho Tưởng được toàn quyền điều hành trường võ bị Hoàng Phố. Điện văn còn nói tiếp: "Việc tổ chức trường võ bị không thể tiến hành được nếu không có Ngài." Ngày 30-12, Tôn Dật Tiên lại gửi cho Tưởng một điện văn thứ hai, yêu cầu Tưởng phải lập tức đến Quảng Châu ngay "để tường trình mọi vấn đề và soạn thảo kế hoạch hợp tác Nga-Hoạ"
Mãi đến ngày 16-1-1924, Tưởng mới rời Khê Khẩu, đúng lúc cuộc đại hội của Quốc dân đảng đang diễn ra tại Quảng Châu. Tưởng muốn toàn thể đại hội Quốc dân đảng phải xác nhận việc bổ nhiệm Tưởng vào chức vụ điều khiển trường võ bị Hoàng Phố. Nhưng trong buổi đại hội này, một số đảng viên cộng sản gia nhập Quốc dân đảng đã chống lại chương trình và cách điều hành trường Hoàng Phố của Tưởng Giới Thạch. Khi Tưởng trình bày kế hoạch về trường Hoàng Phố thì các đảng viên cộng sản và các cố vấn Nga phản đối và tìm cách qua mặt Tưởng. Tưởng tức giận, đập bàn và bỏ về Khê Khẩu.
Khi về đến Khê Khẩu, Tưởng viết cho Tôn Dật Tiên một lá thư dài. Tưởng nhận lỗi là đã quá "bướng bỉnh" tại buổi đại hội và "bồn chồn như một người ngồi trên manh chiếu đầy đinh nhọn", nhưng tất cả những cái đó chỉ là vấn đề tiểu tiết cá nhân. Điều chính làm Tưởng nổi giận là sự chia ra thành các phe nhóm chống đối nhau trong Quốc dân đảng, và những phe đó chính là cộng sản và Nga sộ Tưởng thú nhận đồng ý với những tư tưởng chính trị bảo thủ với các đồng chí khác trong Quốc dân đảng. Tưởng lý luận Quốc dân đảng có thể tiếp nhận những khuynh hướng mới, nhưng không nên từ bỏ hệ thống cổ truyền. Nhiều người Tôn Dật Tiên coi là có khả năng và trung thành, nhưng thực ra họ chỉ là những người thời cợ Đúng ra Tôn Dật Tiên phải cần đến những người thực sự trung thành và tin cậy được, như chính Tưởng chẳng hạn. Tưởng lại nhắc nhở Tôn Dật Tiên rằng chỉ có mình Tưởng là người đã đứng cạnh Tôn Dật Tiên trong cuộc chiến đấu chống lại sứ quân Quảng Đông trước kia. Tưởng cho biết không thể nào điều khiển trường võ bị Hoàng Phố mà không được biết rõ những lý thuyết chính trị trong chương trình giảng dạy.
Tôn Dật Tiên cuối cùng đồng ý ủng hộ Tưởng Giới Thạch trong việc loại bỏ các chính ủy cộng sản tại trường Hoàng Phố. Ngày 3-5-1924, Tưởng Giới Thạch chính thức được bổ nhiệm chức chỉ huy trưởng trường Hoàng Phố, kiêm tham mưu trưởng quân đội Quốc dân đảng. Borodin mắc một lỗi lầm quan trọng khi nhượng bộ việc bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch. Borodin không hiểu thái độ của người Trung hoa đối với ông thày dạy mình. Người Trung hoa có ba mối ràng buộc chính yếu. Thứ nhất là tuyệt đối trung thành với gia đình. Thứ hai là trung thành với các người không cùng một huyết mạch nhưng ràng buộc qua hôn nhân. Thứ ba là mối liên hệ giữa sư phụ và đệ tử. Các sứ quân Trung hoa đã tận dụng khai thác các mối ràng buộc trung thành truyền thống này. Tưởng cũng hiểu điều này hơn ai hết. Nếu Tưởng là người chỉ huy trưởng trường Hoàng Phố thì tất cả mọi khóa sinh đều là học trò của Tưởng, và Tưởng sẽ có được sự kính trọng và trung thành của các cấp chỉ huy quân sự sau này trong quân đội Trung hoa. Đó là một thành công quan trọng nhất của Tưởng.
Borodin và Tôn Dật Tiên đồng ý rằng mục tiêu đầu tiên là thành lập một quân đội theo kiểu mẫu Nga sô, và sửa soạn một căn cứ để mở cuộc chinh phục các sứ quân miền bắc. Nga sô viện trợ ngân khoản và cố vấn. Năm 1924, ngân quỹ Quốc dân đảng thiếu hụt, và phải nhờ vào tiền của Hội Người Trung Hoa Hải Ngoại. Cuối tháng 2-1924, Tôn Dật Tiên nhận được một ngân khoản 64 ngàn đô la, có lẽ là tiền của Nga sộ Tưởng Giới Thạch hỏi lãnh tụ cộng sản Liêu Trọng Khải về nguồn gốc số tiền đó, thì được Liêu Trọng Khải trả lời, "Về tiền bạc để điều hành trường thì tôi không bao giờ hỏi xem tiền đó được tiêu dùng thế nào, thì ông cũng không nên hỏi tiền đó từ đâu tới. Tiền sẽ không bao giờ thiếu và ông cứ an tâm điều khiển trường." Về sau Mạc tư khoa công nhận chính Nga sô đài thọ cho trường Hoàng Phố, và chi phí lên tới 27 triệu đô la.


Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Chương 10 Trường Võ Bị Hoàng Phố
Trường võ bị Hoàng Phố được đặt tại một hòn đảo trên dòng sông Châu Giang, cách Quảng Châu mười dặm. Trong thập niên 1870, một căn cứ quân sự và một trường huấn luyện hải quân của nhà Mãn Thanh được thiết lập tại đây. Bây giờ người ta chỉ cần đóng thêm những căn nhà gỗ cho các khóa sinh ở.
Thoạt đầu Quốc dân đảng chỉ quyết định tuyển mộ những khóa sinh thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng những người đi tuyển mộ khóa sinh đều bị các sứ quân đối lập bắt giam hoặc ám sát hết. Do đó nhà trường phải mở một cuộc thi tuyển lựa trên toàn quốc. Tôn Dật Tiên rất ngạc nhiên khi có ba ngàn ứng viên đủ điều kiện nộp đơn. Năm trăm trong số ba ngàn ứng viên được tuyển ngay cho khóa học đầu tiên. Các trường quân sự của Trung hoa vào thời kỳ ấy thường gặp phải rất nhiều khóa sinh mù chữ, nhưng tại Hoàng Phố, hầu hết khóa sinh của lớp đầu tiên đều tốt nghiệp trung học và có trình độ văn hóa cao.
Điều Tôn Dật Tiên và Borodin không ngờ được là phần đông các khóa sinh đều là người của Lục Hội. Đám anh chị này thấy không thể bỏ lỡ cơ hội được huấn luyện tại trường Hoàng Phố, và sau này sẽ được nắm giữ những chức vụ quân sự quan trọng. Thực ra người đứng ra tuyển lựa khóa sinh là Trần Quả Phu, cháu của Trần Kỳ Mỹ. Trần Quả Phu vốn là một đảng viên quan trọng của Lục Hội từ lâu. Kể từ khi Trần Kỳ Mỹ bị ám sát chết, thì hai anh em Trần Quả Phu giữ chức vụ của Trần Kỳ Mỹ trong Lục Hội, và được Tưởng Giới Thạch đỡ đầu. Tổng cộng, Trần Quả Phu tuyển mộ được bảy ngàn khoá sinh từ mọi cấp bực của Lục Hội. Họ là những người sẽ trở thành bộ tham mưu then chốt của Tưởng Giới Thạch. Vào lúc đó đảng cộng sản cũng không được tổ chức chặt chẽ và có ảnh hưởng tới thời cuộc bằng những đàn em của Tưởng Giới Thạch tại trường Hoàng Phố.
Khóa đầu tiên tại trường Hoàng Phố khai giảng ngày 5-5-1924. Tưởng Giới Thạch nắm quyền chỉ huy trưởng, và Liêu Trọng Khải, một người khuynh tả được giáo dục tại Hoa Kỳ, là đại diện của Quốc dân đảng tại trường Hoàng Phố. Dưới quyền của Tưởng và Liêu Trọng Khải có sáu phân khoa, gồm các phân khoa chính trị, huấn luyện, giảng huấn, điều hành, quân y và quân nhụ Các giảng viên được thu nạp từ các trường quân sự Nhật Bản, trường võ bị Bảo Định và Vân Nam. Dưới sự điều hành của Liêu Trọng Khải, trường Hoàng Phố đã có một chương trình huấn luyện chính trị khá đầy đủ, gồm có các khóa học về kinh tế, lý thuyết quân chủ, lịch sử Trung hoa, và lịch sử cách mạng của tây phương. Về mặt quân sự, Tưởng Giới Thạch nhấn mạnh đến kỷ luật và bốn đức tính quân sự, như can đảm, mạo hiểm, uy quyền và đạo đức. Tinh thần trách nhiệm tập thể được đề cao.
Trường Hoàng Phố đặt nặng việc huấn luyện về kỹ thuật với các huấn luyện viên Nga sộ Lần đầu tiên một quân đội cơ khí tối tân được hình thành. Tại Trung hoa các sứ quân chỉ dùng vũ khí mới như súng và pháo binh với mục đích thay thế pháo. Các bức tường thành bao quanh các thị trấn Trung hoa thường làm bằng đất, nên chỉ cần một phát đại bác cũng đủ phá vỡ tường để xông vào chiếm thành. Theo truyền thống quân sự Trung hoa, thì các thứ đạn dược chỉ dùng để tạo ra sự nổ lớn nhằm áp đảo tinh thần đối phương để đòi một sự nhượng bộ chính trị. Nhưng chiến lược mới được giảng dạy tại trường Hoàng Phố thay đổi tất cả. Borodin và Tưởng Giới Thạch không hài lòng với những kẻ địch hoảng sợ. Hai người muốn kẻ địch phải chết, và đấy là công dụng đích thực của vũ khí tối tân.
Sau hòa ước Versailles, các nước tây phương không được phép chở vũ khí cho Trung hoa, vì thế Nga sô là nước cung cấp vũ khí cho Trung hoa nhiều nhất. Riêng trong năm 1925, Nga sô chở tới Trung hoa một số lượng vũ khí trị giá gần ba triệu đồng tiền Nga, và còn rất nhiều nằm chờ sẵn sàng tại hải cảng Vladivostok. Trước kia Tôn Dật Tiên cần tiền để thành lập quân đội, nhưng bây giờ ông còn cần tiền nhiều hơn nữa để tài trợ các cuộc hành quân trong chiến dịch Bắc phạt để thống nhất Trung hoa. Tôn Dật Tiên nghe lời Khánh Linh, triệu em vợ là Tống Tử Văn từ Thượng Hải xuống, và giao cho Tống Tử Văn nhiệm vụ chỉnh đốn lại hệ thống kinh tài trong Quốc dân đảng.
Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn cho Tống Tử Văn. Nền kinh tế của Trung hoa đang gặp khủng hoảng. Sau đệ nhất thế chiến, các nước tây phương quay trở lại khai thác Trung hoa như trước. Trong lúc đó nhiệm vụ chính của Tống Tử Văn là lo sao có đủ tiền cho các hoạt động hàng ngày của Quốc dân đảng. Sau đó Tống Tử Văn phải tổ chức lại nền kinh tế của Quảng Đông, và áp dụng được chế độ thuế khóa mới. Tống Tử Văn đã thành công hoàn thành được hai mục tiêu này.
Tống Tử Văn là một người lùn và mập, và có một khuôn mặt tròn. Ông tốt nghiệp về kinh tế tại đại học Harvard danh tiếng, và có nhiều bạn Mỹ. Tống Tử Văn đã đề nghị một loạt những biện pháp kinh tế khẩn cấp năm 1924, kể cả việc đánh thuế hầu hết mọi sản phẩm. Tháng 2 năm đó, họ Tống yêu cầu các thương gia "cho vay" mỗi người từ 5 dến 500 đô lạ Sự thành công đáng kể nhất của Tống Tử Văn là thành lập được Ngân hàng Trung ương đầu tiên tại Quảng Đông, và chính họ Tống là giám đốc. Thực ra số tiền lớn để thành lập ngân hàng này là của Nga sô cho vaỵ Trước khi có chế độ thuế khoá của Tống Tử Văn, thì các sứ quân tha hồ đánh thuế và giữ lại một phần lớn trước khi gửi cho chính quyền trung ương. Hàng hóa bị đánh thuế mỗi lần qua cổng thành hoặc qua một cây cầu.
Vì thành quả này, Tống Tử Văn được thăng thưởng lên chức bộ trưởng tài chánh. Vì hiểu được sức mạnh của ngòi bút được hỗ trợ bằng súng đạn, Tống Tử Văn thành lập một quân đội và các quan tòa riêng để đi thâu thuế. Trong thời gian hai năm Tống Tử Văn giữ chức bộ trưởng tài chánh, ngân quỹ của tỉnh Quảng Đông gia tăng gấp mười lần, từ 8 triệu năm 1924 lên đến 80 triệu năm 1926 mà không phải tăng thuế.
Sự thành công của Tống Tử Văn thật là lớn lao, nhưng cũng tạo ra một sự chống đối mới. Giới tư bản tại Quảng Đông vốn đã e dè trước sự liên hệ chặt chẽ với chế độ cộng sản Nga của Tôn Dật Tiên, nay họ coi Tống Tử Văn chỉ là một người Bôn-sê-vích, một người thâu thuế cho Tôn Dật Tiên. Các thương gia tư bản Quảng Đông coi Tôn Dật Tiên cũng chỉ là một sứ quân, và một thứ sứ quân nguy hiểm đối với họ vì dính dấp với cộng sản. Các hội viên phòng Thương Mại Quảng Đông bắt đầu thảo luận việc thành lập một đạo quân riêng. Họ đã chán bị bắt nạt, và sẵn sàng đứng lên chống lại Tôn Dật Tiên.
Phòng Thương Mại Quảng Đông được Anh quốc trợ giúp ngầm để thành lập một Lực lượng Tình nguyện của Thương gia. Người đứng đầu là thương gia Trần Liên Phố, một tỷ phú có rất nhiều cơ sở thương mại và kỹ nghệ, như cơ xưởng dệt lụa, hai hãng bảo hiểm, mười ngân hàng và vô số những tiệm cầm đồ. Trần Liên Phố có rất nhiều tài sản tại Trung hoa và hải ngoại, và cũng là một nhà mại bản mạnh nhất tại miền nam Trung hoa. Thoạt đầu Trần Liên Phố yêu cầu các thương gia phải đóng tiền ủng hộ Lực lượng Tình nguyên, một lực lượng đông tới 50 ngàn binh sĩ. Lực lượng này cũng nhận được vũ khí và ngân quỹ hoạt động từ Anh quốc. Khi Tống Tử Văn áp dụng chế độ thuế khóa mới thì Lực lượng Tình nguyện bắt đầu tồn trữ vũ khí đợi ngày khai chiến. Lực lương đặt mua năm ngàn khẩu súng của Đức, nhưng khi số súng này chở tới Quảng Đông thì bị chính quyền Tôn Dật Tiên bắt được. Những súng bị tịch thu được chở tới giao cho trường võ bị Hoàng Phố. Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho các khóa sinh phải sẵn sàng tấn công Lực lượng Tình nguyện của Thương gia.
Ngay lập tức, lãnh sự Anh tại Quảng Châu hăm dọa Tôn Dật Tiên rằng hải quân Anh sẽ can thiệp nếu Quốc dân đảng tấn công Lực Lượng Tình nguyện của Thương Gia. Tôn Dật Tiên nổi giận đánh điện phản kháng với chính phủ Anh, nhưng không được phúc đáp. Phòng Thương mại đòi Quốc dân đảng trả lại cho họ số vũ khí bị tịch thu, và phát động một cuộc chống đối việc tăng giá gạo. Borodin đề nghị Tôn Dật Tiên ra lệnh thiết quân luật, tịch thu mọi cửa tiệm đình công đóng cửa, và cấm di chuyển hàng hóa ra khỏi thành phố. Borodin cũng ra lệnh cho đảng cộng sản và công nhân cũng như nông dân đứng lên chống lại Lực lượng Tình nguyện của Thương Gia. Trong lúc số phận Quảng Châu đang lâm vào tình trạng nguy hiểm thì Tôn Dật Tiên thấy rằng không nên làm hại mộng lớn thống nhất đất nước của ông chỉ vì một biến cố địa phương. Tôn Dật Tiên liền phát động chiến dịch Bắc phạt. Borodin và Tưởng Giới Thạch vô cùng tức giận. Đúng lúc đó thì chiếc tàu Vorovsky của Nga sô chở vũ khí từ Vladivostok tới nơi.
Khi nghe tin có vũ khí mới từ Nga sô tới, Tôn Dật Tiên ra lệnh cho Borodin gửi ngay vũ khí đó ra mặt trận cho ông. Tưởng Giới Thạch rất quan tâm đến tình hình tại Quảng Châu, bèn khuyên Borodin không nên nghe lời Tôn Dật Tiên. Tôn Dật Tiên càng tức giận và đánh điện bắt Tưởng Giới Thạch phải ra mặt trận trình diện ông ngaỵ Tường từ chối không tuân lệnh Tôn Dật Tiên. Phòng Thương mại đề nghị trả 200 ngàn đô la cho số vũ khí của họ bị tịch thụ Tôn Dật Tiên thấy rằng có thể trả lại một phần vũ khí cho phòng Thương mại, vì đã có vũ khí mới của Nga sô vừa chở tới. Ông ra lệnh phải trả cho phòng Thương mại một nửa số vũ khí bị tịch thụ Tưởng Giới Thạch đồng ý, nhưng chỉ trả lại súng thôi, và giữ lại tất cả đạn dược.
Ngày lễ Song Thập năm đó được tổ chức trọng thể bằng một cuộc diễn hành của các khóa sinh trường võ bị Hoàng Phố, trong đó có cả Lâm Bưu. Các khóa sinh được tăng cường bằng các quân đoàn sinh viên và quân đoàn công nhân của Quốc dân đảng. Dân chúng nghi ngờ không biết cuộc diễn hành này là một cuộc lễ kỷ niệm thực sự, hay là một sự cố tình gây hấn của Borodin và Tưởng Giới Thạch. Đoàn diễn hành tiến thẳng tới bến tàu, nơi phe Lực lượng Tình nguyện của Thương Gia đang chuyển vũ khí được trả lại xuống tàu. Hai bên đụng độ nhau, và bên Quốc dân đảng có một số người bị bắn hạ.
Tôn Dật Tiên vội trở về Quảng Châu thì thấy Borodin và Tưởng Giới Thạch đang sửa soạn cuộc tấn công vào Lực lượng Tình Nguyện của Thương Gia. Cuộc tấn công sẽ khởi sự vào nửa đêm, và lực lượng tấn công của Tưởng gồm có 800 khoá sinh trường Hoàng Phố, 220 khóa sinh của Hồ Nam Quân Học Viện, 500 khóa sinh của Vân Nam Quân Học Hiệu, vài ngàn cảnh sát, 250 binh sĩ, tất cả các cố vấn quân sự người Nga, và 320 công nhân tự vệ do Mao Trạch Đông huấn luyện. Tống Tử Văn cẩn thận di chuyển tất cả tiền bạc của chính phủ lên chiếc tàu Vorovsky của Ngạ Sau đó là lệnh di tản các nhân vật quan trọng như Tôn Dật Tiên, Tống Khánh Linh, Tống Tử Văn, Borodin, và các cố vấn Nga sô.
Đúng 10 giờ đêm, các khóa sinh Hoàng Phố của Tưởng mở cuộc tấn công khắp thành phố. Đây không phải là một cuộc phục kích thông thường. Nhiều khu vực của thành phố bị đốt cháy. Các cuộc chiến đấu ngoài đường phố thật là đẫm máu. Sự tàn phá tài sản và thiệt hại nhân mạng ghê gớm đến nỗi các thương gia Quảng Châu mất tinh thần. Sau 20 giờ hỗn loạn, các thương gia đầu hàng. Những toán Lực lượng Tình nguyện sống sót đều bị khóa sinh Hoàng Phố tước khí giới. Ngày hôm đó được gọi là Ngày Thứ Tư Đẫm Máu. Đến chiều tối hôm đó, thành phố Quảng Châu chỉ còn là những đám lửa cháy chưa tắt. Các khu vực người ngoại quốc cũng bị đốt cháy và bị cướp bóc tài vật.
Đối với Tưởng Giới Thạch thì đây là một chiến thắng huy hoàng. Tưởng và phe nhóm tại Thượng Hải không thương tiếc gì sự hủy hoại của phe tư bản tại Quảng Châu. Đây chỉ là một màn chó cắn lẫn nhau, giữa những phe tư bản vốn thù nghịch nhau. Trận đánh này là dịp thực tập tốt đẹp nhất cho các khóa sinh của Tưởng Giới Thạch, và cũng dạy các thương gia Quảng Châu một bài học về chính trị của thế kỷ 20. Kể từ đó, quân đội Quốc dân đảng làm chủ Quảng Đông.
Borodin bình tĩnh nhận xét tình hình. Quân đội mà Borodin thành lập và Tưởng Giới Thạch huấn luyện đã hành động thành công đúng theo nhật lệnh, mặc dù quân đội ấy phải đương đầu với một địch quân đông gấp mười lần. Các cố vấn quân sự Nga đã chứng tỏ tài năng của họ. Một điều may mắn là đúng lúc cần nhất thì có vũ khí của Nga sô chở tới.
Sự bất tuân lệnh của Tưởng Giới Thạch làm Tôn Dật Tiên rất khó chịu, nhưng nay trước chiến thắng lớn lao này, Tôn Dật Tiên cũng phải cố nuốt đi sự chua chát. Để bày tỏ sự vui mừng của mình, Tôn Dật Tiên sai thiết lập một khải hoàn môn ngay trước con tàu Vorovsky của Ngạ Trong y phục toàn trắng, Tôn Dật Tiên và bộ tham mưu tiến lên tàu Vorovsky, ngỏ lời cám ơn các cố vấn, thuyền trưởng và hải hành đoàn Nga sô.
Chiến thắng Quảng Châu là một thành công quân sự của Tưởng Giới Thạch và các khóa sinh Hoàng Phố, nhưng đối với Tôn Dật Tiên thì đó là một thất bại chính trị to lớn. Trước khi rời Quảng Châu đi chinh phạt miền bắc, Tôn Dật Tiên cho biết Quảng Châu là một vấn đề đã chết. Cả thành phố đã chống lại Quốc dân đảng. Nhưng Tưởng Giới Thạch và Borodin không nghe lời Tôn Dật Tiên cứ tiến hành việc trừng phạt Quảng Châu. Thành phố Quảng Châu không bao giờ tha thứ cho Quốc dân đảng. Tôn Dật Tiên nói với các lãnh tụ Quốc dân đảng rằng phá hủy một thành phố không có ích lợi gì cả; khi tất cả một thành phố đứng lên chống lại Quốc dân đảng thì đó là một thất bại của Quốc dân đảng. Bây giờ Tôn Dật Tiên cần một thành phố khác thay thế Quảng Châu làm thủ đô cho nước cộng hòa của ông.

1 nhận xét: